Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tiểu luận môn đường lối đề tài quá trình việt nam hội nhập ASEAN từ 1995 tới nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.66 KB, 19 trang )

I. Cơ sở của việc Việt Nam hội nhập ASEAN:
1. Khái quát về tổ chức ASEAN:
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations,
viết tắt là ASEAN) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của
các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8
tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái
Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, và Philippines, nhằm biểu hiện tinh thần
đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình
trạng bạo động và bất ổn tại những nước thành viên. Sau Hội nghị Bali
năm 1976, ASEAN xúc tiến chương trình cộng tác kinh tế, nhưng các nỗ lực đều
đi đến bế tắc vào giữa thập niên 1980. Phải đợi đến năm 1991, khi Thái Lan đề
xuất thành lập khu vực thương mại tự do, thì Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN mới hình thành. Hàng năm, các nước thành viên đều luân phiên tổ chức
các cuộc hội họp chính thức để tăng cường hợp tác. Tính đến
năm 1999, ASEAN gồm có 10 quốc gia thành viên (trừ Đông Timor và Papua New
Guinea chưa kết nạp, hiện đang giữ vai trò quan sát viên).
Sau 4 thập kỷ tồn tại và phát triển, ASEAN đã lớn mạnh thành một trở thành
một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết, có vai trò quan trọng đóng góp cho hòa
bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và là đối tác không thể thiếu của các nước và
các tổ chức lớn trên thế giới. Trên nền tảng đó, ASEAN đã nhất trí đẩy mạnh hợp
tác và tăng cường liên kết nhằm hướng tới xây dựng một Cộng đồng ASEAN vững
mạnh dựa trên ba trụ cột là Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-Xã hội vào năm
2015.
Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN nhằm mục tiêu tạo dựng một môi
trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực Đông Nam Á thông qua việc
nâng hợp tác chính trị-an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia và đóng
góp xây dựng của cả các đối tác bên ngoài.
Cộng đồng Kinh tế ASEAN nhằm mục tiêu tạo ra một thị trường chung duy
nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa,
dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động; từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy sự



thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo ra sự hấp dẫn với đầu tư-kinh doanh từ bên
ngoài.
Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN với mục tiêu tổng quát là phục vụ và nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân ASEAN, tập trung xử lý các vấn đề liên
quan đến bình đẳng và công bằng xã hội, bản sắc văn hóa, môi trường, tác động
của toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ.
2. Tầm quan trọng của việc hội nhập ASEAN với Việt Nam:
Năm 1992, Việt Nam tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông - Nam
Á (TAC) và trở thành quan sát viên, tham dự các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN
(AMM) hằng năm. Trong thời gian này, Việt Nam cũng bắt đầu tham gia các hoạt
động của một số ủy ban hợp tác chuyên ngành ASEAN.
Tháng 7-1994, Việt Nam được mời tham dự cuộc họp đầu tiên của Diễn đàn
Khu vực ASEAN (ARF) và trở thành một trong những thành viên sáng lập của
Diễn đàn này.
Ngày 28-7-1995, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28
(AMM-28) tại Bru-nây Đarút-xa-lem, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và
trở thành thành viên thứ bảy của tổ chức này.
Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập, tham gia sâu rộng vào
tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN và có những đóng góp tích cực trong việc
duy trì đoàn kết nội khối, tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên cũng như
giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, góp phần không nhỏ vào sự phát triển và
thành công của ASEAN ngày hôm nay.
3. Khái quát về việc tham gia ASEAN đối với Việt Nam
Quá trình tham gia ASEAN đã mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng
và thiết thực. Trước hết, việc gia nhập ASEAN đã góp phần bảo đảm môi trường
hòa bình, ổn định cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Suốt 20 năm qua,
Đông Nam Á là một trong số ít khu vực trên thế giới không xảy ra chiến tranh
nóng hoặc xung đột quy mô lớn. Đứng trong ASEAN, Việt Nam cũng có thêm
điều kiện tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các nước trong và ngoài khu vực

nhằm bảo vệ các lợi ích an ninh và phát triển của đất nước, trong việc duy trì hòa
bình và ổn định ở Biển Đông.


ASEAN cũng là sân chơi đầu tiên để Việt Nam nâng cao năng lực hội nhập
quốc tế, tạo chuyển biến tích cực trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách,
luật lệ và thủ tục trong nước cho phù hợp hơn với tiêu chuẩn quốc tế. Có thể nói,
nếu không có thành công từ Hiệp định Thương mại tự do ASEAN (AFTA) và các
hiệp định Thương mại tự do giữa ASEAN với các Đối tác, thì rất khó có thể có
một Việt Nam chủ động, tự tin tham gia các sân chơi lớn hơn như TPP, RCEP và
một loạt các FTA lớn với EU, Hàn Quốc, Liên minh Kinh tế Á-Âu… Qua đó,
chúng ta đã mở rộng thị trường, tăng cường thu hút đầu tư, tiếp nhận công nghệ,
kinh nghiệm quản lý hiện đại phục vụ cho phát triển đất nước. Điều đáng chú ý là
suốt 20 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN và Việt Nam
luôn ổn định và cao hơn tốc độ trung bình của thế thế giới khoảng 2 điểm phần
trăm, kể cả trong những giai đoạn khủng hoảng.
Bên cạnh đó, tham gia ASEAN cũng giúp Việt Nam nâng cao năng lực thể chế
và khả năng xử lý các vấn đề xuyên quốc gia như môi trường, thiên tai, dịch bệnh,
biến đổi khí hậu; đào tạo và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ ngoại giao đa
phương ở những diễn đàn toàn cầu. Nếu không có chặng đường “mài giũa” kinh
nghiệm trong ASEAN, Việt Nam sẽ khó có thể đạt những thành công trên cương vị
thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 20082009), nước chủ nhà của các Hội nghị Cấp cao ASEM-5 năm 2004, Hội nghị Cấp
cao APEC 2006, Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới lần thứ 132 (2015)…
Đặc biệt, vai trò ngày càng quan trọng của Việt Nam trong ASEAN là chất xúc
tác góp phần nâng cao giá trị chiến lược của Việt Nam, tăng cường quan hệ song
phương của chúng ta với các đối tác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn. Chặng
đường 20 năm gia nhập ASEAN cũng song hành với những thành công trong việc
thể chế hóa khuôn khổ quan hệ với các nước lớn và các nước chủ chốt ở khu vực.
Đến nay, chúng ta đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng quan hệ Đối tác chiến lược
và Đối tác toàn diện với tất cả các nước lớn, nhất là 5 nước thành viên thường trực

Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Chúng ta đã định vị vai trò của Việt Nam trong
Cộng đồng ASEAN.


II. Việt Nam hội nhập ASEAN từ sau khi trở thành thành viên chính thức của
tổ chức này
1. Những thuận tiện trong quá trình hội nhập ASEAN
1.1. Về chính trị:
Một trong những đóng góp nổi bật của Việt Nam là tích cực ủng hộ, thúc đẩy,
vận động, thuyết phục việc nhanh chóng kết nạp ba nước Lào, Mianma và
Campuchia vào ASEAN, đưa ASEAN thành một tổ chức gồm 10 quốc gia. Thắng
lợi chính trị này mang một ý nghĩa quan trọng của Hiệp hội, nó đánh dấu sự kết
thúc một thời kỳ chia rẽ và đối đầu giữa các nhóm trong khu vực, mở ra một kỷ
nguyên hòa bình, hợp tác cho toàn bộ khu vực Đông Nam Á, tạo nền tảng thiết yếu
cho ASEAN trở thành một tổ chức khu vực toàn diện, liên kết sâu rộng và có vai
trò quan trọng ở Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương như ngày nay.
Những đóng góp quan trọng của Việt Nam với Hiệp hội trong lĩnh vực an ninh,
chính trị là Việt Nam luôn nỗ lực không mệt mỏi và trở thành nhân tố thúc đẩy
đoàn kết hợp tác trong ASEAN, kiên trì bảo vệ những nguyên tắc và giá trị truyền
thống đã làm nên bản sắc và tính hấp dẫn của Hiệp hội, đó là tính cởi mở, mềm
dẻo, nguyên tắc đồng thuận, tôn trọng lẫn nhau và không can thiệp. Trên tinh thần
và nguyên tắc đó, Việt Nam đã năng động thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ với các nước
thành viên ASEAN trên cơ sở hữu nghị, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, hướng tới
một mục đích là xây dựng ASEAN đoàn kết, chia sẻ trách nhiệm và hỗ trợ nhau.
Việt Nam đã khéo léo phối hợp cùng các nước thành viên tìm ra những phương
hướng linhh hoạt, mềm dẻo để dàn xếp, xử lý những vấn đề nhạy cảm, phức tạp
trong nội bộ khu vực cũng như trong quan hệ đối ngoại của Hiệp hội góp phần duy
trì đoàn kết nhất trí nội bộ ASEAN, hạn chế những tác động và sức ép từ các
cường quốc bên ngoài mà vẫn thúc đẩy được quan hệ đối ngoại và nâng cao uy tín
của Hiệp hội như vấn đề bất ổn ở Thái Lan, vấn đề dân chủ và hòa giải ở Mianma,

vấn đề tham gia cấp cao Đông Á của Nga và Mỹ…
Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và xác định các phương
hướng và khuôn khổ thể chế hợp tác ASEAN nhằm thúc đẩy hợp tác, liên kết khu
vực, gắn kết nội khối cũng như thúc đẩy đối thoại và hợp tác giữa ASEAN với các
đối tác bên ngoài khu vực. Đáng chú ý là sự đóng góp của Việt nam trong xây


dựng Tầm nhìn 2020, và sau đó là đề nghị mở rộng Tầm nhìn 2020 không chỉ
trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong lĩnh vực chính trị, chuyên ngành, đối ngoại.
Việt Nam thể hiện rõ sự tích cực, chủ động đóng góp vào sự ra đời của Tuyên
bố Bali – II về xây dựng Cộng đồng ASEAN, chương trình hành động Viên Chăn
(VAP), các kế hoạch về xây dựng từng trụ cột của Cộng đồng ASEAN. Việt Nam
thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ cùng các nước ASEAN Xây dựng Cộng
đồng ASEAN 2015. Việt Nam thamgia tích cực vào việc soạn thảo, ký kết Hiến
chương này, đồng thời góp phần đẩy nhanh đưa Hiến chương vào thực thi.
Theo đề nghị của Việt Nam, Hội nghị cấp cao ASEAN 16 tại Hà Nội (4-2010),
lần đầu tiên ASEAN tổ chức phiên họp toàn thể của lãnh đạo các nước ASEAN với
sự tham gia của các bộ trưởng và các quan chức cấp cao phụ trách 3 trụ cột của
Cộng đồng ASEAN nhằm thảo luận phương hướng đẩy nhanh thực hiện lộ trình
xây dựng Cộng đồng. Cũng theo sáng kiến của Việt Nam, Hội nghị chính thức lần
đầu tiên giữa các lãnh đạo ASEAN và Đại diện Đại hội đồng Liên nghị viện
ASEAN (AIPA) đã được tổ chức thành công nhằm thiết lập và thúc đẩy sự phối
giữa hai kênh lập pháp và hành pháp trong tiến trình xây dựng Cộng đồng
ASEAN.
Trong lĩnh vực hợp tác an ninh và duy trì hòa bình ổn định khu vực, Việt Nam
kiên định, nỗ lực thúc đẩy nguyên tắc giải quyết hòa bình các mẫu thuẫn và bất
đông trong khu vực thông qua đối thoại, thúc đẩy hợp tác giải quyết những vấn đề
biên giới và lãnh thổ và những vấn đề khác có khả năng gây căng thẳng với các
nước trong khu vực.
Với phương châm đó, Việt Nam đã cơ bản giải quyết xong việc phân định biên

giới lãnh thổ trên đất liền cũng như trên biển với tất cả các nước láng giềng
ASEAN.
Trên bình diện an ninh khu vực, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN xây dựng
và thúc đẩy phát huy tác dụng của các cơ chế, diễn đàn an ninh khu vực đã có,
đồng thời tích cực đưa ra và triển khai các sáng kiến an ninh mới nhằm kiến tạo và
hoàn thiện một cấu trúc an ninh khu vực đa tầng nấc ở khu vực, tạo ra nhiều cơ hội
hơnđể đảm bảo hòa bình, ổn định, thịnh vượng ở Đông Nam Á và Châu Á- Thái
bình Dương.
Việt Nam là một trong những thành viên sáng lập ra Diễn đàn an ninh khu
vực( ARC ), Việt Nam đã đã đề xuất nhiều sáng kiến, soạn thảo văn bản và chủ trì


thành công nhiều hoạt động của ARC, ngoài ra còn đi đầu trongt tiến trình cải tiến
bộ máy, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hợp tác của ARC.
Việt Nam cùng các nước trong khối ASEAN sửa đổ, bổ sung, phát huy tác
dụng của Hiệp ước Thân thiện (TAC) như một văn kiện nền tảng mang tính chỉ
đạo quan hệ giữa các nước trong khu vực cũng như với các đối tác bên ngoài khu
vực.. Bên cạnh đó, Việt Nam phối hợp Soạn thảo quy chế hoạt động của Hội đồng
tối cao TAC trên cơ sở đảm bảo cho nó phát huy tác dụng như một cơ chế tư vấn
và hòa giải những mâu thuẫn và xung đột có ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định
khu vực.
Vấn đề hòa bình ổn định ở Biển Đông, Việt Nam dã chủ động cùng Philipin và
các nước ASEAN khác soạn thảo và đệ trình sự thảo COC (7-1999), trên cơ sở đó,
ASEAN và Trung Quốc đã đi tới ký kết tuyên bố về cách ứng xử ở Biển Đông
(COC) năm 2002. Với sự thúc đẩy nỗ lực của Việt Nam, ASEAN và Trung Quốc
đã đi tới thảo luận xây dựng bộ quy tác ứng xử Biển Đông (COC) mang tính chất
pháp lý cao. COC ra đời sẽ là công cụ để gìn giữ hòa bình cho khu vực.
Với sáng kiến và nỗ lực to lớn của Việt Nam, “ Hội nghị ADMM+ dã được tổ
chức tại Hà Nội(10-2010) với chủ đề hợp tác chiến lược vì hòa bình, ổn định và
phát triển khu vực”. Kênh đối thoại với sự tham gia của 18 nước, hầu hết là các

cường quốc nhưu Mỹ,Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ..Tại Hội nghị này, lãnh
đạo Bộ quốc phòng 18 nước đã thống nhất giải quyết những mâu thuẫn và tranh
chấp bằng biện pháp phi bạo lực, cam kết ucngf nhua hợp tác, đối thoại giải quyết
những khác biệt để xay dựng lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau với một mục tiêu
chung cho khu vực. Đây được coi là một thắng lợi lớn trong ngoại giao Việt Nam
nói riêng, ASEAN nói chung, bởi lần đầu đã tạo lập được một cơ chế đối thoại và
hợp tác quốc phòng giữa ASEAN với các cường quốc.
Việt Nam cũng đã đề xuất cơ chế hợp tác cứu trọ thảm họa và hỗ trợ ngư dân
tren biển, đồng thời kêu gọi sự phối hợp chặt chẽ giữa các nước ASEAN nhằm đối
phó với những mối đe dọa an ninh phi truyền thống đang nổi lên đáng lo ngịa
trong khu vực. Các nước đã nhất trí đề xuất của Việt Nam về việc tăng cường hợp
tác trong hỗ trợ nhân đạo đối với người và tàu thuyền bị nạn trên biển như một
biện pháp cụ thể hóa tinh thần giúp đỡ lẫn nhau củ ASEAN.
Trong quá trình xây dựng ý tưởng Cộng đồng Chính trị - an ninh
ASEAN(APSC), Việt Nam đã chủ động và tích cực đóng góp quan trọng về nội


dung, đưa ra một số sáng kiến trong việc soạn thảo các thể chế APSC. Việt Nam
thể hiện rõ vai trò là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững các nguyên tắc cơ
bản, định hướng phát triển đúng của ASEAN, nhất là nguyên tắc đồng thuận và
không can thiệp, thúc đẩy triển khai tiến trình vận hành APSC phù hợp với bối
cảnh khu vực. Chương trình hành động ASPC đã tiếp thu quan điểm an ninh toàn
diện của Việt Nam đề xuất. Vietj Nam đã nỗ lực vận động để đưa vào nội dung
Chươn trình hành động quy định việc ngăn chặn sự can thiệp quân sự từ bên ngoài
dưới bất kì hình thức nào. Điều này thể hiện tinh thần trach nhiệm cao và ý thức
cộng đồng của Việt Nam, cngr cố sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau và đó là nền tảng
cho ổn định khu vực.
1.2. Về kinh tế:
ASEAN được thành lập ban đầu với mục đích chính trị, tuy nhiên trong qua
trình hội nhập và phát triển , ASEAN đã trở thành một tổ chức đa phương phát

triển về mọi mặt từ chính trị, văn hóa và cả kinh tế. Với vai trò là thành viên thứ 7
của ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ và được coi là một
thành viên tích cực trong cộng đồng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ
nhận được những lợi ích về mặt kinh tế mà chúng ta đã đạt được kể từ khi là thành
viên của cộng đồng này .
Tham gia vào tiến trình xây dựng cộng đồng này, Việt Nam có thêm nhiều cơ
hội để tiếp cận thị trường trong và ngoài khu vực, qua đó mở rộng thị trường, đa
dạng hóa mặt hàng xuất khẩu; ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu vào nhập
khẩu, từ đó, góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế và thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội. Trong những năm qua quan hệ thương mại hàng hóa song
phương giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN ngày càng phát triển. Số
liệu Thống kê Hải quan Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy các thành
viên ASEAN tính chung luôn là đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của Việt
Nam với trị giá hàng hóa buôn bán hai chiều đạt mức tăng trưởng 25,9%/năm
trong giai đoạn 2005-2008 và 13,3%/năm giai đoạn 2005-2009. Về thứ hạng kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam so với các khu vực thị trường khác
thì ASEAN là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ 3 của các doanh nghiệp Việt
Nam, chỉ sau thị trường Hoa Kỳ và thị trường các nước thành viên Liên minh châu


Âu-EU. Còn ở chiều ngược lại, ASEAN là đối tác thương mại cung cấp nguồn
hàng hoá lớn thứ 2 cho các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ đứng sau Trung Quốc.
(Linh chi, 2010)

Số liệu thống kê cũng cho thấy trong những năm này quan hệ thương mại hàng
hóa giữa Việt Nam và ASEAN ngày càng đạt được sự phát triển khả quan. Trị giá
buôn bán hàng hoá hai chiều trong giai đoạn 2005-2008 liên tục tăng qua các năm.
Cụ thể trong năm 2005, tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam ASEAN chỉ đạt 14,91 tỷ USD trong khi đó con số này của năm 2008 là 29,77 tỷ
USD, tăng gấp 2 lần so với năm 2005.
Trong những tháng đầu năm 2010 quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam

và ASEAN có nhiều tín hiệu lạc quan. Trị giá trao đổi hàng hoá với khu vực này
của Việt Nam trong quý I/2010 có tốc độ tăng cao hơn hẳn so với tốc độ tăng tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, đặc biệt là xuất khẩu. Số liệu thống kê mới
nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu 3
tháng đầu năm 2010 giữa Việt Nam và ASEAN là 6,12 tỷ USD, tăng 37% so với
cùng kỳ năm 2009, chiếm 18,9% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước. Trong
đó, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường ASEAN đạt 2,54 tỷ USD,
tăng 26,5% và chiếm 17,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong khi đó
tổng trị giá hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường ASEAN là 3,57 tỷ
USD, tăng 45,6% và chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước. Như vậy,


nhập siêu của Việt Nam trong buôn bán với khu vực thị trường lớn nhất của Việt
Nam trong quý I/2010 đã vượt quan con số 1 tỷ USD. ( Linh Chi, 2010)
Điểm đáng lưu ý trong quan hệ thương mại nội vùng giữa Việt Nam với các
nước thành viên ASEAN là: năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam chưa
bằng các đối thủ cạnh tranh thể hiện ở hàm lượng giá trị sản xuất gia tăng trong
hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN cao hơn hẳn so với hàng hóa của Việt
Nam xuất khẩu sang khu vực thị trường này.
Sau 24 năm Việt Nam gia nhập ASEAN, khu vực này đã trở thành một trong
những đối tác kinh tế - thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam. So với thời
điểm bắt đầu tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) năm 1996, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và khu vực ASEAN đã tăng hơn 9,5 lần,
từ 5,9 tỷ USD năm 1996 lên gần 56,3 tỷ USD trong năm 2018. Trong đó kim
ngạch xuất khẩu là 24,5 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu là 31,8 tỷ USD trong
năm 2018 .( Vụ chính sách thương mại đa biên , 2019)
Bên cạnh lợi ích về tăng trưởng kinh tế, việc hội nhập vào khu vực kinh tế
ASEAN còn đem lại những tác động tích cực cho xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam theo hướng đa dạng hóa cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, tăng cường thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng như mở rộng cơ hội đầu tư sang các nước

ASEAN và cơ hội kinh doanh từ bên ngoài; tạo cơ hội để các doanh nghiệp cải
thiện năng lực cạnh tranh; tiếp cận các nguồn hỗ trợ về khoa học -công nghệ, học
tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, góp phần nâng cao trình độ và năng lực của đội
ngũ cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đối với Việt Nam, thì dòng
vốn FDI từ ASEAN vào Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong tổng FDI vào Việt
Nam. Kể từ khi áp dụng các chính sách đổi mới từ những năm 1980, Việt Nam là
một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới - và FDI đã đóng
góp một phần lớn trong đó Tính đến cuối năm 2014, dòng FDI từ ASEAN vào Việt
Nam chiếm 21,4% tổng FDI vào Việt Nam với mức tổng lên tới 52,34 tỷ USD.
Đầu tư của Singapore chủ yếu là vào lĩnh vực khách sạn, du lịch, khu vui chơi sinh
thái, khu công nghiệp Việt Nam - Singapore, trong khi FDI từ Malaysia thì chủ yếu
tập trung các liên doanh với các công ty sở hữu nước ngoài hoạt động trong lĩnh
vực cơ sở hạ tầng, bất động sản, giáo dục và dầu khí. Thái Lan đầu tư vào lĩnh vực


bán lẻ và một phần đi vào sản xuất đồ nhựa. Điều này cho thấy, dòng vốn đầu tư
FDI từ ASEAN vào Việt Nam không nhằm vào các lĩnh vực công nghiệp chế tạo
mà chủ yếu là lĩnh vực bất động sản, dịch vụ. Ngoài ra, những tác động tích cực từ
AEC sẽ góp phần tạo chuyển biến trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách,
luật lệ và thủ tục trong nước, phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập quốc tế.( Tạp chí
tài chính kỳ 1 tháng 12)
Không chỉ tham gia sâu rộng và toàn diện vào hợp tác nội khối, ASEAN còn là
hạt nhân để giúp Việt Nam có điều kiện thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, thương
mại và đầu tư với các đối tác quan trọng khác như: Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Niu Di-lân, Ốt-xtrây-lia, Trung Quốc, v.v., thông qua ký kết hiệp định thương mại
tự do (FTA) giữa ASEAN với các đối tác này. Có thể khẳng định, việc triển khai
hợp tác kinh tế sâu rộng và toàn diện của Việt Nam với các nước khác trong khu
vực và trên thế giới sẽ không thể thành công như mong đợi, nếu ta không phải là
thành viên tích cực trong ASEAN.Từ khi trở thành thành viên của ASEAN, Việt
nam đã đặt được những thành tựu đáng kể về mặt kinh tế, chính trị. Không chỉ vậy,

một số lĩnh vực khác cũng gặt hái được những thành công nhất định. Tuy nhiên
trong lĩnh vực kinh tế, ngoài những thành tựu đạt được, kinh tế Việt Nam cũng có
những biến động trong mối quan hệ hợp tác với các nước thành viên và tỏng khu
vực. Vì vậy, chúng ta cần có những chính sách hợp lý để tận dụng những thời cơ ,
đưa kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
1.3. Các lĩnh vực khác
Khoa học kỹ thuật:
Hội nhập ASEAN giúp Việt Nam tiếp thu được khoa học - công nghệ mới và
kỹ năng quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: Công nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật,
văn hóa - xã hội… góp phần đào tạo cho Việt Nam có được đội ngũ nguồn nhân
lực có trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý. Tuần lễ khoa học và
công nghệ ASEAN (1998) là một trong các hoạt động của ASEAN đượcViệt Nam
tổ chức thành công.
Giáo dục:
ASEAN tăng cường hợp tác phát triển nguồn nhân lực, hướng tới nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo theo đúng yêu cầu của thị trường lao động khu vực;


thúc đẩy hợp tác du học, trao đổi sinh viên giữa các trường đại học trong khu vực;
hài hòa hóa các tiêu chuẩn về công nhận bằng cấp trong giáo dục cũng như kỹ
năng nghề giữa các nước ASEAN, tạo điều kiện cho lao động có tay nghề được tự
do di chuyển, tìm cơ hội việc làm thuận lợi hơn trong khu vực. Có thể kể đến một
số nghề như dịch vụ điều dưỡng, dịch vụ kỹ thuật, du lịch, kế toán - kiểm toán, bác
sĩ, nha sĩ, kiến trúc sư…
Y tế:
ASEAN coi trọng hợp tác y tế nhằm bao phủ và chăm sóc y tế tốt hơn cho
người dân, nhất là trong phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm, HIV/AIDS … Hợp
tác này sẽ giúp bảo vệ người dân tốt hơn trước các nguy cơ dịch bệnh lây lan, thúc
đẩy hợp tác ngăn ngừa các bệnh lây nhiễm
Văn hóa - xã hội:

Nếu văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động mạnh mẽ tới kinh tế, an ninh, chính trị thì văn hóa xã hội là lĩnh vực rộng,
gắn tới quyền, lợi ích của mọi tầng lớp dân cư (trong đó chú trọng tới các nhóm dễ
bị tổn thương). Hợp tác trên một số lĩnh vực có những vấn đề nhạy cảm như liên
quan đến thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em, lao động di cư; hợp tác với
các tổ chức xã hội dân sự. Cộng đồng ASEAN hướng tới người dân và lấy trọng
tâm là người dân sẽ giúp hiện thực hóa nguyện vọng của ASEAN về một nền quản
trị hiệu quả, đáp ứng nhu cầu người dân tốt hơn, góp phần nâng cao phúc lợi, an
sinh xã hội cho người dân trong khu vực. Hợp tác về văn hóa xã hội trong ASEAN
là lĩnh vực rộng, đan xen, trong đó các khuôn khổ hành động của các lĩnh vực
chuyên ngành cấp khu vực khá phù hợp với những ưu tiên và chương trình hành
động cấp quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lồng ghép, thúc đẩy thực hiện
các hoạt động của Việt Nam. Một số hoạt động quan trọng của ASEAN được Việt
Nam tổ chức như: Cuộc họp Ủy ban văn hóa thông tin ASEAN (2002), Hội nghị
Bộ trưởng Lao động ASEAN (2002, 2004), Tuần văn hóa ASEAN lần II theo sáng
kiến của Thủ tướng ta tại Hạ Long (2004), Hội thi tay nghề ASEAN (2004).
Môi trường:
Hợp tác về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý thiên tai,
ứng phó khẩn cấp sẽ giúp các nước thành viên từng bước nâng cao khả năng, năng


lực thích nghi, giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu, ứng phó nhanh và
hiệu quả hơn với thiên tai trong khu vực, bảo vệ, hỗ trợ kịp thời cho người dân
trong tình huống thảm họa.Việt Nam đã thành công trong việc tổ chức các hoạt
động như: Hội nghị Bộ trưởng Môi trường ASEAN (1998) và Diễn đàn Môi
trường ASEAN (1999).
2. Những hạn chế và nguyên nhân:
* Nguyên nhân:
Gia nhập ASEAN sẽ là điều kiện đầu tiên để nước ta thực hiện mục tiêu hội
nhập kinh tế quốc tế, mở rộng mối quan hệ với các nước trong khu vực, xóa đi

phần nào những hàng rào thuế quan, tạo điều kiện cho việc liên doanh giữa các
nước trong khu vực. Không chỉ vậy, tục ngữ có câu "1 cây làm chẳng nên non, 3
cây chụm lại nên hòn núi cao"...Gia nhập ASEAN sẽ giúp nước ta có thêm những
bạn bè, đối tác quân sư, tạo thành 1 khối, giảm ảnh hưởng của Mỹ và EU ở khu
vực này...Ngoài ra, giúp ta tăng cường giao lưu văn hóa, học hỏi các tiến bộ của
nước ta để vận dụng cho ta.
* Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu, quá trình hơn hai thập niên Việt Nam gia
nhập ASEAN cũng đặt ra những vấn đề bức xúc, với những khó khăn, hạn chế
rất cần thiết phải khắc phục, tháo gỡ. Quan hệ Việt Nam- ASEAN vẫn còn
những biểu hiện hạn chế về chất lượng, hiệu quả và chiều sâu, còn thiếu các
nhân tố cho sự phát triển vững chắc, ổn định, lâu dài. Các mối quan hệ kinh tế,
an ninh, chính trị nhiều khi chưa gắn kết mật thiết với nhau, trong một số trường
hợp cụ thể hợp tác kinh tế - thương mại chưa theo kịp những tiến bộ đạt được 4
về chính trị, ngoại giao, chưa tạo được nhiều bước đột phá mới về chất, chưa
xây dựng được và khai thác tốt quan hệ lợi ích đan xen tùy thuộc lẫn nhau. Hợp
tác Việt Nam - ASEAN vẫn còn bị động đối phó với những vấn đề nhạy cảm và
mới nảy sinh, nhất là các vấn đề liên quan đến tranh chấp biên giới lãnh thổ, tài
nguyên thiên nhiên, khủng hoảng và suy thoái kinh tế, sự phối hợp hành động
trước các vấn đề khu vực và quốc tế, v.v... Những khó khăn, hạn chế trong việc
tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả hợp tác trên nhiều mặt với ASEAN,
nhất là việc tháo gỡ những vấn đề nhạy cảm còn tồn đọng, đang và sẽ tác động
không thuận chiều đối với môi trường an ninh chính trị, phát triển kinh tế - xã
hội trong nước và tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, cũng như triển vọng
quan hệ Việt Nam - ASEAN.
Các hạn chế cũng bắt nguồn từ chính những khó khăn vốn có của tổ chức
ASSEAN: khó khăn trong việc quản lý người nhập cư, quản lý xã hội,
quản lý dân cư, đấu tranh phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, khủng
bố…Ngoài ra, sự khác biệt về các giá trị văn hóa, chính trị, kinh tế, tôn giáo, tín
ngưỡng có thể gây nên những lo ngại nhất định trong các vấn đề về an ninh.



Những bất ổn về an ninh của các nước trong khu vực có thể ảnh hưởng đến an
ninh trật tự ở Việt Nam. Sự không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế giữa
các nước trong cộng đồng ASEAN sẽ thách thức khả năng cạnh tranh của nước
ta trong các lợi ích kinh tế và an ninh…
Yêu cầu phát triển đất nước trong hội nhập quốc tế đến năm 2020
đang đòi hỏi Việt Nam cần có một chiến lược đối ngoại hoàn chỉnh, trong đó
xác định rõ những định hướng phát triển quan hệ với ASEAN. Từ đó sẽ cụ thể
hóa thành những chính sách, giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những vấn đề còn
tồn đọng, tăng cường hợp tác Việt Nam - ASEAN trong tình hình mới.
III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hội nhập với tổ chức
ASEAN:
1. Những khó khăn, thách thức:
1.1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn rất yếu kém:Năng lực cạnh tranh
yếu kém của doanh nghiệp Việt Nam thể hiện rõ ở các mặt:
Quy mô nhỏ bé về vốn liếng, thiết bị đơn sơ lạc hậu, công nghệ đi sau hàng
nhiều chục năm so với các nước trong khu vực.
Lao động chưa qua đào tạo là chủ yếu, đặc biệt là đối với đa số doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
Quản trị doanh nghiệp yếu kém, đặc biệt là tư duy kinh doanh, tầm nhìn ngắn,
kinh doanh kiểu “chộp giật”. Đây thực sự là điều đáng lo ngại khi Việt Nam hội
nhập sâu vào kinh tế quốc tế.
1.2. Năng suất và chất lượng lao động của Việt Nam thấp:
Năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái Bình
Dương (thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn
Hàn Quốc 10 lần). Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia và 2/5
Thái Lan. Trong giai đoạn 2002 - 2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2%
mỗi năm. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ
tăng năng suất trung bình hằng năm của Việt Nam tăng chậm lại, chỉ còn 3,3%.

Chất lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và
hội nhập.
1.3. Hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các quốc gia thành viên AEC sẽ
dần xóa bỏ:


Đối với trao đổi thương mại ngoài khối, trong thời gian qua, Việt Nam đã cùng
tham gia ký kết các Hiệp định thương mại tự do ASEAN với nhiều nước như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản..., trong đó đều đưa ra lộ trình thực hiện tự do
hóa thương mại. Đây cũng chính là nguy cơ tiềm ẩn của việc gia tăng tình trạng
nhập siêu của Việt Nam. Hiệp định ASEAN - Trung Quốc là một ví dụ. Theo tiến
trình cắt giảm thuế quan với Trung Quốc, phần lớn hàng hóa Trung Quốc vào Việt
Nam sẽ chỉ còn thuế suất từ 0 - 5% vào năm 2015. Với mức thuế suất như vậy,
kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ gia tăng, làm cho cán cân thương mại Việt
Nam - Trung Quốc càng mất cân đối nghiêm trọng hơn.
1.4. Các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh của
hàng hóa các nước khác trên thị trường ASEAN:
Hiện nay, Singapore là đối tác lớn nhất của Việt Nam trong ASEAN, luôn dẫn
đầu về cả kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu. Các mặt hàng mà Việt Nam xuất
khẩu sang Singapore chủ yếu là máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng. Trong khi
đó, Malaysia cũng đang xuất khẩu sang Singapore các mặt hàng tương tự như của
Việt Nam. Khi mức thuế quan được ưu đãi như nhau, với năng lực công nghệ kém
hơn, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ khó khăn hơn khi giữ vững vị thế
trên thị trường Singapore. Thị trường ASEAN vốn là thị trường có mức tiêu dùng
cao, không chuộng sản phẩm kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ. Khi
ASEAN thực hiện tự do hóa thương mại với các đối tác như Hàn Quốc, Trung
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, EU..., các sản phẩm có chất lượng cao của Nhật Bản,
Hàn Quốc, EU sẽ có nhiều thuận lợi khi thâm nhập thị trường ASEAN. Như vậy,
sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN sẽ càng gặp khó khăn hơn.
1.5 AEC sẽ tạo ra sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu đối với các sản phẩm,

ngành hay lĩnh vực sản xuất, kinh doanh ngay tại thị trường Việt Nam:
Hiện nay, tại các thành phố lớn của Việt Nam như Hà Nội, Đà Nẵng, Thành
phố Hồ Chí Minh, các sản phẩm có nguồn gốc từ ASEAN xuất hiện ngày càng
nhiều. Mặc dù có thể coi đây là cơ hội cho người tiêu dùng trong nước, nhưng
cũng là nguy cơ khiến Việt Nam trở thành “vùng trũng” tiêu thụ hàng hóa của các
nước trong khu vực. Hàng hóa của ASEAN được người tiêu dùng mua nhiều gồm
những sản phẩm gia dụng như điện máy, dụng cụ nhà bếp, tiếp đến là hóa mỹ


phẩm có nguồn gốc từ Thái Lan, Malaysia. Ưu thế của các mặt hàng này là giá
bán rất rẻ, chỉ bằng 1/2 hoặc 2/3 so với sản phẩm cùng loại bán trong cửa hàng và
siêu thị của Việt Nam.
Bên cạnh đó, khi Việt Nam thực hiện cam kết giảm thuế suất đối với các sản
phẩm nhập khẩu từ các nước đối tác mà Việt Nam đã cùng ASEAN ký kết Hiệp
định thương mại, hàng hóa Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng
nhập khẩu từ các nước đối tác này. Khi một nền kinh tế chưa được chuẩn bị đầy đủ
trước những đối thủ cạnh tranh trong điều kiện các hàng rào thuế quan đã sớm bị
dỡ bỏ, sẽ dẫn đến những tổn thất về kinh tế trong cuộc cạnh tranh không cân sức,
đồng thời còn gây sức ép đối với nền công nghiệp non trẻ của Việt Nam.
2. Một số giải pháp:
Trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ hiện nay,
khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, giữ vai trò quan
trọng trong nền kinh tế tri thức. Đây vừa là cơ hội để Việt Nam bứt phá, rút ngắn
khoảng cách phát triển vừa là thách thức và nếu không bắt kịp thì nguy cơ tụt hậu
là hiện hữu.
Bối cảnh tình hình quốc tế đặt ra yêu cầu phải tiếp tục chủ động hội nhập quốc
tế toàn diện, trong đó đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng hiệu lực và
hiệu quả hơn, nhằm nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, để hội nhập quốc tế đóng
góp thiết thực, hiệu quả thực sự trở thành phương tiện hữu hiệu phục vụ phát triển
đất nước bền vững và bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia.

Về phương hướng chung, cần tiếp tục quán triệt và triển khai hiệu quả các chủ
trương, chính sách, chương trình hành động của Đảng, Nhà nước về hội nhập kinh
tế quốc tế, trong đó chú trọng việc nâng cao toàn diện năng lực thực thi các cam
kết hội nhập kinh tế quốc tế; đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng các cơ chế, chính
sách phù hợp để tạo môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi cho các doanh
nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, qua đó, nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trong hội nhập.
*Một số nhóm giải pháp cụ thể:
Thực hiện đổi mới kinh tế:


Với một nền kinh tế mở hiện tại, chính phủ Nhà nước VIệt Nam cần đẩy mạnh
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Xóa bỏ tất cả các sự phân biệt và hạn chế
dành cho các thành phần kinh tế đến từ nước ngoài như một số doanh nghiệp
lớn ...bằng cách tích cực ban hành các luật và bộ luật phù hợp với nền kinh tế thị
trường, giảm thiểu các chi phí giao dịch kinh doanh thông qua việc cắt giảm chi
phí đầu vào và cung ứng dịch vụ với thời gian ngắn nhất.( thuế quan, chi phí vận
chuyển,....)
Để tham gia và hoàn toàn hội nhập với vai trò một thành viên của tổ chức quốc
tế, bản thân Việt Nam phải nỗ lực xóa bỏ và đơn giản hóa các thủ tục hành chính
và bộ luật nhằm nới lỏng thị trường, và tất cả những điều trên cần có được sự ủng
hộ và hỗ trợ từ chính Chính phủ lâm thời của Việt Nam.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Để nhân lực chất lượng cao nhất là trong lĩnh vực đào tạo nghề cần một số thay
đổi cụ thể như
Thúc đẩy xây dựng cơ sở hạ tầng
Để có thể trở thành một trong những trung tâm giao dịch, Việt Nam cần phải
xây dựng được một mạng lưới cơ sở hạ tầng xuyên ASEAN thông qua kêu gọi đầu
tư và tài trợ để phát triển đồng bộ mạng lưới vận tải thông tin, giao dịch an toàn

giữa các thành viên và thế giới.
Về các doanh nghiệp Việt Nam:
Trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam cần nhận thức rõ ràng các khó khăn và
thử thách mà bản thân mình và nền kinh tế thị trường Việt Nam đang đối mặt. Từ
đó lần lượt thực hiện những hành động cụ thể sau:
Thay đổi tư duy trong hội nhập. Doanh nghiệp cần xem ASEAN như là một thị
trường quan trọng không thua gì Mỹ, Nhật, EU từ đó chú tâm tìm hiểu cũng như
nghiên cứu sâu hơn về thị trường ASEAN để vạch rõ chiến lược thâm nhập và kinh
doanh thị trường thích hợp, có tính bền vững cao.
Nhạy bén hơn trong việc tìm kiếm và nắm bắt cơ hội. Tìm kiếm phương thức
kinh doanh mới để doanh nghiệp khai thác cơ hội, đồng thời tránh việc cạnh tranh
trực tiếp với các doanh nghiệp nước ngoài.


Cải thiện và phát huy năng lực. Việc cạnh tranh và sống sót ở trong một thị
trường có đủ khả năng sản xuất những sản phẩm giống mình là một thử thách đầy
khó khăn. Chính vì vậy, doanh nghiệp cần đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm,
mẫu mã, dịch vụ và nhân lực, công nghệ...đồng thời cập nhập xu hướng tiêu dùng.
Liên kết để phát triển.Hội nhập ASEAN, chính các doanh nghiệp ở Việt Nam
phải tự học hỏi lẫn nhau về chiến lược kinh doanh và bắt tay trở thành đối tác của
nhau, cùng tham gia vào chuỗi giá trị, tạo sức mạnh lợi thế nhờ quy mô và phát
huy tốt hơn lợi thế so sánh.Từ đó, một liên minh vững mạnh từ chủ yếu là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể đủ cạnh tranh và giành chiến thắng khi các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

KẾT LUẬN
Chặng đường 24 năm ( 1995 – 2019 ) hội nhập Việt Nam – ASEAN là một
quãng thời gian đủ dài để chúng ta có thể nhìn lại, thấy được những gì Việt Nam
đã làm được và chưa làm được khi trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức này.
Quan hệ với ASEAN nói chung cũng như với từng quốc gia thành viên nói riêng

luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của những nhà hoạch định chính
sách của đất nước. ASEAN không chỉ là nền tảng cho một khu vực Đông Nam Á
thống nhất, hòa bình, ổn định cho sự phát triển của toàn khu vực cũng như mỗi
quốc gia mà còn là cầu nối để các nước bắt kịp với xu thế chung của thời đại và
nâng cao vị thế chung của khu vực trên trường quốc tế. Trong suốt gần 24 năm qua
kể từ khi gia nhập, Việt Nam đã khẳng định được vai trò của mình trong ASEAN
bằng những đóng góp cụ thể và thiết thực trong cả hoạt động “đối nội” lẫn “đối
ngoại” của Hiệp hội. Chúng ta tin tưởng rằng vai trò và tiếng nói của Việt Nam
trong ASEAN sẽ ngày càng có giá trị để góp sức đưa ASEAN lên một tầm cao mới
trên bản đồ chính trị, kinh tế, xã hội toàn cầu.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Bích Thủy (19/6/2017), “ Hội nhập ASEAN, cơ hội và thách thức về văn
hóa xã hội”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 396, tại />2. “Tài liệu cơ bản về Việt Nam tham gia ASEAN”, Bộ Ngoại giao Việt Nam, tại
/>943/nr100420102426/ns100420102656
3. Vũ Hiền (9/2016), “ASEAN, những hạn chế của sựu đồng thuận” tại
/>4. “ Cộng đồng kinh tế ASEAN và những tác động đến Việt Nam”, Tạp chí Tài
chính kỳ I tháng 12, tại />5. “ ASEAN- đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của Việt Nam”, Hải quan Viêtj
Nam, tại />ID=55&Category=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20chuy%C3%AAn
%20%C4%91%E1%BB%81&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch
6. “ Thách thức đặt ra đối với Việt Nam khi tham gia các FTA thế hệ mới”, Tạp chí
Tài chính, tại />


×