Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

tiểu luận môn đường lối đề tài xây DỰNG NÔNG THÔN mới TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.15 KB, 22 trang )

I. Cơ sở lý luận và chủ trương đường lối của Đảng về Xây dựng nông thôn mới
I.1. Khái niệm và tầm quan trọng của Xây dựng nông thôn mới
Trên thế giới, nông thôn hiện nay chưa được định nghĩa một cách đồng nhất, vẫn
còn nhiều quan điểm khác nhau, khái niệm nông thôn chỉ mang tính chất tương đối, có
thể thay đổi theo thời gian và theo quá trình phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia
trên thế giới. Trong điều kiện hiện nay của nước ta nhìn từ góc độ quản lý có thể thấy
rằng: Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã,
thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã (Thông tư số 54/2009/TTBNNPTNT).
Theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW của Trung ương, nông thôn mới là khu
vực nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn
dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an
ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng
được nâng cao; theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng nông thôn mới là quá trình lâu dài và liên tục dưới sự chỉ đạo của
Đảng làm đổi mới tư duy, nâng cao năng lực của người dân, tạo động lực giúp họ chủ
động phát triển kinh tế góp phần thực hiện chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn đồng thời làm thay đổi về cơ sở vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của người
dân, qua đó thu hẹp khoảng cách về đời sống giữa nông thôn và thành thị, đảm bảo ổn
định nền kinh tế - xã hội, thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Dưới góc nhìn của thực trạng, vấn đề xây dựng nông thôn mới của nước ta hiện
nay cần được giải quyết một cách cấp bách do những nguyên nhân sau đây:
Do kết cấu hạ tầng nội thôn; nhiều hạng mục công trình đã xuống cấp, tỷ lệ giao
thông nông thôn được cứng hoá thấp; giao thông nội đồng ít được quan tâm đầu tư; hệ
thống thuỷ lợi cần được đầu tư nâng cấp; chất lượng lưới điện nông thôn chưa thực sự
an toàn; cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hoá còn rất hạn chế, mạng lưới chợ nông
thôn chưa được đầu tư đồng bộ, trụ sở xã nhiều nơi xuống cấp. Mặt bằng để xây dựng

1




cơ sở hạ tầng nông thôn đạt chuẩn quốc gia rất khó khăn, dân cư phân bố rải rác, kinh
tế hộ kém phát triển.
Do sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, bảo quản chế biến còn hạn chế, chưa
gắn chế biến với thị trường tiêu thụ sản phẩm; chất lượng nông sản chưa đủ sức cạnh
tranh trên thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa học công nghệ trong
nông nghiệp còn chậm, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp còn thấp; cơ giới hoá
chưa đồng bộ.
Do thu nhập của nông dân thấp; số lượng doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp,
nông thôn còn ít; sự liên kết giữa người sản xuất và các thành phần kinh tế khác ở khu
vực nông thôn chưa chặt chẽ. Kinh tế hộ, kinh tế trang trại, hợp tác xã còn nhiều yếu
kém. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn cao, cơ hội có việc làm mới tại địa phương
không nhiều, tỷ lệ lao động nông lâm nghiệp qua đào tạo thấp; tỷ lệ hộ nghèo còn cao.
Do đời sống tinh thần của nhân dân còn hạn chế, nhiều nét văn hoá truyền thống
đang có nguy cơ mai một (tiếng nói, phong tục, trang phục…); nhà ở dân cư nông thôn
vẫn còn nhiều nhà tạm, dột nát. Hiện nay, kinh tế – xã hội khu vực nông thôn chủ yếu
phát triển tự phát, chưa theo quy hoạch.
Do yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, cần 3 yếu tố
chính: đất đai, vốn và lao động kỹ thuật. Qua việc xây dựng nông thôn mới sẽ triển
khai quy hoạch tổng thể, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa.
Mặt khác, mục tiêu của nước ta là nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp.
Vì vậy, một nước công nghiệp không thể để nông nghiệp, nông thôn lạc hậu, nông dân
nghèo khó. Nhận thức được tầm quan trọng của Xây dựng nông thôn mới qua các lý
do trên, Đảng và nhân dân ta cần có những định hướng và hành động cụ thể để thực
hiện những yêu cầu cấp bách của thời đại.
I.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng nông thôn mới
Do những thực trạng cấp thiết cần được giải quyết nêu trên, tại Hội nghị lần thứ
bảy ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Đảng đã
đề ra một số chủ trương hoàn thiện nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta những

năm 2008 và đề ra mục tiêu đến năm 2020.
* Quan điểm của Đảng
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan
2


trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an
ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh
thái của đất nước.
- Giải quyết các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội, phải được đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây
dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô
thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then
chốt.
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp
với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực xã hội; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế
cho phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực;
đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu
khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực,
nâng cao dân trí nông dân.
* Nhiệm vụ
Từ những quan điểm trên, Đảng đề ra những nhiệm vụ cấp thiết
Một là, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát
triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
Xây dựng toàn diện trên mọi lĩnh vực như ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm
nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản dựa trên cơ sở nhu cầu thị trường và lợi thế từng vùng,

nông nghiệp gắn sản xuất với chế biến và thị trường, quy mô hợp lý các loại nông sản
hàng hoá xuất khẩu có lợi thế nông sản thay thế nhập khẩu. Đồng thời ứng dụng khoa
học - công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học, thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, thông tin hoá,
thay thế lao động thủ công, thay đổi tập quán canh tác lạc hậu để sử dụng có hiệu quả
đất đai, tài nguyên, lao động, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nông sản.
Hai là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển
các đô thị

3


Tiếp tục đầu tư các công trình như thủy lợi, giao thông nông thôn, đồng bộ hệ
thống lưới điện, hệ thống bưu chính viễn thông, đầu tư cho các viện nghiên cứu, phòng
thí nghiệm, cơ sở chuyển giao khoa học - công nghệ nông nghiệp đạt trình độ tiên tiến.
Ba là, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng
khó khăn
Xây dựng nông thôn mới cũng cần đảm bảo vấn đề giải quyết việc làm cho nông
dân, thực hiện đồng bộ chiến lược về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo, nâng cao
chất lượng chăm sóc sức khỏe, đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc, bài trừ các hủ tục, thực hiện nếp sống mới ở nông thôn.
Bốn là, đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả
ở nông thôn
Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ chức
sản xuất có hiệu quả ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích phát triển các mối liên
kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội
ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hướng
gia trại, trang trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hoá lớn.
Tạo môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh các loại hình doanh
nghiệp nông thôn, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sử dụng

nguyên liệu và thu hút nhiều lao động nông nghiệp tại chỗ, doanh nghiệp dịch vụ vật
tư, tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản cho nông dân. Phát triển mạnh doanh nghiệp công
nghiệp chế tạo máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu... phục vụ nông nghiệp.
Năm là, phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công
nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp
hoá nông thôn
Tăng đầu tư ngân sách cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ để
nông nghiệp sớm đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến,
hiện đại cho nông dân và cả cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở.
Sáu là, đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực,
phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông
dân

4


Sửa đổi Luật Đất đai theo hướng: Tiếp tục khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân,
Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch để sử dụng có hiệu quả; bảo
đảm hài hòa quyền lợi của người sử dụng đất, của nhà đầu tư và của Nhà nước trong
quá trình giải tỏa, thu hồi đất. Có cơ chế khuyến khích những tổ chức, cá nhân tham
gia góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thành lập công ty, vào các dự án đầu tư, kinh
doanh khi có đất bị thu hồi. Có chính sách giải quyết tốt vấn đề đất ở, nhà ở, việc làm
cho người bị thu hồi đất; có quy hoạch và cơ chế bảo vệ vững chắc đất trồng lúa.
Rà soát, điều chỉnh phân bổ cơ cấu đầu tư ngân sách, giảm bớt đầu tư cho các
công trình có thể thu hồi vốn để tạo nguồn, tăng đầu tư phát triển cho khu vực nông
nghiệp, nông thôn.
Tiếp tục thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức
mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân

Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của đảng bộ, chi bộ cơ sở để thực sự
là hạt nhân lãnh đạo toàn diện trên địa bàn nông thôn; củng cố và nâng cao năng lực
bộ máy quản lý nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương, nhất là cấp huyện, xã và
các lĩnh vực khác ở nông thôn. Tiếp tục cải cách hành chính, tăng cường đào tạo nâng
cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức xã.
* Nguyên tắc chỉ đạo của Đảng
Các tỉnh uỷ, thành uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung
ương phải lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện
Nghị quyết, tạo sự chuyển biến thực sự về nhận thức và hành động trong toàn Đảng,
toàn dân để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn đồng bộ với các nghị
quyết khác của Đảng trên địa bàn nông thôn.
Bao gồm công tác rà soát, bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan đến
nội dung Nghị quyết, triển khai các nhiệm vụ cụ thể về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, phát động phong trào thi đua yêu nước, tham gia tích cực thực hiện Nghị quyết,
định kỳ sơ kết, tổng kết, nhân rộng các mô hình tốt, khen thưởng các tổ chức, cá nhân
có thành tích; xử lý trách nhiệm của các cấp ủy, người đứng đầu không thực hiện
nghiêm túc các chủ trương của Đảng.
II. Thực trạng Xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay
I.3. Thành tựu
5


* Công tác lập quy hoạch và sử dụng quy hoạch:
Đến nay, cả nước đã cơ bản hoàn thành công tác quy hoạch, nhiều địa phương đã
triển khai, hoàn thành quy hoạch cho phù hợp yêu cầu mới, nhất là tái cơ cấu ngành
nông nghiệp trên địa bàn; các đề án được xây dựng đồng bộ; có 98,8% số xã đạt tiêu
chí quy hoạch.
Tuy vậy, chất lượng các đồ án quy hoạch của nhiều xã còn thấp, đặc biệt, quy
hoạch xây dựng nông thôn mới của nhiều xã chưa gắn với tái cơ cấu nông nghiệp,
thiếu tính liên kết vùng. Việc quản lý xây dựng nông thôn mới theo quy hoạch còn

thiếu chặt chẽ.
* Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội:
Đây là khâu đột phá, được nhân dân đặc biệt quan tâm. Sau 5 năm thực hiện, hạ
tầng nông thôn đã có những bước phát triển vượt bậc.
• Về giao thông nông thôn: 38,9% số xã đạt tiêu chí số 2 về giao thông nông
thôn. Cả nước đã xây dựng mới được 47.436 km đường giao thông các loại đáp ứng
tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ GTVT, tăng 10.251 km so với cả giai đoạn 2001 - 2010; cải
tạo sửa chữa 103.394 km đường, xây dựng mới và cải tạo sửa chữa 26.997 cầu...
• Về Thủy lợi: Đến nay cả nước có 64,6% số xã đạt tiêu chí về thủy lợi. Số kênh
mương do xã quản lý đã kiên cố hóa được trên 50.246 km kênh mương các loại; xây
dựng, tu bổ, sửa chữa, nâng cấp được hơn 28.765 công trình thủy lợi gồm bờ bao,
cống, trạm bơm phục vụ tưới tiêu và 6.070 km đê bao, bờ bao chống lũ trong phạm vi
xã quản lý.
• Về Điện nông thôn: Đến nay, cả nước có 7.359 xã (82,2%) đạt tiêu chí số 4 về
điện nông thôn. Nhiều thôn, bản vùng cao chưa có điện lưới quốc gia đã được hỗ trợ
bằng máy phát điện nhỏ.
• Về Trường học các cấp: Đã có 42,6% số xã đạt tiêu chí số 5 về trường học. Cơ
sở vật chất trường học các cấp trên địa bàn xã đã được các địa phương tập trung đầu tư
xây dựng, nhất là các trường mẫu giáo, trường học nội trú, cơ bản đáp ứng được yêu
cầu dạy và học. Chính sách hỗ trợ học phí cho con em đồng bào dân tộc, miền núi;
chính sách cho vay vốn để học tập được điều chỉnh, tạo thuận lợi cho học sinh, sinh
viên từ các vùng nông thôn.

6


• Về Cơ sở vật chất văn hóa: Đến nay đã có khoảng 34,9% số xã đạt tiêu chí số 6
về cơ sở vật chất văn hóa. Cả nước hiện có 4.998 xã có Trung tâm văn hóa - thể thao,
trong đó khoảng 30% đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
54.391/118.034 thôn, bản, ấp (46%) có nhà văn hóa, trong đó đã đạt chuẩn là 47%.

• Về Chợ nông thôn: đã có 5.177 xã (61,6%) đạt tiêu chí số 7 về chợ nông thôn.
Một số địa phương đã có cơ chế ngân sách hỗ trợ một phần vốn (20-30%) nhằm
khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng chợ trên địa bàn nông thôn.
• Về Hệ thống trạm y tế: Đến nay đã có 68,2% số xã đạt tiêu chí số 15 về y tế.
Hầu hết các xã đã có trạm y tế; 95% trạm y tế có nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi để chăm
sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ và trẻ em. Tại một số địa phương, trạm y tế xã đã có
cán bộ y học dân tộc, cán bộ dược trình độ từ dược tá trở lên. Đối với y tế dưới cấp xã
(thôn, ấp), khoảng 90% ấp, cụm dân cư có cán bộ y tế.
• Về Bưu điện và hạ tầng công nghệ thông tin nông thôn: Có 93,1% số xã đạt tiêu
chí số 8 về Bưu điện. Internet tốc độ cao đã đến được hầu hết các điểm bưu điện văn
hóa xã, khoảng 55% số xã có điểm truy cập Internet công cộng, vùng phủ sóng 3G đã
đạt trên 80% dân số; tỷ lệ xã có điện thoại công cộng là 97%. Hầu hết người dân khu
vực nông thôn được sử dụng các dịch vụ bưu chính, viễn thông phổ cập.
Có thể nói, sau 5 năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới thì thành
tựu nổi bật nhất là phát triển cơ sở hạ tầng. Không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội mà còn tăng hưởng thụ trực tiếp cho người dân. Nhiều tiêu chí đã
có mức tăng cao (tiêu chí giao thông năm 2010 có 3,23% số xã đạt đến nay là 38,9%;
cơ sở vật chất văn hóa từ 2,3% lên 34,9%...). Nhiều địa phương dành 70-75% kinh phí
xây dựng nông thôn mới cho phát triển hạ tầng và hầu hết đóng góp của người dân
cũng dành cho lĩnh vực này.
Tuy nhiên, sự phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ và còn chênh lệch
lớn giữa các vùng. Các địa phương Miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long có
tốc độ phát triển kết cấu hạ tầng chậm do điều kiện địa hình chia cắt, suất đầu tư lớn,
trong khi nguồn lực của nhà nước cũng như khả năng đóng góp của nhân dân còn hạn
chế. Một số địa phương áp dụng máy móc Bộ tiêu chí, không sát với yêu cầu thực tế
gây lãng phí (chợ, nhà văn hóa, trạm y tế, đường giao thông nội đồng).
Việc quản lý, duy tu và bảo dưỡng các công trình hạ tầng ít được chú ý, không có
nguồn vốn đầu tư đảm bảo nên khó đảm bảo tuổi thọ của các công trình.
7



* Phát triển sản xuất nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo:
Hầu hết các xã đều có Đề án phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa dựa vào lợi
thế. Việc tổ chức thực hiện được tiến hành bằng cách xây dựng mô hình và hỗ trợ nhân
ra diện rộng. Đến nay, cả nước đã có khoảng 22.500 mô hình sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp hiệu quả.
Nhiều địa phương đã tổ chức thực hiện dồn điền, đổi thửa, thiết kế lại hệ thống
thủy lợi, giao thông nội đồng… chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho việc đưa cơ giới hóa
vào đồng ruộng, tiêu biểu là các tỉnh, thành phố: Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Hà
Nội, Ninh Bình, Thanh Hóa… Chính sách hỗ trợ dân mua máy cày, máy gặt, máy sấy
đã được nhiều tỉnh triển khai mạnh mẽ, đưa tỷ lệ cơ giới hóa các khâu này tăng từ 40%
- 50% lên 80% - 90% như Thái Bình, Hà Tĩnh, An Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp…
Nhiều địa phương đã quan tâm chỉ đạo kiện toàn tổ chức sản xuất, cùng với việc
tăng cường hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp, mô hình “cánh đồng lớn” được
43 tỉnh trong cả nước áp dụng. Đến nay, có khoảng 556 nghìn ha với 2.500 mô hình
hợp tác, liên kết theo mô hình “cánh đồng lớn”. Nhiều mô hình liên kết sản xuất theo
chuỗi trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và lâm nghiệp, mô hình tổ, đội sản xuất
trong khai thác thủy sản... đã được thiết lập và hoạt động có hiệu quả.
Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn bước đầu phát huy hiệu quả. Đến
hết năm 2015 đã có khoảng 2,42 triệu người được hỗ trợ đào tạo nghề, trong đó
khoảng 1,02 triệu người học nghề nông nghiệp và 1,4 triệu người học nghề phi nông
nghiệp. Khoảng 60.000 hộ nghèo có người tham gia học nghề có việc làm đã thoát
nghèo và gần 100.000 hộ có người tham gia học nghề và có việc làm với thu nhập cao
hơn mức bình quân tại địa phương (trở thành hộ khá).
Nhờ các hoạt động nêu trên, đến tháng 9/2016 đã có 58,9% số xã đạt tiêu chí số
10 về thu nhập; 88,2% số xã đạt tiêu chí số 12 về việc làm. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực
nông thôn giảm từ 17,4% năm 2010 xuống còn khoảng 8,2%

(bình quân giảm


1,84%/năm). Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 50,07% cuối năm 2011 xuống
còn 32,59% cuối năm 2014 (bình quân giảm trên 5%/năm). Có 50,4% số xã đạt tiêu
chí số 11 về Hộ nghèo.
Riêng những xã đã đạt chuẩn nông thôn mới, khi bắt đầu thực hiện Chương trình,
thu nhập bình quân là 16 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 11,6%, đến nay, thu nhập
bình quân đạt 28,4 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 3,6%.
8


* Phát triển giáo dục, y tế, văn hóa và bảo vệ môi trường:
• Về phát triển giáo dục: Công tác giáo dục các cấp ở cơ sở tiếp tục được chú
trọng. Đến nay đã có 5.943 xã (78,9%) đạt tiêu chí số 14 về giáo dục.
• Về nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần người dân nông thôn: Cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đang được tiếp tục nâng
cao về chất đã động viên, khơi dậy trong các tầng lớp nhân dân tinh thần đoàn kết giúp
nhau phát triển kinh tế, chung sức xây dựng nông thôn mới. Có 66,7% số xã đạt tiêu
chí số 16 về văn hóa và khoảng 40,8 triệu lượt người tham gia các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ ở nông thôn (các tỉnh đồng bằng có
27% người dân thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao; ở miền núi là 11%).
• Về cảnh quan và môi trường nông thôn: Đã xây dựng được hơn 1.000 công
trình nước sạch tập trung, 500 bãi thu gom rác thải, 1.200 cống rãnh thoát nước thải vệ
sinh. Đến năm 2015, tỷ lệ số dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt
khoảng 86%, trong đó 45% đạt QCVN 02/2009/BYT của Bộ Y tế; khoảng 65% nhà
tiêu đạt tiêu chuẩn hợp vệ sinh; 93% trường học mầm non, phổ thông và 95% trạm y tế
xã có công trình nước sạch vệ sinh.
Tuy vậy, vệ sinh môi trường vẫn đang là vấn đề bức xúc của xã hội, tiêu chí môi
trường đang là tiêu chí đạt thấp nhất. Đến nay, cả nước mới có khoảng 44% số xã đạt
tiêu chí số 17 về Môi trường.
* Xây dựng hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và giữ gìn an ninh, trật tự xã
hội:

• Về xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh: Nhiều tổ chức cơ sở Đảng ở nông
thôn đã thực sự đóng vai trò là hạt nhân trong lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ về xây
dựng nông thôn mới. Đại hội Đảng bộ các cấp vừa qua đều quan tâm, đánh giá cao tác
động xây dựng nông thôn mới và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của các tổ chức Đảng
trong nhiệm kỳ tới. Nhờ vậy, uy tín của nhiều tổ chức Đảng ngày càng được nâng cao.
Thông qua những hoạt động thực tiễn, đội ngũ cán bộ xã đã có bước trưởng thành
nhanh, năng lực, tinh thần trách nhiệm, kỹ năng vận động quần chúng được nâng lên.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở đạt chuẩn được quan tâm. Nhiều nơi
đã luân chuyển, tăng cường cán bộ về xã. Sự phối hợp giữa Đảng, chính quyền, các

9


đoàn thể chính trị - xã hội trong chỉ đạo thực hiện Chương trình ngày càng cụ thể và
hiệu quả. Đã có 72,4% số xã đạt tiêu chí số 18 về hệ thống tổ chức chính trị - xã hội.
• Về đảm bảo an ninh trật tự ở nông thôn: Chú trọng tuyên truyền, vận động
nhân dân thực hiện nội dung yêu cầu của tiêu chí an ninh, trật tự xã hội được giữ vững
trong Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, tích cực tham gia phong trào Toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng và nhân rộng nhiều mô hình tự quản về an ninh, trật
tự, như: "Nông dân với pháp luật", "Xóm đạo bình yên", "Dòng tộc không có tội phạm
và tệ nạn xã hội"... Gắn kết phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với phong
trào thi đua "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới" và cuộc vận động "Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư". Quan tâm xây dựng, củng cố
lực lượng làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự khu vực nông thôn.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, thường xuyên nắm bắt kịp
thời tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân; đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục, vận động nhân dân ở các vùng nông thôn, làm tốt công tác bảo vệ an ninh tổ
quốc, phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, nhiều địa phương tổ chức có hiệu
quả mô hình tự quản về ANTT, bước đầu đã có sức lan tỏa trong cộng đồng (Thái
Bình, Bình Thuận, Quảng Nam...). Đến nay, 92% số xã trên cả nước đạt tiêu chí số 19

về an ninh trật tự xã hội.
I.4. Hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế:
Bên cạnh những thành công đạt được, có thể nêu lên một số tồn tại, vướng mắc
lớn ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới hiện nay,
đó là:
• Các văn bản hướng dẫn về nông thôn mới của các bộ, ngành Trung ương chậm,
thiếu hoặc chưa đồng bộ. Các cơ chế chính sách ban hành còn nhiều nội dung xa thực
tiễn, khó thực hiện. Bên cạnh đó, các sở, ngành tỉnh còn chậm trong tham mưu đề
xuất, nên việc đánh giá thực hiện theo tiêu chí còn khó khăn, chưa đảm bảo tính thống
nhất chung.
• Xây dựng nông thôn mới liên quan đến nhiều chuyên ngành, lĩnh vực, khối
lượng công việc nhiều, được phân cấp triệt để cho cơ sở; trong khi đó, năng lực, trình
độ của một bộ phận cán bộ lãnh đạo xã, thôn hạn chế, nhiều cán bộ lúng túng trong
10


triển khai thực hiện. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân chưa nhận thức đầy
đủ về tầm quan trọng của Nghị quyết của Đảng và mục tiêu của Chương trình xây
dựng nông thôn mới. Họ chưa nhận thức đầy đủ về vị trí và vai trò của người dân, của
cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới; còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thụ động
hoặc nóng vội.
• Nhu cầu vốn cho xây dựng nông thôn mới rất lớn, nhưng đầu tư từ ngân sách và
sự đóng góp của nhân dân có hạn. Tư tưởng sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc trong nông
thôn còn nặng nề; ruộng đất ít, lao động nhiều nên việc tích tụ ruộng đất còn khó khăn;
sản xuất nông nghiệp lợi nhuận thấp, rủi ro cao nên khó thu hút doanh nghiệp về đầu
tư sản xuất nông nghiệp.
• Ở các địa phương, công tác quy hoạch phát triển sản xuất chưa gắn kết với quy
hoạch vùng nên cơ cấu sản xuất; còn mang nặng tính tự phát, không gian nông thôn bị
phá vỡ, mất đi tính truyền thống, bẳn sắc văn hóa, mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi

trường gia tăng. Kinh tế nông thôn phát triển nhưng thiếu tính bền vững cả về kinh tế,
xã hội và môi trường. Người dân thiếu việc làm ổn định, tỷ lệ nghèo đói giảm chậm và
có xu thế tái nghèo ở một số địa phương. Một bộ phận dân cư còn sống dưới mức
nghèo khổ. Chương trình triển khai thực hiện còn chậm so với yêu cầu. Liên kết sản
xuất giữa nông dân với doanh nghiệp và nhà khoa học chậm phát triển. Việc huy động
nguồn lực từ các nguồn ngoài ngân sách còn hạn chế, nhất là từ doanh nghiệp, tín dụng
và nội lực đóng góp từ người dân. Nhiều địa phương chưa chú trọng đến các hoạt động
về xây dựng thiết chế văn hoá, giữ gìn và bảo vệ các nét đẹp truyền thống ở nông thôn.
• Xây dựng mô hình nông thôn mới là việc làm khó khăn, tốn kém, liên quan đến
nhiều ngành, nhiều cấp nên quá trình tổ chức thực hiện thí điểm đã xuất hiện nhiều vấn
đề mới như khó tiếp cận được nguồn vốn theo Nghị định 41/2010/NĐ- CP của Chính
phủ ngày 12 tháng 4 năm 2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiêp,
nông thôn do các doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn. Chương trình xây dựng nông thôn mới cần nguồn vốn rất lớn trong khi nguồn
lực của Nhà nước và các doanh nghiệp, nhân dân có hạn nên tiến độ triển khai các dự
án rất chậm. Còn có khuynh hướng nóng vội hoặc chờ đợi, không tin tưởng hoặc trông
chờ, ỷ lại vào nguồn lực từ trên xuống, nhất là ở các địa phương thu ngân sách chưa đủ
chi. Nhiều cán bộ chưa nhận thức đầy đủ rằng đây là cuộc vận động, là sự nghiệp cách
mạng lâu dài của Đảng và Nhân dân ta.
11


* Nguyên nhân:
Có nhiều nguyên nhân về khách quan cũng như chủ quan đã tạo ra những tồn tại
và hạn chế như trên. Đó là xuất phát thấp của nền kinh tế; tư tưởng sản xuất nhỏ; thủ
tục hành chính phiền hà trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất; nguồn vốn đối
ứng hạn chế; thiếu những giải pháp cụ thể, tích cực để phát huy và khai thác có hiệu
quả tiềm năng, lợi thế của địa phương. Nguyên nhân khác là: trình độ của người dân
chưa đồng đều; chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng vận động cộng đồng của một số
cán bộ, công chức còn những mặt hạn chế; vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông

nghiệp, nông dân, nông thôn còn hạn hẹp; việc bố trí, phân bổ vốn đầu tư hàng năm
còn dàn trải, thiếu tập trung; một số cơ chế, chính sách chưa kịp thời điều chỉnh, bổ
sung cho phù hợp với tình hình thực tế.
Đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi nguồn lực rất lớn của Nhà
nước cũng như toàn xã hội, bởi lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn rộng lớn,
địa hình phức tạp, nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, sản xuất chưa phát triển, thu
nhập của người dân còn thấp, đời sống khó khăn,... Trong khi đó, nguồn lực đầu tư của
Nhà nước và toàn xã hội có hạn. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp chịu rủi ro cao do sự
tác động trực tiếp của thời tiết, biến động của môi trường, dịch bệnh,... Việc phòng,
chống, khắc phục hậu quả là rất khó khăn, phức tạp nên khó thu hút đầu tư từ các
doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, do tác động của khủng hoảng, suy
thoái kinh tế trong khu vực và trên thế giới, Nhà nước phải thực hiện một số chính
sách, trong đó có việc cắt giảm đầu tư công, nên việc huy động nguồn lực đầu tư cho
nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn gặp nhiều khó khăn.
Một bộ phận cán bộ công chức xã chưa tự giác rèn luyện về phẩm chất, về trình
độ, năng lực, về thực hiện cải cách hành chính, còn có tư tưởng ỷ lại, trông chờ trong
thực hiện chức trách nhiệm vụ của chính mình. Sự chỉ đạo của cấp ủy, điều hành của
chính quyền trên một số lĩnh vực đôi lúc còn lúng túng, bị động, hoạt động của Ban
Chỉ đạo, Ban quản lý cấp xã, Ban phát triển cấp thôn còn hạn chế, chưa sáng tạo. Công
tác phối hợp giữa các ngành, các cấp có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ.
III. Phương hướng và kiến nghị giải pháp
I.5. Phương hướng

12


• Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị xã hội. Giữ
vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn trên địa bàn xã.
• Đầu tư nâng cấp, hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.

• Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, tăng trưởng nhanh và bền vững, góp phần
đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý theo hướng gắn phát triển sản
xuất nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ-du lịch.
• Đẩy mạnh phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, an sinh xã hội; tăng cường bảo vệ
môi trường sinh thái, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
I.6. Giải pháp
* Vấn đề đầu tư vào nông thôn
Cần đẩy mạnh đầu tư cho nông nghiệp để thúc đẩy sự phát triển ổn định lâu dài
cho khu vực nông thôn là vấn đề ưu tiên hàng đầu hiện nay. Ở Hàn Quốc, chi phí
khuyến nông đầu tư cho 1 héc ta làm nông nghiệp là 850 đô la Mỹ. Tuy nhiên hiện nay
ở Việt Nam, mức đầu tư này chỉ 1 đô la Mỹ/ héc ta bằng 1/850 lần so với Hàn Quốc.
Giải quyết tình trạng này, thì trong những năm tiếp theo Chính phủ không nên tiếp tục
giảm tỷ lệ đầu tư vào nông nghiệp.
Để thiết lập được vùng chuyên canh trong nông nghiệp với số lượng hàng hóa
lớn, chất lượng ổn định, nông dân phải tích tụ được đất đai canh tác. Nhưng thực tế,
việc tích đất đai cũng đang gặp nhiều bất cập. Với hạn mức giao đất nông nghiệp tối
đa là 3 héc ta/ hộ, Việt Nam có trên 9 triệu héc ta đất nông nghiệp cho hơn 12 triệu hộ
làm nông nghiệp. Nếu một hộ có 3 héc ta thì sẽ có hộ không có đất đai. Kinh nghiệm
từ Đài Loan, nhà nước mua đất để cho nông dân mượn đất canh tác. Nông dân được hỗ
trợ tích tụ bằng công nghệ, chế biến sâu các sản phẩm hình thành vùng thương mại
hàng hóa với quy mô lớn. Điều này sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận cho nông dân hơn là tích
tụ quyền sở hữu ruộng đất.
* Vấn đề quy hoạch nông thôn
Vấn đề lao động được đánh giá là một trong những nhân tố quan trọng và đồng
thời cũng là nhu cầu cấp thiết để phát triển nông thôn. Làm sao để tận dụng tối đa
nguồn lực này là một bài toán đã được xem xét từ rất lâu nhưng vẫn còn tồn tại rất
13


nhiều bất cập xoay xung quanh nó. Chúng ta hãy cùng bàn tới một số giải pháp để giải

quyết vấn đề này.
Một là, tiếp tục quán triệt quan điểm của Đảng ta là : "Thực hiện tốt các chính
sách về lao động, việc làm, tiền lương và thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao
nhất năng lực của người lao động Bảo đảm quan hệ lao động hài hòa, cải thiện môi
trường và điều kiện lao động. Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm. Nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc nước ngoài. Hỗ trợ học
nghề và tạo việc làm cho các đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nông thôn
và vùng đô thị hóa". Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X "Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa"; đồng thời, thực hiện thật tốt Đề án "Hỗ trợ thanh niên học
nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008-2015 ", trong đó tập trung vào thanh niên nông
thôn và dân tộc miền núi.
Hai là, các địa phương ở khu vực nông thôn cần xây dựng chương trình việc làm
trên cơ sở phát triển sản xuất, các chương trình kinh tế - xã hội trên địa bàn. Chương
trình được xây dựng ở ba cấp: tỉnh, huyện, xã gắn kế hoạch sản xuất với kế hoạch giải
quyết việc làm cho thanh niên nông thôn.
Ba là, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện chính sách và tập trung đào tạo nghề cho
thanh niên nông thôn, giúp họ nâng cao kiến thức khoa học- kỹ thuật, kỹ năng quản lý,
kiến thức thị trường để lựa chọn nghề phù hợp. Khuyến khích đào tạo nghề tại doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất. Chú ý đào tạo nghề công nghiệp- dịch vụ cho thanh niên, học
sinh nông thôn mới tốt nghiệp phổ thông giúp họ chuẩn bị điều kiện chuyển nghề sang
lĩnh vực phi nông nghiệp như công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ nông thôn, bán
hàng... Ở từng địa phương cần nỗ lực và sáng tạo tìm kiếm những mô hình đào tạo
nghề phù hợp để tránh tốn kém, lãng phí.
Bốn là, chú trọng giáo dục ý thức tổ chức, kỷ luật, kỹ năng lao động, tay nghề,
ngoại ngữ cho thanh niên ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài và thanh
niên đi lao động theo hợp đồng có thời hạn ở ngoài nước; đồng thời, có biện pháp quản
lý, giáo dục, giúp đỡ cho thanh niên nông thôn.
Năm là, huy động từ nhiều nguồn lực để tăng vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm
cho thanh niên nông thôn; đầu tư ngân sách thỏa đáng để mở rộng mạng lưới dạy

nghề, phổ cập nghề cho thanh niên, hỗ trợ vốn cho doanh nhân trẻ nông thôn. Có chính
14


sách tín dụng ưu đãi cho các cơ sở dạy nghề, đặc biệt là các nghệ kỹ thuật cao. Đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng dịch vụ thị trường lao động tín dụng ưu đãi cho thanh niên
nông thôn vay vốn tạo việc làm. Tạo môi trường thuận lợi và khuyến khích các thành
phần kinh tế đầu tư vào khu vực nông thôn để phát triển sản xuất, tạo việc làm mới,
tăng thu nhập cho thanh niên nông thôn cải thiện đời sống.
Sáu là, xây dựng chiến lược truyền thông quốc gia về định hướng nghề nghiệp và
việc làm cho thanh niên nông thôn, trong đó chú trọng những thông tin về thị trường
lao động, cung cấp cho họ những số liệu tin cậy về lao động, việc làm đến các địa
phương để có căn cứ xây dựng chương trình hướng nghiệp cho thanh niên nông thôn,
giúp họ có điều kiện tiếp xúc với thông tin và những cơ hội tìm kiếm việc làm một
cách đầy đủ và chính xác. Mở rộng các hình thức tư vấn nghề, nâng cao năng lực cũng
như hiệu quả hoạt động các trung tâm dịch vụ việc làm cho thanh niên nông thôn.
Bảy là, đào tạo, nâng cao kiến thức và năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở theo
định hướng chuẩn hóa đội ngũ này. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ
xã chủ yếu là kiến thức pháp luật, quản lý kinh tế - xã hội, kỹ năng tổ chức thực hiện
các chủ trươn, đề án của cấp trên ở địa bàn thôn, xã. Quyết tâm chuẩn hóa đội ngũ cán
bộ cơ sở cấp xã tối thiểu phải có trình độ trung học cơ sở và đào tạo trình độ sơ cấp về
quản lý nhà nước trở lên. Chi bố trí vào bộ máy lãnh đạo quản lý ở cơ sở khi có đủ
chuẩn mới bảo đảm việc nhận thức triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về việc làm cho thanh niên ở nông thôn một cách có hiệu quả.
Tám là, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội từ cơ sở. Hệ thống an sinh xã hội cần
tập trung vào các chính sách đối với lao động nông thôn bị mất việc làm, thiếu việc
làm do có đất bị thu hồi hoặc gặp rủi ro bởi những bất cập khi xây dựng các khu công
nghiệp và đô thị hóa đối với lao động dôi dư và các chính sách về bảo hiểm xã hội, đặc
biệt là bảo hiểm thất nghiệp.
Chín là, phát huy sự nỗ lực của cá nhân thanh niên nông thôn trong học tập, lao

động và việc làm. Mỗi người phải chủ động học tập, nâng cao trình độ, kiến thức
chuyên môn có tay nghề, cần cù, chịu khó, sáng tạo, rèn luyện tác phong công nghiệp,
học tập những gương thanh niên nông thôn điển hình vượt khó, vươn lên lập thân, lập
nghiệp, làm giàu chính đáng. Đồng thời, phải thường xuyên rèn luyện đạo đứ, lối sống,
ý thức tổ chức, kỷ luật lao động, sẵn sàng đảm nhận những công việc khó khăn, gian
khổ khi Tổ quốc và nhân dân giao phó.
15


Mười là, tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở cơ sở nông thôn cần
chủ động thực hiện các chương trình thanh niên, các đề án thanh niên tham gia phát
triển kinh tế, triển khai hiệu quả Đề án quy hoạch và phát triển các “đảo thanh niên”,
các làng thanh niên lập nghiệp. Phát huy mạnh mẽ vai trò xung kích của thanh niên
trong các cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
"Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác", "Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông
thôn mới" và các phong trào, các chương trình: "Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam
vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
* Vấn đề lao động việc làm
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn đang là một đòi hỏi bức xúc, nhưng
là một bài toán khó có lời giải trọn vẹn. Bài viết này xin đưa ra một số giải pháp cụ thể
sau:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước cần có chính sách phù hợp nhằm đẩy mạnh đào tạo
nghề cho lao động nông thôn, gắn đào tạo nghề với sử dụng lao động phù hợp. Việc
đẩy mạnh đào tạo nghề và đa dạng các hình thức đào tạo nghề cho lao động nông thôn
đang là đòi hỏi bức thiết của cuộc sống và phải có sự tham gia của các cấp, các ngành,
các lực lượng trong toàn xã hội. Trước hết, chính quyền các cấp phải làm tốt công tác
tuyên truyền, giáo dục để nhân dân các địa phương, nhất là lực lượng lao động trẻ có
nhận thức đúng về học nghề, thay đổi quan niệm cũ là phải vào các trường đại học mới
có việc làm, thu nhập đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Trên cơ sở có nhận thức đúng về
học nghề, cần phân luồng giúp họ chọn đúng ngành, nghề phù hợp với bản thân và yêu

cầu phát triển KT-XH của đất nước và của mỗi địa phương. Đây không phải là vấn đề
có thể thực hiện trong “một sớm, một chiều”, vì làm thay đổi nhận thức và thói quen
của mỗi người và cả một thế hệ cần phải có thời gian và sự kiên trì. Trong đào tạo
nghề, cần phân loại để có hình thức và nội dung đào tạo phù hợp. Đối với những lao
động lớn tuổi (từ 35 tuổi trở lên), không có điều kiện đi học tập trung, cần tạo điều
kiện tổ chức các lớp dạy nghề tại chỗ, với những nghề truyền thống của địa phương.
Sau khi học xong, cần có sự hỗ trợ về vốn để người lao động phát triển kinh tế hộ gia
đình. Với đối tượng này có thể áp dụng hình thức dạy nghề lưu động, lồng ghép với
các chương trình khuyến nông, khuyến ngư, khuyến công, tạo cơ hội cho lao động
nông thôn có nghề.
16


Thứ hai, tiếp tục phát triển các làng nghề truyền thống đi đôi với xây dựng các
làng nghề mới; phát triển tiểu - thủ công nghiệp, chế biến nông, lâm, thủy sản với quy
mô vừa và nhỏ. Cả nước hiện có khoảng 2.000 làng nghề, hoạt động chủ yếu ở vùng
nông thôn, với các ngành nghề phong phú, đa dạng. Các làng nghề truyền thống đã thu
hút một số lượng lớn lao động nông thôn, song số lao động có nhu cầu việc làm vẫn
còn rất lớn. Bởi vậy, cùng với công tác đào tạo nghề cho các đối tượng, phải tạo ra
nhiều chỗ làm mới, thích ứng với nghề đã đào tạo. Thông qua công tác phát triển, mở
rộng các làng nghề truyền thống thành xã nghề; nhân làng nghề mới và phát triển tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông, lâm, thủy sản với quy mô vừa và nhỏ, vừa tạo được
nhiều việc làm, vừa phù hợp với trình độ lao động nông thôn. Đặc biệt, ở những nơi có
khu công nghiệp, các địa phương cần căn cứ vào hoạt động của các doanh nghiệp để
có hướng phát triển các làng nghề, hoặc phát triển ngành nghề mới để sản xuất bán sản
phẩm, làm vệ tinh... Cho doanh nghiệp trong các khu công nghiệp. Đồng thời, ngay từ
khi quy hoạch, có thể tạo ra quỹ đất nhất định trong các khu công nghiệp để cho lao
động nông thôn trong diện chính sách, hoặc những đối tượng lao động không có điều
kiện và khả năng đào tạo nghề, phát triển các ngành nghề dịch vụ phục vụ cho khu
công nghiệp. Đó chẳng những là một kênh tham gia giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn, mà còn thể hiện chính sách của Nhà nước là quan tâm đến việc làm cho lao

động nông thôn khi Nhà nước thu hồi đất, hoặc có đất sản xuất nông nghiệp bị chuyển
đổi mục đích trong quá trình đô thị hoá và CNH, HĐH.
Thứ ba, Nhà nước cần có chính sách nhằm động viên, thu hút các thành phần
kinh tế đầu tư vào những nơi còn nhiều khó khăn, địa bàn xung yếu. Nhiều địa
phương, nhất là các tỉnh miền núi, biên giới, những khu vực trọng yếu về QP- AN,
giàu tiềm năng nhưng chưa được "đánh thức", do còn thiếu đầu tư và thiếu lao động.
Những khu vực này đang đòi hỏi Nhà nước và các địa phương có chính sách khuyến
khích, nhằm động viên được mọi nguồn lực đầu tư, mở rộng sản xuất, dịch vụ, khai
thác tiềm năng, để vừa phát triển KT-XH, xoá đói, giảm nghèo, vừa tạo ra nguồn nhân
lực, hậu cần và kỹ thuật tại chỗ cho khu vực phòng thủ. Đây là những vùng còn nhiều
khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có lực lượng lao động trẻ, khoẻ, nhiệt tình, trình độ,
tâm huyết, gắn bó lâu dài với địa bàn. Bởi vậy, các địa phương cần có chính sách ưu
đãi hợp lý về đất đai, vốn, thuế... Nhằm động viên, khuyến khích các nguồn lực đầu tư
xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, các khu kinh tế phù hợp với yêu cầu xây dựng và
17


bảo vệ địa bàn; có quy hoạch đồng bộ các yếu tố về kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội
thiết yếu như: đường giao thông, nhà ở, nước sinh hoạt, chợ, trạm y tế, trường học...,
để những lao động đến đây có điều kiện bảo đảm nhu cầu cơ bản, yên tâm và gắn bó
xây dựng địa bàn vững mạnh, giầu đẹp. Đồng thời, có chính sách thu hút lực lượng lao
động ở các vùng, miền khác đến định cư, sinh sống, làm cho kinh tế địa phương phát
triển, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Muốn vậy, không chỉ động viên thanh niên địa
phương, mà còn phải tuyên truyền, vận động thanh niên ở miền xuôi lên lập nghiệp;
sinh viên ra trường về công tác tại các vùng còn nhiều khó khăn. Cần nghiên cứu, nhân
rộng mô hình trí thức trẻ tình nguyện, làng thanh niên lập nghiệp để đáp ứng yêu cầu
trên. Đặc biệt, tiếp tục phát huy vai trò của các khu kinh tế - quốc phòng trong tạo
công ăn việc làm cho nhân địa phương, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số,v.v.
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là vấn đề bức xúc, đòi hỏi phải tiến
hành lâu dài và kiên trì. Trong quá trình thực hiện phải phát huy được sức mạnh tổng

hợp của các cấp, các ngành, các tổ chức, các lực lượng mới mang lại kết quả như
mong muốn. Đây là vấn đề lớn, mà bài viết này mới gợi mở một vài suy nghĩ ban đầu.
* Vấn đề văn hóa nông thôn
Từ thực tiễn đời sống văn hóa của đất nước những năm qua, đặc biệt là trong xu
thế hội nhập, có sự tác động nhiều chiều của quá trình toàn cầu hóa, của nền kinh tế thị
trường… Thiết nghĩ, để khắc phục được những khó khăn, thách thức trên đây, đồng
thời thực hiện tốt các quan điểm, Nghị quyết của Đảng về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, các cấp ủy Đảng, chính quyền cần
quán triệt sâu sắc và thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, cần nhấn mạnh và đề cao Bản sắc của dân tộc Việt Nam được vun đắp
nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, đó là: Lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân – gia đình – làng xã – tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng ngĩa tình đạo lý;
đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống… Mặt khác, có thể thấy văn hóa của dân tộc Việt Nam biểu hiện rõ nhất ở văn
hóa cộng đồng, làng xã. Chính sự cố kết cộng đồng đã kết chặt những giềng, mối tạo
nên sức mạnh, tạo thành những “thành lũy” kiên cố để bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá
trị, bản sắc văn hóa dân tộc.
18


Thứ hai, trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, cần phải nhận thức sâu sắc rằng, sản phẩm văn hóa là một sản phẩm hàng
hóa đặc biệt, hoàn toàn khác với sản phẩm hàng hóa thông thường khác. Đây là
phương tiện để biểu đạt đời sống tinh thần của mỗi dân tộc. Vì vậy, cần có giải pháp
hữu hiệu để bảo vệ và phát triển nền văn hóa của dân tộc mình, chống nguy cơ bị đồng
hóa về văn hóa.
Thứ ba, xem văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
“Mặt trận” là nơi đoàn kết thống nhất ý chí và tình cảm của nhân dân, của đội ngũ trí

thức, văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa vào thực hiện mục tiêu chung của sự
nghiệp đổi mới do Đảng đề ra. Đây cũng là nơi đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác và
cái giả, khẳng định cái đúng, cái tốt và cái đẹp nhằm xây dựng môi trường văn hóa
tinh thần lành mạnh. Đồng thời, đây cũng là nơi để chống lại mưu toan phá hoại của kẻ
thù, đặc biệt là âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch quốc tế trên lĩnh
vực tư tưởng, văn hóa. Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc,
sáng tạo nên những giá trị mới tích cực và tiến bộ, loại bỏ những yếu tố bảo thủ và lạc
hậu trong nền văn hóa, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội, trở thành tâm lý, tập quán tiến bộ, văn minh, nhân bản.
Thứ tư, quá trình quản lý các hoạt động văn hóa nói chung của Nhà nước và xã
hội trở thành yêu cầu tất yếu nhằm duy trì, phát huy và định hướng phát triển văn hóa
phù hợp với truyền thống dân tộc và thực tiễn đòi hỏi phải có sự hài hòa, hợp lý giữa
truyền thống và hiện đại trong điều kiện hiện nay. Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt
động của các thiết chế hiện có; tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động
văn hoá, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trên lĩnh
vực văn hoá.
Thứ năm, có những giải pháp để phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo
tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng. Theo đó, tiếp tục phát
triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất
nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân
tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên
án cái xấu, cái ác. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng,
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động
19


văn hóa, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và
nghệ thuật.
Thứ sáu, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách trong việc xây dựng nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục, tệ nạn cờ bạc, ma tuý, mại dâm,

bạo lực, gây rối trật tự công cộng…
Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp trên đây một mặt sẽ phát huy hiệu
quả, vai trò của thiết chế văn hóa cơ sở, mặt khác sẽ tạo điều kiện để đẩy mạnh thực
hiện có hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở cơ sở,
góp phần xây dựng văn hóa nông thôn mới hiện nay.

20


KẾT LUẬN
Có thể thấy, trong 30 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến
vượt bậc, phần lớn người nghèo sống ở nông thôn nhờ đó đã cải thiện đời sống, đưa
Việt Nam trở thành một trong những nước có tỷ lệ xóa đói, giảm nghèo với tốc độ cao
nhất trên thế giới. Thành quả này có được một phần nhờ vào quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Có thể thấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được coi là một quy luật có tính phổ
biến trong phát triển của tất cả các quốc gia. Còn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là một bộ phận hợp thành của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nằm
trong tổng thể quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, song vị trí đặc biệt
quan trọng, tầm ảnh hưởng sâu rộng cả về kinh tế và xã hội, cũng như những đặc thù
của khu vực nông nghiệp, nông thôn đã tạo nên những nét đặc thù về mục tiêu, nội
dung, con đường, bước đi và các giải pháp thực hiện quá trình này, bởi thành công ở
khu vực này có tác động tạo nền tảng và thúc đẩy nhanh, có hiệu quả và bền vững tiến
trình công nghiệp hóa. Chính vì vậy, Đảng và nhân dân phải tăng cường thúc đẩy và
đưa ra những biện pháp hiệu quả mới có thể thành công trong công cuộc “công nghiệp
hóa, hiện đại hóa” đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cơ sở dữ liệu Quốc gia về văn bản pháp luật. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy ban chấp


hành Trung Ương Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Truy cập từ
/>2. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 8 (81). (2014). Chương trình xây dựng nông thôn
mới



Việt

Nam:

thực

trạng



giải

pháp.

Truy

cập

từ

o/index.php/khxhvn/article/viewFile/23490/20075
3. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 6 (91). (2015). Chương trình xây dựng nông thôn
mới:


một

cái

nhìn

từ

lịch

sử

chính

sách.

Truy

cập

từ

o/index.php/khxhvn/article/viewFile/22693/19399

21




×