Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

tiểu luận đường lối phát triển du lịch biển đảo việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.04 KB, 28 trang )

I. Cơ sở lý luận về phát triển du lịch biển đảo.
1.1 Tổng quan về du lịch biển đảo
1.1.1 Tổng quan
Việt Nam là một quốc gia ven biển, được thừa hưởng rất nhiều vịnh, đảo và các
bãi biển đẹp có tiềm năng lớn cho phát triển du lịch, với những kỳ quan thế giới như vịnh
Hạ Long, vịnh Nha Trang, vịnh Lăng Cô hay quần thể hang động Phong Nha - Kẻ Bàng.
Các bãi biển đẹp như bãi biển Đà Nẵng được tạp chí Forbes của Mỹ bình chọn là một
trong 6 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh. Chúng ta còn có các di tích lịch sử văn hóa
phong phú, các nét đặc trưng mỗi vùng miền, các lễ hội dân gian truyền thống và gần đây
còn xuất hiện nhiều các lễ hội văn hóa hiện đại...
Theo Viện Nghiên cứu phát triển du lịch (Tổng cục Du lịch), Việt Nam có hơn
3.200 km bờ biển, hơn 1 triệu km2 diện tích mặt nước biển, hơn 2.770 đảo ven bờ và có
khoảng 125 bãi biển, vịnh biển thuận lợi để phát triển du lịch. Ngoài 28 trên tổng số 63
tỉnh thành phố có địa lý giáp biển thì Việt Nam cũng có 12 huyện đảo gồm đảo Cô Tô,
Vân Đồn (Quảng Ninh), Bạch Long Vĩ, Cát Bà (Hải Phòng), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Hoàng
Sa (Đà Nẵng), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Trường Sa (Khánh
Hòa), Phú Quí (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu) và Phú Quốc (Kiên Giang).
Đó chính là những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch nghỉ dưỡng biển đảo,
du lịch thăm quan thắng cảnh, các di tích lịch sử văn hóa, du lịch sinh thái, thể thao và
mạo hiểm…Du lịch biển đảo đang là loại hình du lịch được chú trọng đầu tư ở Việt Nam
nhờ những lợi thế về biển. Sự đa dạng về các loại hình du lịch là một trong số những
nhân tố tiên quyết dẫn tới sự phát triển mạnh mẽ của ngành dịch vụ này. Đây cũng là cơ
sở để đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhóm đối tượng khách hàng khác nhau.
1.1.2 Ý nghĩa kinh tế - xã hội của phát triển du lịch biển đảo
Du lịch biển, đảo là loại hình du lịch đang được đầu tư nghiên cứu, khai thác và
phát triển mạnh ở nhiều quốc gia có lợi thế về biển, đảo trên thế giới. Việc phát triển kinh


tế biển trở thành xu thế tất yếu trên con đường tìm kiếm và đảm bảo các nhu cầu về
nguyên, nhiên liệu, năng lượng, thực phẩm cũng như không gian sinh tồn cho loài người
trong tương lai. Trong đó, Việt Nam, với điều kiện khí hậu nhiệt đới ấm áp, từ lâu đã chú


trọng tới phát triển các loại hình du lịch biển đảo. Việc phát triển kinh tế biển ở một số
nơi, một số khu vực đã có những sự việc ảnh hưởng nhất định đến môi trường, kinh tế –
xã hội… các địa phương và vùng miền tại Việt Nam. Ngành du lịch biển đảo đã tạo ra
nhiều việc làm mới, tăng thu nhập của dân cư, thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành
kinh tế, góp phần phát triển hậu phương vững chắc, xây dựng thế trận an ninh, quốc
phòng biển, đảo Việt Nam.
Thứ nhất, du lịch biển đảo thúc đẩy sự phát triển cho ngành du lịch và nền kinh tế
của mỗi quốc gia. Đây là loại hình du lịch có vai trò và tỷ trọng lớn cả về giá trị doanh
thu, số lượng lao động, cơ sở hạ tầng- vật chất kỹ thuật… trong ngành ở các quốc gia có
lợi thế về biển, đảo. Du lịch biển, đảo được xem là loại hình du lịch mũi nhọn, giữ vai trò
chủ đạo của các quốc gia này và là giải pháp cứu cánh để vực dậy nền kinh tế kém phát
triển cho các quốc gia ven biển hiện nay. Tiến sỹ Đỗ Cẩm Thơ, Phó Vụ trưởng Vụ kế
hoạch, Tài chính - Tổng cục Du lịch thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết:
Trong những năm qua, du lịch các tỉnh ven biển đóng góp khá quan trọng vào sự phát
triển kinh tế, chiếm hơn 60% tổng thu từ du lịch của cả nước. Tốc độ tăng trưởng về thu
nhập từ du lịch trong vòng 15 năm trở lại đây giữ mức tăng trưởng hơn 24%/năm. Lượng
khách du lịch quốc tế đến khu vực ven biển có xu hướng tăng liên tục và hiện nay chiếm
gần 70-80% tổng lưu lượng khách trên cả nước. Khách du lịch nội địa chiếm hơn 50%
tổng lượng khách đi lại trên toàn quốc. Du lịch ngày càng khẳng định sự đóng góp quan
trọng trong nền kinh tế biển.
Thứ hai, du lịch biển đảo là động lực thúc đẩy kinh tế biển của các địa phương
phát triển mạnh mẽ. Du lịch biển đảo phát triển kích thích các hoạt động khai thác, nuôi
trồng và chế biến tại chỗ của người dân địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu cho du khách.
Nó không chỉ dừng lại ở sự phát triển về số lượng mà còn cả về chất lượng và hình thức


để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. Du lịch là một ngành có lợi thế quan
trọng trong việc tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ. Hoạt động du lịch được coi là ngành xuất
khẩu tại chỗ, không chỉ các dịch vụ lưu trú, vận chuyển, tham quan, vui chơi giải trí mà
còn kích thích tiêu dùng và xuất khẩu tại chỗ các loại hàng hoá, thực phẩm cung cấp cho

du khách, hàng hóa tiêu dùng, sản vật và đồ lưu niệm trong nước tạo ra tính lan tỏa của
hiệu ứng kinh tế.
Thứ ba, kinh tế du lịch biển đảo đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích sự
phát triển của cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật vùng ven biển, làm thay đổi mạnh mẽ bộ
mặt kinh tế – xã hội vùng ven biển. Để phát triển du lịch bắt buộc phải phát triển và hoàn
thiện cơ sở hạ tầng – vật chất kỹ thuật (giao thông, điện, nước, hệ thống thông tin liên lạc,
cơ sở y tế, nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi, mua sắm…), ngoài mục đích phục vụ du
lịch còn nhằm phát triển kinh tế-xã hội và nhu cầu của chính cư dân địa phương.
Thứ tư, phát triển du lịch biển đảo giúp nâng cao đời sống, cải thiện thu nhập,
phúc lợi và nâng cao môi trường văn hóa du lịch cho mỗi địa phương, cộng đồng cư dân
ven biển. Ngoài đội ngũ lao động chuyên nghiệp việc phát triển du lịch biển, đảo còn góp
phần to lớn trong việc giải quyết việc làm cho cư dân địa phương, họ có thể là những
người lao động theo thời vụ, những người thợ trong các làng nghề thủ công, các đối
tượng hỗ trợ cho các dịch vụ du lịch… Theo thống kê, đội ngũ lao động du lịch vùng ven
biển hiện chiếm khoảng 75% tổng số lao động du lịch trực tiếp của cả nước 1. Đây sẽ là
điều kiện để họ phát huy những năng lực và tiềm năng của mình để tạo thêm thu nhập, là
cơ hội để xóa đói giảm nghèo, cơ sở quan trọng trong xây dựng môi trường chính trị ổn
định, kích thích dân cư địa phương yên tâm bám biển, bám đảo.
Thứ năm, phát triển kinh tế du lịch biển đảo giúp chúng ta mở rộng giao lưu quốc
tế, nâng cao vị thế của Việt Nam với thế giới, tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị giữa
các dân tộc và làm lành mạnh hóa các quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay, phát
triển du lịch biển, đảo còn có tác dụng quan trọng trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng


và chủ quyền biên giới trên biển cho quốc gia. Du lịch biển đảo phát triển góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng hiện đại, mang lại nguồn thu cho ngân
sách, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đây là tiền đề quan trọng để đầu
tư xây dựng tiềm lực kinh tế quân sự, trang bị, xây dựng lực lượng bộ đội hải quân, biên
phòng, cảnh sát biển, lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn ngày càng vững mạnh
nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, bảo vệ chủ quyền biển - đảo.


1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến du lịch biển đảo
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Với chiều dài bờ biển 3.260km, Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chỉ số cao
nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích lãnh thổ. Theo đó, bình quân cứ 10km2 đất liền
có 1km bờ biển, cao gấp 6 lần chỉ số trung bình của thế giới. Việt Nam có hơn 3.000 hòn
đảo và hơn 1 triệu km2 vùng biển kinh tế đặc quyền rộng gấp 3 lần diện tích đất liền,
chứa đựng nhiều hệ sinh thái quan trọng và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa
dạng.
Với đường bờ biển dài và hơn 3.000 hòn đảo, Việt Nam được thiên nhiên ban phú
cho nhiều bãi tắm đẹp, có giá trị nghỉ dưỡng cao. Theo thống kê, dọc bờ biển Việt Nam
có khoảng 125 bãi biển đẹp, trong đó, một số bãi biển và vịnh được đánh giá là những bãi
biển và vịnh đẹp nhất của thế giới như bãi biển Mỹ Khê (Đà Nẵng), Phú Quốc (Kiên
Giang), Eo gió (Bình Định), vịnh Nha Trang, vịnh Lăng Cô, đặc biệt, vịnh Hạ Long với
cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên
thế giới. Điều này tạo nhiều lợi thế cho Việt Nam phát triển du lịch biển.

1.2.2 Điều kiện kinh tế - xã hội:
1.2.2.1 Dân cư


Vùng ven biển Việt Nam hiện gồm 29 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với
diện tích tự nhiên là 140.413 km2, dân số 41,5 triệu bằng 41,5% diện tích và 53,4% dân
số cả nước (theo số liệu điều tra năm 2000). Lãnh thổ du lịch biển là nơi hội tụ của nhiều
điểm thuận lợi và nguồn tài nguyên tự nhiên đa dạng và phong phú cho phát triển kinh tế
- xã hội, đặc biệt là du lịch bởi trên vùng lãnh thổ này hiện tập trung toàn bộ 6 di sản thế
giới ở Việt Nam; phần lớn các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên; nhiều di tích
lịch sử - văn hóa;…
1.2.2.2 Hệ thống đô thị ven biển:
Hệ thống đô thị Việt Nam tập trung chủ yếu ở ven biển với 43 đô thị từ cấp thị xã

trở lên, trong đó có 1 đô thị đặc biệt (Thành phố Hồ Chí Minh); 3 đô thị loại 1 (bao gồm
cả Thành phố Huế mới được công nhận năm 2004); 5 đô thị loại 2; 7 đô thị loại 3 và 27
thị xã (đô thị loại 4).
Hệ thống đô thị có vị trí đặc biệt quan trọng trong tổ chức hoạt động du lịch theo
lãnh thổ, trong đó các đô thị đặc biệt và đô thị loại 1 đều là các trung tâm vùng du lịch.
Sự phát triển nhanh chóng của hệ thống vùng ven biển hiện nay sẽ là động lực quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của du lịch biển.
1.2.2.3 Cơ sở hạ tầng du lịch biển:
Trên chiều dài 3.260 km bờ biển từ mũi Ngọc (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên
Giang), hiện có 73 cảng biển lớn nhỏ, phần lớn tập trung ở miền Trung và Đông Nam Bộ,
trong đó có một số cảng biển đã đón tàu du lịch Columbus, Europa (Đức), Arion
(Australia),… cập bến như Hạ Long, Đà Nẵng, Nha Trang, Thành phố Hồ Chí Minh, Phú
Quốc.
Hiện có nhiều tuyến đường biển trong nước và quốc tế đang hoạt động như tuyến
Hải Phòng - Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng - Đà Nẵng; Thành phố Hồ Chí Minh Rạch Giá…và các tuyến quốc gia như Thành phố Hồ Chí Minh - Vladivostoc, Hồng
Kông, Singapore, Băng Cốc; Hải Phòng đi Hồng Kông, Manila, Tôkyô,…


Cả nước hiện nay có khoảng 14/18 sân bay, trong đó có 2/3 sân bay quốc tế đang
được khai thác ở vùng ven biển, đó là: Cát Bi (Hải Phòng); Vinh (Nghệ An); Đà Nẵng;
Phù Cát (Bình Định); Tuy Hòa (Phú Yên); Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hòa); Vũng
Tàu, Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu); Tân Sơn Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh); Cà Mau
(Cà Mau); Rạch Giá, Phú Quốc (Kiên Giang). Trong số các sân bay trên có nhiều máy
bay mới được nâng cấp và mở rộng như sân bay Phú Bài, Côn Đảo, Phú Quốc,… góp
phần quan trọng góp phần thúc đẩy du lịch biển phát triển.
1.2.3. Tình hình chính trị và các điều kiện an toàn đối với du khách
Quá trình hội nhập quốc tế đang đặt ra cho ngành du lịch nước ta nhiều thách thức,
trong đó có việc bảo đảm an ninh và an toàn cho du khách. Phát triển du lịch phải gắn
liền công tác bảo đảm an ninh và ngược lại, việc giữ vững an ninh, trật tự, an toàn cho du
khách cũng góp phần quan trọng để phát triển du lịch và kinh tế - xã hội của đất nước.

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính chất liên ngành, liên vùng và xã hội hóa
cao. Hoạt động du lịch có nhiều yếu tố liên quan công tác an ninh quốc gia, bảo đảm trật
tự an toàn xã hội. Vì vậy, mối quan hệ giữa hai ngành công an và du lịch đã được quan
tâm đặc biệt. Nhiều văn bản pháp lý đã tạo cơ sở cho công tác phối hợp giữa hai ngành
mà trọng tâm là bảo đảm an ninh cho các hoạt động du lịch và giữ gìn an ninh quốc gia
trong quá trình phát triển.
Tình hình chính trị và các điều kiện an toàn đối với du khách có tác động rất lớn
đến lượng khách du và sự phát triển du lịch. Khách du lịch sẽ không chọn đến những nơi
không an toàn, bất ổn về chính trị. Nên vấn khi đề ra các đường lối chính sách để phát
triển kinh tế biển đảo, ta không thể bỏ qua vấn đề này.
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, lượng khách du lịch trong nước và
quốc tế không ngừng tăng, số lượng các doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp nước
ngoài, liên doanh du lịch cũng gia tăng. Công tác bảo đảm an ninh du lịch nảy sinh nhiều
vấn đề khó khăn, phức tạp khi thủ tục kiểm soát nhập cảnh, xuất cảnh đang tiến tới đơn


giản, thông thoáng. Việc miễn thị thực song phương với hơn 50 nước và đơn phương cho
công dân bảy nước vào Việt Nam; việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian
xét duyệt nhân sự từ năm ngày xuống ba ngày trong bối cảnh người nước ngoài xuất
cảnh, nhập cảnh vào Việt Nam ngày càng tăng, đặt ra yêu cầu công tác quản lý phải rất
khoa học, cần sự đổi mới tư duy, cơ chế, biện pháp phù hợp, hiện đại và đòi hỏi phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, nhất là giữa hai ngành du lịch và công an. Nhiều công
ty du lịch hiện chỉ đơn thuần làm dịch vụ thị thực, xem nhẹ việc đón và quản lý khách,
trong khi các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch
ở Việt Nam cũng ngày càng nhiều. Tiềm lực và tính chuyên nghiệp của họ nhìn chung
cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Chính vì vậy, việc cạnh tranh, bảo đảm lợi ích
quốc gia trong kinh doanh du lịch là vấn đề khó khăn.
Một vấn đề cần lưu ý là các hoạt động du lịch, các tua, tuyến du lịch thường mang
tính liên kết, ở nhiều địa phương khác nhau và nằm trên các địa bàn an ninh chiến lược:
Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ hoặc những trung tâm kinh tế, chính trị và sẽ ngày

càng mở rộng về phạm vi. Ðiều cần lưu ý là trong điều kiện thuận lợi của hội nhập quốc
tế, mở rộng phạm vi liên kết, các thế lực thù địch, các loại tội phạm sẽ triệt để lợi dụng để
thâm nhập, đưa người vào Việt Nam cũng như ra nước ngoài qua con đường du lịch để
tiến hành các hoạt động vi phạm an ninh quốc gia, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có
tổ chức... Ðiều này đòi hỏi cần có sự chủ động, tự giác trong công tác phối hợp giữa công
tác an ninh với kinh doanh du lịch mới có thể bảo đảm, giữ vững an ninh, trật tự quốc gia.
Như vậy, Bộ Công an và ngành du lịch cần có những giải pháp để nâng cao hiệu
quả phối hợp, nhằm bảo đảm trật tự an toàn xã hội và an ninh cho du khách. Hai ngành
cần phối hợp hiệu quả trong công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách
nhiệm và tinh thần cảnh giác cho những người tham gia hoạt động du lịch trên các địa
bàn, tuyến điểm du lịch trọng điểm, đồng thời có biện pháp phòng ngừa, chống các thế
lực xấu lợi dụng lôi kéo, xâm phạm an ninh quốc gia qua đường du lịch.


Mỗi địa bàn, tuyến, điểm du lịch đều có đặc thù riêng. Do đó, công tác phối hợp
giữa hai ngành phải căn cứ vào tình hình thực tế để đề ra nội dung, biện pháp phối hợp
cho phù hợp nội dung có thể được bổ sung, sửa đổi theo từng thời kỳ. Việc tham mưu, đề
xuất xây dựng nội dung quy chế và tổ chức triển khai thực hiện do cơ quan công an chủ
động và chủ trì, chú trọng công tác chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn mối quan hệ phối hợp
giữa hai ngành trong bảo đảm an ninh trật tự trên các địa bàn, tuyến, điểm du lịch trọng
điểm. Ngành du lịch cần tăng cường cùng các cơ quan chức năng tích cực kiểm tra, xử lý
các doanh nghiệp lợi dụng tư cách pháp nhân cho người nước ngoài núp bóng để hoạt
động kinh doanh du lịch trái phép, trốn thuế, gây thất thu cho Nhà nước, ảnh hưởng xấu
đến môi trường phát triển du lịch. Ðồng thời, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý
nhà nước về du lịch của những nước có đông công dân sang Việt Nam du lịch để nắm
tình hình và có biện pháp xử lý các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh du lịch và
hướng dẫn viên du lịch trái phép ở Việt Nam.
Hiện tại, nước ta đã ký với hơn 50 nước Hiệp định song phương miễn thị thực đối
với công dân mang hộ chiếu ngoại giao, công vụ hoặc hộ chiếu phổ thông và đơn phương
miễn thị thực cho công dân nhiều nước, do đó cần tính toán chưa nên tiếp tục mở rộng

đơn phương miễn thị thực cho công dân các nước khác; việc mở rộng miễn thị thực nên
thực hiện theo nguyên tắc song phương, áp dụng có đi có lại. Bên cạnh đó, ngành cần
quan tâm đúng mức công tác quản lý, bảo vệ nội bộ đối với hoạt động đưa người Việt
Nam đi du lịch nước ngoài, để tránh phát sinh những vấn đề phức tạp như trốn ở lại nước
ngoài, có hành vi phát ngôn, tuyên truyền không đúng, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất
nước.
Mối quan hệ mật thiết giữa hai ngành công an và du lịch có vai trò quan trọng, bảo
đảm an ninh cho du khách và trật tự, an toàn xã hội trong thời kỳ mở rộng hội nhập quốc
tế. Công tác phối hợp giữa hai ngành được phát huy mới tạo ra được sự đồng thuận và an
ninh du lịch sẽ được giữ vững, góp phần tích cực bảo đảm lợi ích quốc gia về kinh tế,
chính trị, an ninh đối ngoại trong các hoạt động du lịch.


1.2.4. Chính sách của Nhà nước
Chính sách phát triển du lịch được quy định tại Luật du lịch 2017 có hiệu lực từ
ngày 01/01/2018, theo đó:
1. Nhà nước có chính sách huy động mọi nguồn lực cho phát triển du lịch để đảm bảo du
lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch được hưởng mức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cao nhất
khi Nhà nước ban hành, áp dụng các chính sách về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư.
3. Nhà nước ưu tiên bố trí kinh phí cho các hoạt động sau đây:
a) Điều tra, đánh giá, bảo vệ, tôn tạo, phát triển giá trị tài nguyên du lịch;
b) Lập quy hoạch về du lịch;
c) Xúc tiến du lịch, xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia, địa phương;
d) Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển du lịch.
4. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các hoạt động sau đây:
a) Đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ du lịch chất lượng cao;
b) Nghiên cứu, định hướng phát triển sản phẩm du lịch;
c) Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch;
d) Đầu tư phát triển sản phẩm du lịch mới có tác động tích cực tới môi trường, thu hút sự

tham gia của cộng đồng dân cư; đầu tư phát triển sản phẩm du lịch biển, đảo, du lịch sinh
thái, du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa và sản phẩm du lịch đặc thù khác;
đ) Ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại phục vụ quản lý và phát triển du lịch;
e) Phát triển du lịch tại nơi có tiềm năng du lịch; sử dụng nhân lực du lịch tại địa phương;
g) Đầu tư hình thành khu dịch vụ du lịch phức hợp, có quy mô lớn; hệ thống cửa hàng
miễn thuế, trung tâm mua sắm phục vụ khách du lịch.


5. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện thuận lợi về đi lại, cư trú, thủ tục xuất cảnh, nhập
cảnh, hải quan, hoàn thuế giá trị gia tăng và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp khác cho
khách du lịch.

II. Tình hình phát triển du lịch biển đảo Việt Nam.
2.1 Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế biển
Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị
quyết số 36-NQ/TW năm 2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc
gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn
hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn
xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực;
phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên
tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển. Đến
năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an
ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây
dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham
gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và
đại dương.
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Trần Quý Kiên cho biết: Trong những năm qua,
kinh tế biển của Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể song vẫn ẩn chứa nhiều nguy
cơ, thách thức. Việc phát triển kinh tế biển ở một số nơi, một số khu vực đã gây ra ô

nhiễm môi trường khu vực biển ven bờ; ô nhiễm rác thải, đặc biệt là rác thải nhựa đã trở
thành vấn đề cấp bách; các hệ sinh thái biển, đa dạng sinh học biển bị suy giảm; một số
tài nguyên biển bị khai thác quá mức; công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển
dâng, biển xâm thực còn nhiều hạn chế, bất cập; chưa phát huy hiệu quả bản sắc văn hóa


biển; chưa quan tâm đúng mức xây dựng thiết chế văn hóa các vùng biển và ven biển;
chưa hình thành được văn hóa sinh thái biển với sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân.
Để khai thác hiệu quả các cơ hội mà biển đem lại, đồng thời giảm thiểu thách thức
và nguy cơ đối với tài nguyên và môi trường biển, Việt Nam cần chủ động xây dựng một
nền kinh tế biển xanh. Thứ trưởng Trần Quý Kiên cho rằng các nguồn tài nguyên của đại
dương được khai thác và sử dụng bền vững nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cải thiện
sinh kế đồng thời bảo tồn sức khoẻ của các hệ sinh thái biển, đại dương.
Thứ trưởng Trần Quý Kiên khẳng định: “Nghị quyết số 36-NQ/TW đã đưa ra một
chiến lược tổng thể, toàn diện, là nền tảng cho việc phát triển kinh tế biển, quản lý biển,
hải đảo của nước ta trong các giai đoạn tiếp theo với những khâu đột phá hết sức quan
trọng và các nhiệm vụ, giải pháp vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cụ thể để đạt
được các mục tiêu đề ra”.
Báo cáo tại Hội nghị, ông Tạ Đình Thi, Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải
đảo Việt Nam đã giới thiệu tóm tắt một số nội dung cơ bản và tình hình triển khai thực
hiện Nghị quyết 36-NQ/TW. Nghị quyết số 36-NQ/TW đã đề ra 05 chủ trương lớn; 03
khâu đột phá và 07 nhóm giải pháp nhằm đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh” –
Tổng cục trưởng Tạ Đình Thi nhấn mạnh.
Nghị quyết số 36-NQ/TW: 05 chủ trương lớn; 03 khâu đột phá và 07 nhóm
giải pháp.
05 chủ trương lớn: (1) Phát triển kinh tế biển và ven biển: sắp xếp theo thứ tự ưu
tiên các ngành kinh tế thuần biển; phát triển đồng bộ, từng bước hình thành các khu kinh
tế, khu công nghiệp, khu đô thị sinh thái ven biển; (2) Phát triển các vùng biển dựa trên
lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hòa giữa bảo tồn và phát triển: Dựa trên quy hoạch
không gian biển; (3) Bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học

biển; chủ động ứng phó với BĐKH, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai; (4) Nâng


cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hóa biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển; (5)
Bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế.
03 khâu đột phá: Hoàn thiện thể chế phát triển bền vững kinh tế biển; Phát triển
khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao; Phát triển kết cấu hạ
tầng đa mục tiêu, đồng bộ
07 nhóm giải pháp: Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững biển, tạo đồng thuận trong toàn
xã hội. Hai là, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
về phát triển bền vững biển. Ba là, phát triển khoa học, công nghệ và tăng cường điều tra
cơ bản biển. Bốn là, đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển. Năm
là, tăng cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển. Sáu
là, chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển. Bảy là,
huy động nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển bền vững
biển, xây dựng các tập đoàn kinh tế biển mạnh.

2.2 Thực trạng phát triển kinh tế du lịch biển
Nghị quyết cũng nêu rõ ràng về các chủ trương của Đảng về phát triển các ngành
kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: Du lịch và dịch vụ biển; Kinh tế hàng hải; Khai thác dầu
khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; Nuôi trồng và khai thác hải sản; Công
nghiệp ven biển; Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới. Hướng các ngành
phát triển đồng bộ, từng bước hình thành khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị sinh
thái ven biển. Phát triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hoà giữa
bảo tồn và phát triển. Ngoài ra, phát triển kinh tế biển gắn liền với bảo vệ môi trường,
bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển; chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai. Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng
văn hoá biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển. Bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại
và hợp tác quốc tế.



Để thực hiện các chủ trương đó, chúng ta đã đề ra những giải pháp như: “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về
phát triển bền vững biển, tạo đồng thuận trong toàn xã hội; Hoàn thiện thể chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển bền vững kinh tế biển; Phát triển khoa
học, công nghệ và tăng cường điều tra cơ bản biển; Đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực biển; Tăng cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi
pháp luật trên biển; Chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế
về biển; Huy động nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển
bền vững biển, xây dựng các tập đoàn kinh tế biển mạnh”.
Những chủ trương, biện pháp nêu trên từng bước được cụ thể hóa trong các lĩnh
vực kinh tế biển. Nhờ đó, các lĩnh vực kinh tế biển nước ta đã có bước chuyển biến đáng
kể và đạt được những kết quả quan trọng.
Tháng 8-2013, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch phê duyệt Đề án “Phát triển du
lịch biển, đảo và vùng ven biển Việt Nam đến năm 2020”. Mục tiêu của đề án là phấn đấu
đến năm 2020, tổng thu từ du lịch biển đạt trên 200 ngàn tỷ đồng, tương đương 10 tỷ
USD; tạo ra 600 ngàn việc làm trực tiếp và 1,1 triệu việc làm gián tiếp. Với mục tiêu đó,
đề án hướng đến mục đích đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ
biển; góp phần quan trọng ở cả hai lĩnh vực bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên
biển và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Sau 5 năm thực hiện đề án, nhất là những năm gần đây, du lịch Việt Nam đã đạt
được những thành tựu đáng kể. Lượng khách nước ngoài đến Việt Nam tăng cao, năm
2017 đạt 12,9 triệu lượt, tăng 29,1% so với năm 2016. Trong đó, khách đến bằng đường
hàng không đạt 10,9 triệu lượt, khách đến bằng đường bộ đạt 1,8 triệu lượt, và khách đến
bằng đường biển đạt 258,8 ngàn lượt. 5 tháng đầu năm 2018, lượng khách quốc tế đến
Việt Nam đạt 6.708.428 lượt người, tăng 27,6% so cùng kỳ năm 2017. Theo phân tích và
đánh giá của ngành chức năng, khách du lịch đến các vùng biển, đảo tăng nhiều hơn so
với các địa phương không có biển. Điều đó khẳng định, du lịch biển, đảo Việt Nam có



sức thu hút đặc biệt đối với du khách quốc tế. Du lịch biển không chỉ thúc đẩy sự phát
triển của nhiều ngành kinh tế, khai thác hết tiềm năng, thế mạnh, tạo nhiều việc làm cho
xã hội mà còn góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước khi đánh giá về du lịch biển, đảo đều khẳng định, Việt
Nam là quốc gia biển giàu tiềm năng, nhiều điểm đến hấp dẫn vào bậc nhất trong khu vực
và trên thế giới.
Từ năm 2000 đến nay, ngành du lịch Việt Nam đã tăng trưởng khá trong cả doanh
thu và số lượt khách du lịch. Đóng góp một vị thế quan trọng vào sự phát triển này là du
lịch biển. Theo thống kê, trung bình trên 75% khách quốc tế chọn du lịch biển đảo và 28
tỉnh, thành phố có địa lý giáp biển, đóng góp tới 71,5% tổng doanh thu du lịch lữ hành
của cả nước. Top 20% các địa phương dẫn đầu chiếm tỷ trọng 75,8% tổng doanh thu du
lịch lữ hành và trong tốp này tỷ lệ các địa phương giáp biển đã chiếm đến gần 82%.
Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, trong giai đoạn 2000 2010, tỷ trọng khách quốc tế đến Việt Nam du lịch tại các địa phương giáp biển là 75,3%,
hay tính trung bình trên 75% khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chọn du lịch biển đảo.
Đối với khách du lịch trong nước, tỷ trọng này khiêm tốn hơn tuy nhiên cũng chiếm
54,5% tổng lượng khách du lịch trong nước.
Về doanh thu du lịch, tính bình quân trong giai đoạn 2000 – 2015, chỉ riêng 28
tỉnh, thành phố có địa lý giáp biển đã chiếm tỷ trọng 71,5% doanh thu du lịch lữ hành của
cả nước. Điều này cho thấy ưu thế mạnh của du lịch biển trong ngành du lịch của cả
nước. Xét theo bình quân địa phương trong giai đoạn này, tính trung bình doanh thu du
lịch lữ hành của một địa phương giáp biển cao gấp 3,2 lần so với một địa phương không
giáp biển.Các địa phương dẫn đầu trong doanh thu du lịch chiếm tới trên 90% tổng doanh
thu và đặc biệt đều có tỷ lệ địa phương giáp biển rất cao, với tốp cao nhất có tỷ lệ địa
phương giáp biển chiếm gần 82%. Điều này phản ánh ưu thế của những địa phương có
địa lý giáp biển trong phát triển du lịch. Những địa phương có địa lý giáp biển thuộc 2
tốp dẫn đầu này bao gồm Đà Nẵng, Quảng Ninh, Quảng Nam, Bà Rịa - Vũng Tàu, Khánh


Hòa, Quảng Bình, Kiên Giang, Thừa Thiên - Huế, Hải Phòng, Thanh Hóa, Tiền Giang,

Nghệ An, Bình Thuận, Bình Định và Quảng Trị.

2.2.1 Hạn chế và ý nghĩa trong giai đoạn mới
a, Hạn chế:
Hiện nay, du lịch Việt Nam vẫn chưa trả lời được 4 câu hỏi quan trọng nhất của
phát triển du lịch biển, đó là Ai đến? Đến đây làm gì? Đến bằng cách nào? Để lại cái gì?
Các chuyên gia trong ngành có số liệu chung chung về du khách quốc tế chọn biển
Việt Nam làm điểm đến, nhưng chưa phân tích rõ từng thị trường vì mỗi thị trường khách
có nhu cầu khác nhau.
Câu hỏi đến đây để làm gì cũng chưa được trả lời thỏa đáng, vì biển Việt Nam
thiếu quá nhiều dịch vụ bổ trợ hoặc không đa dạng sản phẩm vui chơi giải trí trên biển
như các nước trong khu vực.
Ở một khía cạnh khác, du lịch Việt Nam đang lãng phí trong quá trình khai thác
tiềm năng du lịch biển. Quy hoạch của nhiều bãi biển đẹp ở Việt Nam đã bị phá vỡ, phát
triển manh mún và khó điều chỉnh. Điển hình là bãi biển Mũi Né đang kẹt cứng trong
không gian ven bờ khi có quá nhiều khách sạn, resort chen dày ở mặt tiền biển.
Ngành du lịch tàu biển ở Việt Nam chưa thu hút du khách vì hiện tại Việt Nam vẫn
chưa có cảng hành khách tàu biển chuyên biệt. Các tàu biển du lịch đang phải cập cảng
chung với cảng hàng hóa, nên chất lượng dịch vụ cũng như điều kiện kỹ thuật tại các
cảng này chưa đảm bảo chất lượng cao cho khách du lịch.
Mặt khác, sản phẩm du lịch ở các điểm dừng chân của du khách còn đơn điệu, vấn
đề an ninh du lịch còn nhiều bất cập, trình độ nhân lực phục vụ cho ngành du lịch còn
nhiều hạn chế về kỹ năng, ngoại ngữ…
Nhu cầu khách đi biển vào dịp cuối tuần tăng rất cao, các trung tâm du lịch biển
đều quá tải. Nhược điểm lớn nhất là dịch vụ ở các nơi này thiếu, yếu và ít dịch vụ bổ trợ
cho khách vui chơi, mua sắm.


Một số vùng biển còn tiềm năng lớn nhưng rất khó đưa khách đến với số lượng
đông như Hà Tiên, Hòn Chông và Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang, do thiếu hạ tầng,

dịch vụ hoặc đường bay chưa thật thuận lợi.
An ninh trật tự và quản lý giá cũng là những vấn đề khiến nhiều doanh nghiệp du
lịch bức xúc. Rất nhiều khu du lịch lên giá vào giờ chót làm cho khách bất bình. Giá có
thể cao vào những ngày cao điểm nhưng không nên vượt quá 50% so với ngày thường và
điều này cần được thông báo trước cho khách, cũng như các công ty lữ hành.
Các khu nghỉ dưỡng ven biển ở Việt Nam có giá cao, chủ yếu nhắm vào đối tượng
khách quốc tế và một phần du khách giàu có trong nước, rốt cuộc đã đẩy du khách có thu
nhập trung bình đi du lịch ra nước ngoài. Trong khi đó, khách quốc tế vào Việt Nam chỉ
đi theo mùa (thường là bốn tháng cuối năm), còn lại phần lớn thời gian không khai thác
hết công suất phòng.
Trên suốt chiều dài 3.260km bờ biển, Việt Nam có nhiều lợi thế để xây dựng một
trung tâm cho du khách, nhưng cho đến nay vẫn không có một cảng chuyên biệt nào dành
cho du khách. Nhiều tàu biển chở khách vào Việt Nam vẫn phải neo đậu nhờ các cảng
hàng hóa, gây bất tiện và không khai thác được gì thêm các giá trị gia tăng khác như mua
sắm, giải trí, ăn uống tại cảng. Hành trình di chuyển từ cảng vào trung tâm thành phố mất
quá nhiều thời gian, do đây là đoạn đường có nhiều xe tải chở hàng, khiến khách phàn
nàn. Do đó, du lịch Việt Nam đã mất đi phần nào cơ hội từ thị trường khách này mang lại.
Bên cạnh đó, việc khai thác tiềm năng du lịch biển ở một số địa phương chưa hợp
lý. Minh chứng là hệ thống di sản được thế giới công nhận nằm ven biển chỉ có Hội An,
Hạ Long, Huế được khai thác tốt, còn Phong Nha-Kẻ Bàng thì chưa.
Du khách chủ yếu tập trung ở các bãi biển miền Trung, những bãi biển khác chỉ
đón khách theo mùa. Việc phát triển các bãi biển không theo quy hoạch, khiến sản phẩm
bị trùng lặp. Chẳng hạn trong khi bãi biển Lăng Cô ảnh hưởng nhiều bởi khí hậu phía
Bắc, mưa kéo dài trong năm, nhưng lại tổ chức các sản phẩm nghỉ dưỡng giống như Đà
Nẵng, Quảng Nam chịu ảnh hưởng của khí hậu phía Nam.
b, Ý nghĩa trong giai đoạn mới:


Du lịch ngày càng khẳng định sự đóng góp quan trọng trong nền kinh tế biển. Du
lịch là một ngành có lợi thế quan trọng trong việc tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ. Hoạt

động du lịch được coi là ngành xuất khẩu tại chỗ, không chỉ các dịch vụ lưu trú, vận
chuyển, tham quan, vui chơi giải trí mà còn kích thích tiêu dùng và xuất khẩu tại chỗ các
loại hàng hoá, thực phẩm cung cấp cho du khách, hàng hóa tiêu dùng, sản vật và đồ lưu
niệm trong nước tạo ra tính lan tỏa của hiệu ứng kinh tế.
Phát triển du lịch biển đảo là một định hướng ưu tiên mới và hết sức quan trọng
trong thời gian tới, gắn với tài nguyên du lịch biển đảo phong phú của đất nước và cả nhu
cầu bảo vệ an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Đặc biệt, cần thấy rằng, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du
lịch, nhất là du lịch biển đảo, không có nghĩa là để mặc các địa phương và doanh nghiệp,
tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước phát triển du lịch tự phát, mạnh ai nấy làm, nhắm
mắt chạy theo mục tiêu trước mắt và cạnh tranh thiếu lành mạnh, bất chấp những lợi ích
chung về môi trường, tài nguyên, hình ảnh, thương hiệu du lịch và nhất là yêu cầu phát
triển bền vững và an ninh quốc gia. Ngược lại, thực tế đã, đang và sẽ tiếp tục đòi hỏi sự
phối hợp phát triển đồng bộ các dịch vụ liên quan, nhất là vận tải, an ninh, y tế và thông
tin liên lạc hiện đại, chất lượng cao, cũng như đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị
tổ chức du lịch, với chính quyền các cấp và các ngành quân đội, công an, ngoại giao… để
tạo lập và phát triển những sản phẩm du lịch và cả những trung tâm du lịch biển đảo tầm
cỡ khu vực và quốc tế chất lượng cao, góp phần tích cực cho khẳng định chủ quyền, phát
triển kinh tế biển đảo, tô nhấn và tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt
Nam trong con mắt du khách quốc tế.
Phát triển du lịch biển đảo và hiện đại ngành du lịch nói chung cũng cần chú ý tới
không chỉ xây dựng cơ sở hạ tầng cứng hiện đại, đồng bộ, cơ cấu sản phẩm du lịch phong
phú, cập nhật và đặc sắc, mà còn cần quan tâm phát triển các giá trị văn hóa mềm trong
ngành du lịch mang thương hiệu Việt Nam, từ logo, slogan, đến các câu chuyện mang
“hồn cốt” văn hóa và lịch sử được xây dựng và toát lên từ những tài nguyên và sản phẩm
du lịch, cũng như các quy định liên quan đến trang phục, ngôn ngữ, tiêu chí, tiêu chuẩn
chất lượng dịch vụ du lịch.


2.2.3 Công tác quản lý du lịch biển đảo:

Đối với nước ta, biển, đảo không chỉ là bộ phận cấu thành chủ quyền, quyền chủ
quyền thiêng liêng của Tổ quốc mà còn là không gian sinh tồn và phát triển của các thế
hệ người Việt Nam. Các vùng biển nước ta có vị trí địa chính trị, địa quân sự, địa kinh tế
quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Có thể coi thế kỷ 21 là kỷ nguyên của “Biển và
Đại dương”, “Biển và Kinh tế biển”. Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 (Nghị
quyết 09-NQ/TW ngày 09/02/2007), với quan điểm chỉ đạo “Nước ta phải trở thành quốc
gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển
toàn diện các ngành, nghề biển”.
Thời gian qua, Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách mang
tính đồng bộ, giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
Du lịch, góp phần đưa Du lịch Việt Nam ngày càng hấp dẫn và cạnh tranh hơn so với các
nước trong khu vực. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về Du lịch tại trung ương và
một số địa phương còn gặp những bất cập trong công tác quản lý điểm đến, duy trì chất
lượng dịch vụ chưa thường xuyên, công tác xúc tiến quảng bá còn thiếu chuyên nghiệp,
sản phẩm du lịch chưa được đầu tư tương xứng với tiềm năng và thiếu bền vững.
Hiện nay, căn cứ vào chức năng quản lý nhà nước của các ngành, các cấp, hệ
thống các cơ quan có chức năng quản lý biển, hải đảo được chia thành 2 khối là cơ quan
quản lý khai thác tài nguyên biển theo ngành và cơ quan quản lý tổng hợp về khai thác tài
nguyên biển
Đối với quản lý biển theo ngành, mỗi lĩnh vực được quản lý bởi một bộ máy quản
lý theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương được quy định trong pháp luật chuyên
ngành của lĩnh vực đó.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 06/2018/QĐ-TTg quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam
gồm 14 đơn vị trực thuộc và 19 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn quy định về quản lý tổng hợp
tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo.


Về bản chất, quản lý nhà nước tổng hợp về khai thác biển, hải đảo không thay thế

quản lý nhà nước theo ngành/lĩnh vực nói trên, mà đóng vai trò điều chỉnh và kết nối các
hành vi phát triển (khai thác, sử dụng) của các ngành, lĩnh vực, của những người hưởng
dụng biển, vùng ven biển và hải đảo trong phạm vi vùng biển chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam.
Mục đích chung cuối cùng của quản lý tổng hợp về khai thác tài nguyên biển là:
đảm bảo phát triển đa ngành, sử dụng đa mục tiêu và bảo đảm đa lợi ích giữa nhà nước,
lĩnh vực tư nhân, các bên liên quan và cộng đồng địa phương trong quá trình khai thác, sử
dụng các hệ thống tài nguyên biển, ven biển và hải đảo.Thống nhất quản lý nhà nước là
chỉ có một cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ; một đầu mối giúp Chính phủ xây
dựng hệ thống chính sách và thực hiện kiểm tra, giám sát về mặt nhà nước đối với biển
và hải đảo; điều phối thực thi các công cụ quản lý, xử lý vi phạm,…v.v đối với các hoạt
động khai thác, sử dụng biển đảo.
Quản lý nhà nước về biển đảo là một lĩnh vực liên ngành. Với sự góp mặt của
nhiều bộ, ngành vào công tác quản lý nhà nước về biển và hải đảo, yêu cầu đặt ra để nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này là cần xây dựng các cơ chế, chính sách
phối hợp liên ngành, phối hợp giữa Trung ương và địa phương. Quản lý nhà nước tổng
hợp và thống nhất về biển, đảo nhằm mục đích đảm bảo phát triển đa ngành, đáp ứng
mục tiêu và bảo đảm đa lợi ích của các bên liên quan. Xây dựng cơ chế phối hợp, theo
đó, là xây dựng các cơ chế, chính sách bảo đảm phối hợp đồng bộ giữa các Bộ,ngành và
địa phương ven biển, xác định rõ sự phân công, phân cấp trong quản lý tổng hợp biển,
đảo trên cơ sở phân vùng các vùng biển và hải đảo. Xây dựng cơ chế, chính sách phối
hợp trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ phối hợp về quản lý biển
và hải đảo giữa các Bộ, ngành, giữa trung ương và địa phương để tránh chồng chéo, trùng
lắp nhưng cũng không bỏ sót nhiệm vụ.
Ngày 22/10/2018, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban
hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để từng bước đưa nước ta trở thành quốc gia
mạnh về biển, giàu lên từ biển, dựa vào biển và hướng ra biển. Phấn đấu đến năm 2030



đạt các mục tiêu cơ bản về phát triển bền vững kinh tế, xã hội và môi trường biển, vùng
ven biển và hải đảo.
Vì vậy, trong giai đoạn hội nhập quốc tế, để tiếp tục hoàn thiện hệ thống quản lý
nhà nước về biển đảo, cần chú trọng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển
theo hướng phát triển bền vững, đảm bảo tính khả thi, đồng bộ, thống nhất. Hơn nữa, cần
phải rà soát, điều chỉnh, bổ sung và lập mới các quy hoạch, nâng cao hiệu quả phối hợp
giữa các cơ quan, giữa Trung ương với địa phương về công tác biển, đảo. Tạo hành lang
pháp lý, thể chế, chính sách tạo môi trường thuận lợi cũng là một cách huy động các
nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển khoa học, công
nghệ, nguồn nhân lực về biển. Nhà nước nên tích cực tham gia và chủ động hơn để thúc
đẩy hình thành cơ chế toàn cầu và khu vực liên quan đến biển và đại dương. Cơ quan
quản lý phải giải quyết cơ bản các vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo trong quản lý, khai
thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các bên trên quan
điểm phát triển bền vững; bãi bỏ các quy định bất cập; học tập kinh nghiệm quốc tế, kịp
thời bổ sung quy định về những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn quản lý tổng hợp tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo.

III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH
BIỂN ĐẢO TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
3.1 Nhiệm vụ:
3.1.1 Khai thác tổng hợp các tài nguyên vùng biển, đảo
Biển, đảo của chúng ta có rất nhiều các tài nguyên, và chúng đều có những liên hệ
với nhau hết sức chặt chẽ, chỉ cần làm sai một phần sẽ gây ảnh hưởng đến những bộ
phận khác. Vì vậy, chúng ta phải biết khai thác tổng hợp các tài nguyên biển, đảo để khai
thác một cách tối ưu nhất các tài nguyên thiên nhiên, vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao,
lại không làm ảnh hưởng xấu đến hệ sinh thái. Và phát triển ngành du lịch biển cũng vậy,
chúng ta phải biết kết hợp khai thác các tài nguyên hợp lý, nâng cao hiệu quả nhưng cũng
không vì đó mà làm ô nhiễm môi trường.



3.1.2 Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, từng bước nâng cao đời sống dân cư
vùng ven biển, trên các đảo và những người hoạt động trên biển
Chỉ khi cuộc sống của những người dân ven biển được cải thiện, xã hội ổn định,
đời sống ấm no thì việc phát triển kinh tế biển của chúng ta mới được nâng lên, và ta mới
có thể đi sâu hơn vào phát triển ngành du lịch biển, thu hút được nhiều du khách trong và
ngoài nước. Khu du lịch nâng cao chất lượng du lịch, đời sống nhân dân sẽ được nâng
cao, các vấn đề xã hội giảm bớt, an toàn xã hội cũng được bảo đảm, như vậy hiệu quả du
lịch cũng sẽ được nâng cao hơn.
3.1.3 Phát triển kinh tế biển gắn với quản lý và bảo vệ biển, đảo.
Phát triển ngành du lịch biển nói riêng hay phát triển kinh tế biển nói chung đều
cần đến sự quản lý và bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Chúng ta không nên chỉ chú trọng vào việc phát triển kinh tế mà xem nhẹ các nhiệm vụ
khác. . Một số địa phương xây dựng quy hoạch các khu công nghiệp, kinh tế tập trung,
các dự án ven biển, trên đảo, chưa chú trọng các phương án xây dựng thế trận quốc
phòng – an ninh, thế trận lòng dân, chủ yếu chạy theo lợi ích kinh tế là chính; một số quy
hoạch, kế hoạch, nhất là việc xây dựng bến cảng; cơ sở công nghiệp biển; các khu dịch
vụ trên đảo mở tràn lan, không tuân thủ các nguyên tắc chung, làm ảnh hưởng đến khả
năng bảo vệ quốc phòng – an ninh trên biển, đảo. Tình trạng đó đang đặt ra nhu cầu cấp
bách phải có một chiến lược phát triển kinh tế biển được bổ sung với những luận cứ khoa
học và cơ sở thực tiễn vững chắc, mới có thể đáp ứng những nhiệm vụ tăng tốc kinh tế
biển để đến năm 2020, nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.
3.1.4 Phát triển du lịch biển gắn với bảo vệ môi trường
Nước ta có rất nhiều vùng biển đẹp, đó chính là những món quà mà mẹ thiên
nhiên ban tặng cho chúng ta. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều khu du lịch vì để phát triển du
lịch mà bỏ qua yếu tố môi trường, họ vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc bảo
vệ môi trường trong việc phát triển du lịch. Du khách hay chính người dân là những


người trực tiếp xả rác ra môi trường, khiến cho bãi biển ngập trong rác thải. Nước thải,
khí thải của các công ty, nhà máy, xí nghiệp cũng là một trong những tác nhân làm ô

nhiễm nước biển của chúng ta. Vì vậy phải luôn ý thức được tầm quan trọng của việc bảo
vệ môi trường khi thực hiện mục tiêu phát triển du lịch biển.
* Mục tiêu đến năm 2020:
-

Phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ
cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với
tầm nhìn dài hạn

-

Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh,
hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển,
ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa

-

Thu hút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường biển trên
tinh thần chủ động, tích cực mở cửa; phát huy nội lực, thu hút mạnh ngoại lực theo
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước.

3.2. Giải pháp:
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nêu trên, Đảng và Nhà nước ta đề ra nhiều giải pháp thiết
thực, đồng bộ; trước hết, tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau:
3.2.1. Nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch:
- Cơ quan quản lý cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa huy động mọi thành phần kinh tế,
nguồn lực đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; cần quy hoạch sắp xếp và xây dựng
các cơ sở dịch vụ: nhà nghỉ, y tế, ăn uống, vui chơi giải trí…; quản lý chặt chẽ các loại

dịch vụ, phí dịch vụ phục vụ du khách; nâng cao ý thức phục vụ trong kinh doanh, tránh
làm mất giá trị văn hóa truyền thống của người Việt.


- Phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, nhất là các chuỗi liên kết và dịch vụ,
đáp ứng các bộ tiêu chuẩn du lịch quốc tế, đi đôi với bảo tồn, phát triển, quảng bá hình
ảnh và phát huy vai trò các vùng di tích lịch sử, các điểm đến và khu du lịch; Xây dựng
hình ảnh và thương hiệu, nhận diện du lịch quốc gia có chiều sâu và tầm cao.
- Đẩy mạnh liên kết với các nước trong khu vực, khai thác triệt để tuyến hành lang Đông
- Tây, hình thành các tour, tuyến du lịch chung như: Chương trình giữa Việt Nam Campuchia - Lào, tuyến đường bộ 3 nước Việt Nam - Lào - Thái Lan để đa dạng hoá sản
phẩm, nâng cao sức hấp dẫn, thu hút khách từ các nước ASEAN và khách du lịch từ nước
thứ ba vào ASEAN nối tour sang Việt Nam.
3.2.2. Xây dựng môi trường du lịch nhân văn, bền vững:
- Đẩy mạnh công tác truyền thông, định hướng, nâng cao nhận thức của xã hội, cộng
đồng về trách nhiệm bảo vệ môi trường du lịch; Tăng cường tuyên truyền, phổ biến sâu
rộng, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia xây dựng phong
trào ứng xử văn minh thân thiện với du khách, giữ gìn trật tự trị an, vệ sinh môi trường…
- Tăng cường quản lý bảo đảm về an ninh trật tự, vệ sinh môi trường; Cung cấp thông tin
về dịch vụ tại địa phương cho du khách qua internet và hệ thống các ấn phẩm quảng bá
du lịch.
3.2.3. Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, hài hòa các mục
tiêu phát triển du lịch với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội:
-Chú trọng nâng cao năng lực cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa
phương để đáp ứng yêu cầu phát triển ngành Du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn; Thực
hiện quản lý theo quy hoạch gồm: Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch cả nước; quy


hoạch phát triển du lịch theo các vùng, địa phương; quy hoạch các khu du lịch tổng hợp
và khu du lịch chuyên đề, để tập trung thu hút đầu tư phát triển theo hướng bền vững.
-Đồng thời, trước khi phát triển ngành, lĩnh vực khác, Nhà nước cần có những đánh giá

tác động đối với ngành Du lịch để từ đó có sự lựa chọn ưu tiên phát triển ngành nào dựa
trên tiềm năng, lợi thế của từng địa phương.
-Tiếp tục cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực kinh tế biển gắn với xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc; trong đó, chú trọng xây dựng các
tổ chức dân cư sản xuất, định cư trên các đảo và làm ăn dài ngày trên biển.
-Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản và phát triển khoa học - công nghệ biển theo hướng
hiện đại gắn với xây dựng, quản lý tốt cơ sở dữ liệu biển quốc gia nhằm phục vụ công tác
quy hoạch, khai thác, sử dụng cũng như khả năng giám sát, quan trắc, giảm thiểu và xử lý
các thảm họa, thiên tai, sự cố môi trường biển.
3.2.4. Đào tạo và cải thiện nguồn nhân lực du lịch:
- Ngành du lịch cần sớm hoàn thiện hệ thống chính sách và các cơ chế quản lý về phát
triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy công tác phát triển nguồn nhân lực du
lịch, bảo đảm thống nhất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập.
- Các trường học và doanh nghiệp cần trang bị cho nhân lực du lịch những kiến thức về
hội nhập, giỏi về ngoại ngữ, tin học, nghiệp vụ du lịch, am hiểu thị trường, luật pháp
quốc tế…
3.2.5 Phát triển thị trường, xúc tiến quảng bá và thương hiệu du lịch:


- Tập trung thu hút có lựa chọn các phân đoạn thị trường khách du lịch; Phát triển mạnh
thị trường du lịch nội địa, chú trọng phân đoạn khách nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, nghỉ
cuối tuần và mua sắm; Đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến từ Đông Bắc Á, Đông
Nam Á và Thái Bình Dương; Tây Âu; Bắc Âu; Bắc Mỹ và Đông Âu...
- Đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp nhằm vào thị trường
mục tiêu, lấy sản phẩm du lịch và thương hiệu du lịch là trọng tâm; quảng bá du lịch gắn
với quảng bá hình ảnh quốc gia, phù hợp với các mục tiêu đã xác định; gắn xúc tiến du
lịch với xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư và ngoại giao, văn hóa.
- Tập trung phát triển thương hiệu du lịch quốc gia trên cơ sở thương hiệu du lịch vùng,
địa phương và thương hiệu sản phẩm; chú trọng phát triển những thương hiệu có vị thế
cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các

cấp và địa phương để đảm bảo hiệu ứng thống nhất.
Trên đây là các nhiệm vụ và giải pháp quan trọng, vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ
bản lâu dài, đòi hỏi các cấp, ngành, lực lượng và toàn dân tiếp tục quán triệt sâu sắc và tổ
chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, nhằm đưa kinh tế biển thực sự trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


×