Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tiểu luận môn đường lối đề tài xây DỰNG nền KINH tế độc lập tự CHỦ kết hợp với hội NHẬP KINH tế QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.09 KB, 15 trang )

I.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1. Mội vài khái niệm
a. Nền kinh tế độc lập tự chủ
Trước đây, khi nói đến nền kinh tế độc lập tự chủ người ta thường
liên tưởng tới một nền kinh tế tự lực cánh sinh, “tự cấp tự túc”, biệt lập, khép
kín, ít giao lưu hợp tác với bên ngồi, trong đó phải có đủ các ngành kinh tế,
phải có cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh, phải tự đảm
bảo được mọi nhu cầu trong nước, hay ít nhất phải là những nhu cầu thiết
yếu. Và chỉ với nền kinh tế như vậy, chủ quyền quốc gia mới được đảm bảo,
mới khơng bị lệ thuộc vào bên ngồi và mới tự quyết định được các vấn đề
của đất nước.
Đại hội Đảng IX quan niệm rằng... ‘Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc
lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh:
có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp
lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành
cơng nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ;
giữ vững ổn định kinh tế - tài chính vĩ mơ; bảo đảm an ninh lương thực, an
tồn năng lượng, tài chính, mơi trường...’.
Qua đó có thể thấy rằng nền kinh tế độc lập là nền kinh tế không bị lệ
thuộc, phụ thuộc vào nước khác hoặc một tổ chức kinh tế nào về đường lối,
chính sách phát triển không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài
chính, thương mại, viện trợ... để áp đặt, khống chế, làm hại đến chủ quyền
quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Nền độc lập, tự chủ là nền kinh tế trước biến động của thị trường,
trước sự khủng hoảng kinh tế của nền kinh tế tài chính ở bên ngồi, nó vẫn
có khả năng cơ bản duy trì ổn định và phát triển; trước sự bao vây chống phá


của các thế lực thù địch vẫn có khả năng đứng vững, không bị sụp đổ, không


bị rối loạn.
b.

Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản và phổ biến trên thế giới là

sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực
và toàn cầu trong đó các thành viên quan hệ với nhau theo nguyên tắc, quy
định chung.
Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế trước kia chỉ đơn thuần là những
hoạt động giảm thuế, mở rộng thị trường cịn ngày nay nó được hiểu là việc
một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế
- tài chính quốc tế, thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư.
Như vậy hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh ngày nay không đơn
thuần là giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế mà đã được mở rộng cho tất
cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế- thương mại, nhằm mục
tiêu mở rộng thị trường hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và
vơ hình đối với trao đổi thương mại quốc tế từ đó đem lại nhiều cơ hội kinh
tế như hàng hố xuất khẩu có thể tiếp cận thị trường tốt hơn, thu hút được
nhiều vốn đầu tư nước ngồi hơn và nhiều lợi ích gián tiếp khác đi liền với
cạnh tranh quốc tế gay gắt và tăng dần hiệu qủa kinh tế theo quy mô.
2. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập
kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang trở thành một xu thế khách
quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, không kể nước đang phát
triển hay phát triển, nước giàu hay nước nghèo. Bước vào thế kỉ XXI, việc
hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề mang tính thời đại và mang tính sống cịn
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Đặc trưng nổi bật của hội nhập kinh
tế là nền kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thế, trong đói



mỗi quốc gia là một bộ phận có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với
nhiều hình thức phong phú. Với nhu cầu không giới hạn của con người, một
quốc gia dù lớn, dù giàu đến đâu cũng không thể tự sản xuất, cung cấp tất cả
những sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của quốc gia đó.Do đó, hội nhập kinh tế
quốc tế trở thành một xu thế tất yếu khách quan trong điều kiện hiện nay.
Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm cho các quốc gia ngày
càng phụ thuộc nhau về vốn, công nghệ, nguyên liệu và thị trường, nó tạo
điều kiện cho chủ nghĩa thực dân kinh tế phát triển dưới những hình thức
ngày càng tinh vi, nguy hiểm khơng kém gì chủ nghĩa thực dân kiểu cũ.
Trong xu thế này, quốc gia nào có chiến lược, chính sách, biện pháp và cơng
cụ quản lý hợp lý sẽ mang lại lợi ích, sự phát triển về kinh tế cho quốc gia đó
và ngược lại sẽ có thể mang lại những kết quả xấu. Vì vậy, đi song song với
hội nhập kinh tế quốc tế cần phải có sự thống nhất nhận thức về giữ độc lập,
tự chủ của nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Đây là một mối lo ngại lớn
của các nước đặc biệt là các nước đang phát triển, vì hầu hết các nước này
có xuất phát điểm từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, khoa học cơng
nghệ cịn kém, năng suất lao động cịn thấp dẫn đến việc khó tránh khỏi bị lệ
thuộc vào các nước có nền kinh tế phát triển, để tránh khỏi những tác động
tiêu cực do hội nhập kinh tế quốc tế gây ra, cần xây dựng một nền kinh tế
độc lập tự chủ, vững mạnh chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của quá trình
hội nhập kinh tế đến nền kinh tế của mỗi quốc gia. Để làm được điều này,
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần phải phát huy tính độc lập, tự
chủ, phát huy nội lực của nền kinh tế, phải lấy nội lực của quốc gia làm yếu
tố quyết định cho sự phát triển của nền kinh tế, và cũng cần coi trọng, lợi
dụng các yếu tố bên ngồi để hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của nền kinh
tế.


→ Như vậy, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế

quốc tế là 2 q trình cần diễn ra một cách song song, có sự liên hệ chặt chẽ,
hỗ trợ lẫn nhau.
II.

THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP
TỰ CHỦ GẮN VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở
VIỆT NAM.

1. Chủ trương của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với
hội nhập kinh tế quốc tế.
Chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về độc lập tự
chủ và hội nhập quốc tế được thể hiện rõ qua các Văn kiện đại hội Đảng:
− Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (6/1996), khái niệm "hội nhập" được chính
thức đề cập cùng với chủ trương: "xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới, hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực. Tăng cường hoạt động ở Liên hợp
quốc, trong Cộng đồng các nước sử dụng tiếng Pháp, các tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế và các tổ chức quốc tế khác".
− Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001) đã chỉ rõ mối quan hệ giữa độc lập tự chủ
và hội nhập kinh tế quốc tế: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân
tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ mơi
trường.
− Đại hội IX nhấn mạnh: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Đại
hội đề ra nhiệm vụ: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,



bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
bảo vệ mơi trường
− Đại hội Đảng lần thứ X (4/2006) tiếp tục khẳng định "chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế", đồng thời "mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh
vực khác", nhấn mạnh chủ động và tích cực hội nhập kinh tế, còn đối với
các lĩnh vực khác chỉ mới chủ trương mở rộng hợp tác.
− Đại hội XI của Đảng ta đã giải quyết nhiều vấn đề trọng đại, trong đó có
việc thơng qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (sau đây gọi tắt là Cương lĩnh 2011) và Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011-2020 (gọi tắt là Chiến lược 2011-2020). Một trong
những nội dung trọng tâm thể hiện cả trong Cương lĩnh 2011 lẫn trong
Chiến lược 2011-2020 là đường lối “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát
triển năm 2011) đã xác định: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi
ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
− Đại hội XII của Đảng đã nêu ra được một số chủ trương cụ thể: Tăng cường
công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức; Hoàn thiện hệ thống pháp luật và
nâng cao năng lực thực thi pháp luật; Nâng cao năng lực cạnh tranh; Tập
trung ưu tiên phát triển nông nghiệp gắn với xây dựng nơng thơn mới; Tăng
cường quốc phịng, an ninh; Nâng cao và phát huy hiệu quả uy tín và vị thế
quốc tế; Bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc; Giải quyết tốt
các vấn đề xã hội; Giải quyết tốt các vấn đề môi trường; Đổi mới tổ chức,
hoạt động của tổ chức công đoàn và quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các
tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.
2. Thực trạng về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với hội nhập

kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
a.
Thành tựu


Trong 30 năm đổi mới, nhờ ra sức xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ và chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử:
− Việt Nam đã được Liên Hợp quốc đưa ra khỏi nhóm nước kém phát triển, đã
trở thành nước có thu nhập trung bình. Việt Nam là một trong số ít nước
chuyển đổi thành cơng từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước mà vẫn giữ được sự ổn định
chính trị - xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô. Từ chỗ thiếu lương thực, đến nay
Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu
thế giới. Từ chỗ khan hiếm hàng hóa, hiện nay trên thị trường mọi thứ hàng
hóa được mua bán, đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của nhân dân
và các doanh nghiệp. Từ chỗ siêu lạm phát, hiện nay chỉ còn 1 chữ số. Một
trong những thắng lợi lớn của nền kinh tế nữa, đó là bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư trong sản xuất nông nghiệp. Đồng thời,
phát huy tính tự chủ của các hộ nơng dân, nhờ vậy mà giải phóng được sức
sản xuất, tăng nhanh sản lượng hàng hoá, nhất là lương thực - thực phẩm để
xố đói, giảm nghèo và đẩy mạnh xuất khẩu. Bộ mặt nông thôn Việt Nam đã
thay đổi rõ rệt về nhiều mặt, tuy chưa đều giữa các vùng.
− Chúng ta đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát
triển kinh tế - xã hội. Thị trường không ngừng được mở rộng, nguồn vốn tài
trợ và đầu tư vào nước ta không ngừng gia tăng. Nếu đầu thập niên 90 của
thế kỷ trước, chúng ta mới có quan hệ kinh tế - thương mại với gần 30 nước
và vùng lãnh thổ thì đến nay đã có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 220
nước và vùng lãnh thổ. Tổng kim ngạch ngoại thương đã lớn hơn rất nhiều
so với tổng sản phẩm trong nước. Đã thu hút được hơn 200 tỷ USD vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với trên 13 nghìn dự án đã được cấp phép và
đã giải ngân được trên 80 tỷ USD. Năm 2013, thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) cũng tăng lên với nhiều dự án lớn, đưa Việt Nam vào nhóm 15
quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới. Trong bối cảnh nguồn vốn tài trợ


chính thức cho phát triển (ODA) của thế giới giảm, ta vẫn nhận được hơn 33
tỷ USD viện trợ từ các nước và các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế như
IMF, WB, ADB. Trong năm 2011, khi nền kinh tế thế giới phải đối mặt với
những khó khăn gay gắt, kim ngạch xuất khẩu của nước ta vẫn tăng trên
30%; các nhà tài trợ vẫn cam kết dành cho Việt Nam khoản tài trợ 7,4 tỷ
USD. Hiện Việt Nam có 51 nhà tài trợ lớn, trong đó có 28 nhà tài trợ song
phương và 23 nhà tài trợ đa phương. Kết quả này chứng tỏ đường lối đổi
mới và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đạt được thành công đáng ghi
nhận.
− Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang trong
quá trình đàm phán 6 FTA với những đối tác quan trọng hàng đầu của
thương mại thế giới gồm TPP, FTA với EU, Hàn Quốc và các nước trong
liên minh thuế quan Nga - Belaruts - Kazakhstan và Hiệp định đối tác kinh
tế toàn diện khu vực... Trên phương diện đa phương, các cam kết trong
WTO gần như đã được thực hiện đầy đủ và đã có thể có đánh giá tương đối
tồn diện, chi tiết tác động của các cam kết gia nhập. Trên bình diện khu
vực, Việt Nam cũng hội nhập ngày càng sâu với ASEAN, hướng tới hình
thành Cộng đồng kinh tế ASEAN 201 Từ khi Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ký kết các hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng,
cơ hội việc làm và thu nhập cho người lao động tăng lên rõ rệt. Dự kiến
trong giai đoạn 2011 - 2020, việc làm mới tạo ra tiếp tục tăng bình quân 2,4
- 2,8%/năm (tương đương 1,1 - 1,3 triệu việc làm). Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm
còn 4,78% vào năm 2015 và 4,23% vào năm 2025.

− Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới suy thoái, tốc độ tăng trưởng GDP của
nhiều quốc gia suy giảm, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tỷ lệ
tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2013 tăng 5,42%,
cao hơn mức tăng 5,25% của năm 2012 và năm 2014 tăng 5,98%. Sức mạnh
về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh


thổ và chế độ XHCN được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta phát triển mạnh mẽ
hơn trong giai đoạn mới”.
 Sức mạnh về mọi mặt” của đất nước đã tạo tiền đề vật chất - tinh thần quyết
định cho việc giữ vững, bảo đảm độc lập, tự chủ của đất nước trên tất cả các
lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại.
b.

Hạn chế
Bên cạnh rất nhiều những thành tựu mà Đảng và Nhà nước ta đã đạt

được trong chủ trương về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với hội
nhập kinh tế quốc tế còn rất nhiều những hạn chế cần phải khắc phục:
− Thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tuy đã có những chuyển
biến tích cực nhưng vẫn cịn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, đơi khi lúng túng.
− Sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam mặc
dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước, kể cả nhiều nước
trong khu vực.
− Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần làm bộc lộ những yếu kém cơ bản của
nền kinh tế, nhất là cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được
cải thiện về căn bản...
− Nhìn chung Việt Nam vẫn là nước nhập siêu “trường kỳ”, đặc biệt từ Trung

Quốc, Việt Nam vẫn chưa chủ động trong xuất khẩu khiến Việt Nam bị
“thua” ngay cả ở những mặt hàng có thế mạnh như gạo, cà phê. Trên thực tế,
Việt Nam tăng trưởng nhanh nhưng đẳng cấp không cải thiện. Năng suất,
năng lực cạnh tranh chưa có sự cải thiện rõ rệt, nguồn nhân lực vừa thừa (lao
động chưa qua đào tạo, thiếu kỹ năng) vừa thiếu (lao động chất lượng cao),
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Thực tế này là một trở lực đối với mục
tiêu độc lập, tự chủ về kinh tế.
 Nguyên nhân chính dẫn đến các hạn chế nêu trên trước hết do các doanh
nghiệp chưa thực hiện đúng, đủ, kịp thời các quan điểm, chỉ đạo của Đảng,


Chính phủ, cịn tồn tại tư duy của người sản xuất nhỏ, manh mún. Quá trình
chuẩn bị các điều kiện cho hội nhập chưa kịp thời, phù hợp.
− Bên cạnh đó, cũng đã xuất hiện các dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô: các
khoản nợ công, nợ của Chính phủ có xu hướng gia tăng, đe dọa trực tiếp an
ninh tài chính quốc gia; tỷ lệ lạm phát cao hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP, cơ cấu
kinh tế dịch chuyển chậm; hiệu quả đầu tư thấp; sức cạnh tranh của nền kinh
tế không được cải thiện... Những điểm đó nói lên rằng, nền kinh tế đã có
những bước phát triển nhanh, nhưng nội lực nền kinh tế quốc gia vẫn còn yếu
kém và dễ bị tổn thương trước những biến động bất lợi từ bên ngoài. Một nền
kinh tế tăng trưởng nhanh không luôn đồng nghĩa với nền kinh tế mạnh, nhất
là khi Việt Nam đang ở trong một thế giới hội nhập và cạnh tranh khốc liệt.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
1. Cơ hội và thách thức
a. Cơ hội
− Chúng ta đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát
triển kinh tế - xã hội. Thị trường không ngừng được mở rộng, nguồn vốn tài
trợ và đầu tư vào nước ta không ngừng gia tăng. Nếu đầu thập niên 90 của thế
kỷ trước, chúng ta mới có quan hệ kinh tế - thương mại với gần 30 nước và
vùng lãnh thổ thì đến nay đã có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 220

nước và vùng lãnh thổ. Tổng kim ngạch ngoại thương đã lớn hơn rất nhiều so
với tổng sản phẩm trong nước. Đã thu hút được hơn 200 tỷ USD vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) với trên 13 nghìn dự án đã được cấp phép và đã
giải ngân được trên 80 tỷ USD.
− Cơ hội việc làm và thu nhập cho người lao động tăng lên rõ rệt sau khi Việt
Nam gia nhập WTO. Dự kiến trong giai đoạn 2011 - 2020, việc làm mới tạo
ra tiếp tục tăng bình quân 2,4 - 2,8%/năm (tương đương 1,1 - 1,3 triệu việc
làm). Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm còn 4,78% vào năm 2015 và 4,23% vào năm
2020.
− Với việc chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) năm 2007, nền kinh tế nước ta đã hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế
tồn cầu. Các cam kết với WTO là khn khổ chung để chúng ta đẩy mạnh


cải cách trong nước, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, Ðại hội XI của Đảng (năm 2011) đã nâng tầm chủ
trương thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, được cụ thể hóa bằng
Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI (tháng 4-2013), để khẳng
định rằng hội nhập quốc tế khơng cịn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở
rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phịng, an ninh và văn
hóa - xã hội....
− Từ chỗ đứng ngồi, nước ta đã là thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và
thế giới. Từ chỗ chỉ có các hiệp định kinh tế song phương dựa trên nguyên
tắc lỏng lẻo, nước ta đã tiến tới có các hiệp định kinh tế mang tính thể chế cao
hơn trên cả cấp độ song phương, đa phương khu vực và toàn cầu, trong đó có
những hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại Việt Nam - Liên minh
châu Âu (VEFTA),... thể hiện sự tích cực, chủ động đẩy nhanh quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng.
b. Thách thức

Cục diện thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng, phức
tạp, ảnh hưởng sâu sắc đến xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế của nước ta, chúng ta còn nhiều thách thức cần vượt qua:
− Tính bất định, khó dự báo của các khuynh hướng phát triển toàn cầu đang
đưa đến những rủi ro không nhỏ đối với quá trình hội nhập quốc tế của đất
nước ta. Kinh tế thế giới vẫn đang trong thời kỳ chưa ổn định, tăng trưởng
diễn ra khơng đều; các dịng vốn đầu tư di chuyển khó lường, nhất là khi
năng lực đối phó của đất nước ta vẫn chưa đủ mạnh, các yếu kém nội tại của
nền kinh tế vẫn chưa được xử lý.
− Sự đan xen của các quá trình hội nhập đa phương và song phương đang đưa
thế giới đến một “cấu trúc ma trận” các FTA trên nhiều tuyến và nhiều cấp
độ, trong đó phải kể đến các FTA thế hệ mới và những “siêu FTA” như TPP.
Việc quyết định tham gia các FTA thế hệ mới vừa là bước chuyển, vừa là


thách thức mới đối với nền kinh tế nước ta. Sức ép làm thay đổi chính sách
đến theo nhiều kênh, nhiều tuyến sẽ tạo ra tác động nhiều chiều, khó đối phó
và kiểm sốt. Nhiều nhóm lợi ích kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau,
cũng sẽ hình thành và là một trong những nguyên nhân tiềm tàng gây mâu
thuẫn trong xã hội, đặt nước ta vào những quyết định khó khăn khi phải xử lý
các vấn đề nảy sinh trong tiến trình hội nhập. Hơn nữa, bản thân các FTA là
không đủ để giúp Việt Nam hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đất nước.
Mặc dù có thể giúp tiếp cận tốt hơn thị trường của các đối tác, gia tăng khối
lượng thương mại và đầu tư trong ngắn hạn, nhưng các FTA vẫn không bảo
đảm được nền kinh tế Việt Nam có thể vượt lên khỏi phân khúc thấp của
chuỗi giá trị toàn cầu hay đem lại nhiều việc làm có năng suất cao hơn, bởi lẽ
những điều này chủ yếu phụ thuộc vào tiến độ cải cách trong nước. Trong xu
thế cạnh tranh ngày càng gay gắt, thách thức đối với nền kinh tế nước ta đã
trở nên hiện hữu trong khi cơ hội mà hội nhập đem lại mới chỉ ở dạng tiềm
năng.

− Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh chóng, đặc biệt với
những đột phá cơng nghệ trong các lĩnh vực, như trí tuệ nhân tạo, robot,
internet kết nối vạn vật,... đem đến sự thay đổi vượt bậc cho chất lượng cuộc
sống, việc làm, sản xuất và các quan hệ chính trị - xã hội. Xu thế đổi mới
cơng nghệ diễn ra với tốc độ rất nhanh đặt ra nhiều vấn đề về mơ hình phát
triển và con đường “đi tắt, đón đầu” của nước ta.
− Cùng với sự bấp bênh của mơi trường kinh tế tồn cầu, mơi trường chính trị
và an ninh thế giới cũng biến động khó lường, ẩn chứa nhiều rủi ro cho q
trình phát triển. Các nước lớn cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng ảnh
hưởng. Tương quan sức mạnh và tập hợp lực lượng của các cường quốc thay
đổi nhanh chóng, đặt các nước nhỏ đứng trước những lựa chọn chính sách
khó khăn.
2. Giải pháp và kiến nghị
a. Giải pháp


− Thứ nhất, chúng ta cần hoàn thiện, bổ sung đường lối chung và đường lối
kinh tế, xây dựng và phát triển đất nước. Tạo cơ sở vững chắc về chính trị, ổn
định xã hội, phát huy nội lực, phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của
cả nền kinh tế, của từng ngành và từng doanh nghiệp.
− Thứ hai, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là nhiệm vụ
trọng tâm nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất
cho CNXH, giúp chúng ta đi tắt, đón đầu, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với các nước khác.
− Thứ ba, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động HNKTQT đáp ứng
yêu cầu và lợi ích của đất nước trong quá trình phát triển đồng thời qua đó
phát huy vai trị của nước ta trong quá trình hợp tác với các nước, các tổ chức
khu vực và thế giới.
− Thứ tư, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng đổi mới, hồn
thiện thể chế kinh tế, hành chính, đặc biệt là tăng cường áp dụng khoa học

công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành
kinh tế, nhất là những ngành có vị thế của Việt Nam.
− Thứ năm, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong
hội nhập quốc tế. Mở rộng quan hệ quốc tế phải quán triệt và thực hiện
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tơn trọng độc lập, chủ quyền và khơng can
thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; giải
quyết các tranh chấp bằng thương lượng hịa bình.
b. Kiến nghị
− Tăng cường cơng tác thông tin tuyên truyền, quán triệt nhận thức về hội nhập
kinh tế quốc tế trong toàn Đảng, toàn dân.
− Cần tiếp tục phát huy kết quả đã đạt được, cần nắm bắt kịp thời, sâu sắc
những thay đổi về kết cấu độc lập tự chủ của Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
− Giữ vững ổn định về chính trị, xã hội; kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững;
củng cố quốc phòng - an ninh vững mạnh; xây dựng nguồn nhân lực đối
ngoại trung thành và chuyên nghiệp; đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ
quốc tế.


− Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo
chiến lược xu hướng thế giới, cục diện và tác động của tình hình thế giới đối
với Việt Nam.
− Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ có khả năng thích ứng cao với
những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến
động đó.


KẾT LUẬN
Ngày nay, thế giới ln ln có những biến động khơng ngừng, xu
thế hội nhập tồn cầu hóa kinh tế đang là khuynh hướng phát triển chủ

đạo của nền kinh tế thế giới. Mỗi quốc gia trên thế giới đặc biệt là Việt
Nam đều khơng thể đứng ngồi xu thế phát triển chung này được.
Về lâu dài, quá trình hội nhập sẽ làm mờ nhạt đi biên giới giữa các
khơng gian kinh tế quốc gia và dần dần hình thành nên những không gian
kinh tế rộng lớn hơn bao gồm nhiều nước và lãnh thổ kinh tế.Có thể nói
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo điều kiện xây dựng thành
công một nền kinh tế độc lập tự chủ. Mặt khác có độc lập tự chủ về kinh
tế thì mới có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, bảo đảm
chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Tất cả vì một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh vững bước đi
lên Chủ nghĩa xã hội.
Với nhận thức như trên về chiều hướng phát triển và tác động lâu
dài của hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần có sự đổi mới phù hợp hơn
về tư duy kinh tế độc lập tự chủ trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế để xác định đúng đắn các chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội trung hạn và dài hạn cũng như các chính sách kinh tế cụ thể, đưa
đất nước ta tiến nhanh, mạnh và vững chắc trên con đường cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Đường lối Đảng cộng sản Việt Nam – Nhà xuất bản
Giáo dục.
2. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ: VIII, IX, X, XI, XII.
3. Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX của Đảng – Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
4. />5. />6. />7. o/index.php/khxhvn/article/viewFile/23483/2
0071
8. />



×