Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

tiểu luận môn đường lối đề tài vấn đề phát triển nền kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.13 KB, 24 trang )

I. Các lý luận chung
1. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
a. Kinh tế thị trường
Cùng với lịch sử phát triển của loài người, kinh tế xã hội cũng có bước
tiến phù hợp. Hình thái kinh tế chuyển từ kinh tế tự nhiên lên hình thái kinh tế
cao hơn đó là kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá ra đời đánh dấu sự phát triển
của nền kinh tế xã hội, tới nay nó đã phát triển và đạt tới trình độ cao đó là nền
kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động
với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường.
 Ưu điểm:
Thị trường và cơ chế thị trường là yếu tố khách quan, từng doanh nghiệp
không thể làm thay đổi thị trường mà họ phải tiếp cận và tuân theo thị trường.
Nền kinh tế thị trường kích thích doanh nghiệp sản xuất có hiệu quả để thu được
tỉ suất lợi nhuận cao nhất. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu
quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh
tranh kém sẽ bị đào thải.
 Nhược điểm:
- Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình
đẳng trong xã hội và quan niệm.
- Sự đào thải các doanh nghiệp nhỏ chỉ còn lại số ít các doanh nghiệp lớn, gây
ra tình trạng độc quyền.
- Tình trạng thông tin bất cân xứng gây nên nhiều rủi ro về đạo đức kinh
doanh.
- Trong một số tình huống, thị trường đi ngược lại lợi ích chung của xã hội. Ví
dụ: 1 vùng xảy ra thiên tai và bị thiếu gạo, nếu Nhà nước không can thiệp thì
các nhà buôn lương thực sẽ đẩy giá gạo lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ
không đủ tiền mua và sẽ bị chết đói.
b. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa



Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Nó được mô tả là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường mà ở đó
khu vực nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, hướng tới mục tiêu phát
triển chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi
Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch tập trung bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động
theo cơ chế thị trường mà ở đó kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo. Những thay
đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang hàm ý là Việt Nam chưa đạt
đến chủ nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho hệ thống này
trong tương lai. Mô hình kinh tế này trong đó các mô hình kinh tế tập thể, nhà
nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu vực nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
 Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù
hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối nhằm thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Về sở hữu sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu khác
nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống
nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát triển
chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh
nóng vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây.
Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế
2



thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích
thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những
mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động
của toàn thể nhân dân.
Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa
dạng hoá các hình thức phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác và thông qua phúc lợi xã hội". Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực
kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn
liền với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể
hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa thể hiện trình độ tư duy, vận dụng của Đảng ta về quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
2. Khái niệm kinh tế tư nhân
a. Định nghĩa
Kinh tế tư nhân là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất
và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
3



b. Đặc điểm
Kinh tế tư nhân, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành,
nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng
về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó, việc
mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế tư nhân và tiểu chủ cần được khuyến
khích.
Hiện nay, ở nước ta, các hình thức kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình
thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan
trọng, lâu dài, nó góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, giải quyết nhiều
việc làm cho người lao động – một vấn đề bức bách hiện nay của đời sống kinh tế –
xã hội. Trong những năm qua, các hình thức kinh tế này phát triển nhanh trong
nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ. Nó đã góp
phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng,
kinh tế tư nhân, tiểu chủ dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không thể loại bỏ được
những hạn chế vốn có như: tính tự phát, manh mún, hạn chế về kỹ thuật. Do đó,
Đảng ta chỉ rõ: cần giúp đỡ kinh tế tư nhân, tiểu chủ, giải quyết các khó khăn về
vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. “Nhà nước tạo
điều kiện và giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự
nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn”. Phát triển các
loại hình thông tin với quy mô phù hợp trên từng địa bàn.
Hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân bước đầu có sự phát triển, nhưng phần lớn
tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư vào
sản xuất còn ít và chủ yếu quy mô vừa, nhỏ.
Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân bỏ vốn
đầu tư phát triển sản xuất, đáp ứng các nhu cầu của dân cư. Nhà nước bảo hộ quyền
sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; xoá bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi về
tín dụng, về khoa học – công nghệ, về đào tạo cán bộ… cho kinh tế tư bản tư nhân.
Tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân có tính tự phát rất cao. Đầu cơ, buôn lậu, trốn


4


thuế, làm hàng giả… là những hiện tượng thường xuất hiện ở kinh tế tư bản tư
nhân. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường quản lý đối với kinh tế tư bản tư nhân.
c. Vai trò
Đối với mọi quốc gia, khu vực kinh tế tư nhân có vai trò hết sức quá trình
trong phát triển kinh tế của đất nước. Đối với nước ta, mặc dù trong quá trình phát
triển trải qua nhiều thăng trầm song bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế tư nhân đã
khẳng định là một bộ phận cấu thành, có vị trí quá trình lâu dài của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Nền kinh tế của nước ta đang trong quá trình đổi mới mạnh mẽ để vươn tới nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong sự đổi mới đó, kinh tế Nhà
nước vẫn đóng vai trò chủ đạo, nhưng đóng góp cho quá trình phát triển đó có sự
tham gia tích cực của kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân với các loại hình đa dạng,
hoạt động linh hoạt góp phần giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của xã hội, trong đó
nổi cộm là giải quyết việc làm cho người lao động mà kinh tế Nhà nước chỉ giải
quyết được hạn hẹp. Kinh tế tư nhân làm đa dạng hóa nền kinh tế, đáp ứng các nhu
cầu vốn rất lớn cả về phía người tiêu dùng lẫn chủ sở hữu, tính đa dạng đó là ưu
thế rất lớn để đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất hàng hóa lớn như
nước ta. Kinh tế tư nhân vốn phạm vi hoạt động rộng lớn trong các lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải.... cần có sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Nhà
nước. Nhận định vai trò của kinh tế tư nhân Nhà nước đã đổi mới cơ chế chính sách
để phát triển thành phần kinh tế này. Trong những năm gần đây, nhờ quan điểm đổi
mới tích cực với cơ chế tác động rõ ràng, dứt khoát đã thúc đẩy kinh tế tư nhân
ngày càng phát triển.
3. Định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang tính

phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng riêng
của tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này cùng tồn tại, kết hợp
5


và bổ sung cho nhau. Trong đó, nhóm đặc trưng chung đóng vai trò là động lực
thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhóm đặc trưng riêng đóng vai trò hướng dẫn nền
kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn xây dựng nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
(1986-2001): Là giai đoạn đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền
kinh tế với nội dung chính là xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở nhận thức đúng
đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất
hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và
khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội có ý nghĩa như một
cuộc cách mạng toàn diện, triệt để và sâu sắc. Với các vấn đề cụ thể:
Một là, thừa nhận sự tồn tại nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với các
loại hình sở hữu khác nhau, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo cùng với kinh tế
tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Hai là, thực hiện cơ chế một giá của thị trường đại bộ phận các hàng hóa,
dịch vụ (7 mặt hàng định lượng cuối cùng bán theo giá chỉ đạo của nhà nước được
xoá bỏ vào ngày 1/1/1989) từng bước áp dụng chế độ lãi suất và tỷ giá trên thị
trường.
Ba là, từng bước giảm dần vai trò chỉ huy của nhà nước trong nền kinh tế và
tạo điều kiện để các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tự chủ sản xuất

kinh doanh theo quy luật thị trường.
6


Bốn là, mở cửa nền kinh tế và từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
thế giới.
Giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (2001
đến nay) “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[1]. Như vậy, Đại hội IX của Đảng (4/2001)
chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đây là kết quả
của quá trình 15 năm đổi mới tư duy và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ
sở kiểm điểm, đánh giá và rút ra các bài học lớn tại các kỳ Đại hội Đảng, đặc biệt là
Đại hội VII, VIII.
Nhận thức về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần
được sáng tỏ, được phát triển cả về lý luận và thực tiễn qua Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X. Đặc biệt là quan điểm về tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta là: “Thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển
sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo; kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo vai trò
quản lý, điều hành nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo
của Đảng”.
Quan điểm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của

Đảng tại Đại hội XI được nêu cụ thể hơn:“nền kinh tế thị trường định hướng
7


XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận
động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của CNXH”[3]. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa phục vụ yêu cầu tăng trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1/2016) tiếp tục làm rõ hơn những
vấn đề cốt lõi về bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Đại hội XII khẳng định:“Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự
quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[4]. Điều đó
có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không khác biệt mà mang đầy đủ các đặc trưng
phổ biến của kinh tế thị trường như: tự do kinh doanh và cạnh tranh; mở cửa và
hướng tới tự do hóa; đa dạng hóa các hình thức sở hữu; lấy quy luật giá trị và quan
hệ cung cầu để xác định giá cả; coi cạnh tranh là động lực phát triển;... vận hành
với các cơ chế, cách thức được xác định rõ theo hướng vừa bảo đảm phát triển
đồng bộ các yếu tố thị trường, vừa bảo đảm công bằng xã hội và phát huy vai trò
tích cực trong hỗ trợ phát triển của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đã chứng minh việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh
tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế khách quan
của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở
nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút kinh nghiệm
phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
8


xã hội chủ nghĩa. Chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
II. Thực trạng khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam
1. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam qua các thời kỳ
a. Khái quát giai đoạn trước đổi mới đến 1986
Trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế có hai hình thức sở
hữu, hai loại hình kinh tế chủ yếu là xí nghiệp quốc doanh và tập thể, chỉ có một ít
là loại hình kinh tế cá thể, chưa có kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.
Kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng rất lớn, với hàng chục nghìn xí nghiệp quốc
doanh. Gọi là xí nghiệp quốc doanh, nhưng chưa thể gọi là doanh nghiệp, bởi xí
nghiệp gần như không có quyền tự chủ, mọi cái từ đầu vào (lao động, vốn đầu tư,
nguyên nhiên vật liệu…), sản xuất, kinh doanh (cái gì, bao nhiêu…), đầu ra (tiêu
thụ ở đâu, giá cả ra sao…), đến kết quả sản xuất, kinh doanh (lãi, lỗ,…) đều do Nhà
nước lo, Nhà nước chịu.
Kinh tế tập thể chiếm gần hết khu vực ngoài Nhà nước với hàng nghìn hợp
tác xã cũng thuộc đủ các ngành. Gọi là kinh tế tập thể dựa trên nguyên tắc tự
nguyện nhưng phương án ăn chia do Nhà nước duyệt; vật tư chủ yếu do Nhà nước
cung cấp; sản phẩm do Nhà nước thu mua; xã viên ăn theo định lượng.
b. Từ sau đổi mới đến trước năm 2000
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 với chủ trương
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Nhờ có chủ trương sáng suốt


9


của Đảng và Nhà nước mà khu vực kinh tế tư nhân nước ta liên tục phát triển, đóng
góp phần quan trọng vào những thành tựu kinh tế - xã hội suốt những năm đổi mới.
Trong thắng lợi to lớn có tính chiến lược đó phải kể đến tác động của chính
sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung và quan điểm, chính sách đối với
kinh tế tư nhân nói riêng, từ đó tạo nền tảng và căn cứ để đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế cho phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước thời kỳ đổi mới, đường lối kinh tế của Đảng ta là xây dựng một nền
kinh tế quá độ đi lên CNXH với cơ cấu kinh tế một thành phần – XHCN – gồm hai
bộ phận, quốc doanh và tập thể, được quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
còn các thành phần kinh tế khác được gọi là phi XHCN, được nằm trong diện cải
tạo và xóa bỏ, để tiến tới một nền kinh tế thuần khiết, do đó phạm trù kinh tế tư
nhân không còn tồn tại trong lý luận và trong đời sống thực tiễn.
Ngay cả tại Đại hội VI của Đảng, khởi xướng công cuộc đổi mới và đề ra
chính sách kinh tế nhiều thành phần nhưng tư tưởng cải tạo, xóa bỏ các thành phần
kinh tế không được coi là XHCN vẫn được nhấn mạnh. Văn kiện Đại hội VI đã ghi
rõ: “đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn
tích lũy tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài, cần có chính sách sử
dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác”(1) . Kinh tế tư nhân mặc dù
vẫn tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế quốc dân nhưng không còn tên gọi, bị
cấm kỵ, thành kiến và bị xa lạ không chỉ trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước
mà cả trong các phương tiện thông tin đại chúng và trong cuộc sống đời thường. Nó
được gọi dưới các tên hợp thời hơn như kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế phi
XHCN, kinh tế tư bản tư nhân… Tuy nhiên, thực tiễn vẫn là tiêu chuẩn của chân lý,
tư duy lý luận và quan điểm đường lối cũng không thể né tránh hiện thực xa hội,
nên trước sự phát triển khách quan của kinh tế tư nhân, các văn kiện của Đảng đã
từng bước đề cập tới kinh tế tư nhân.
Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị khóa VI (15-7-1988) và Nghị quyết Hội nghị

Trung ương 6 khóa VI tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, nhất quán thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển
10


không hạn chế địa bàn, quy mô, trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Cũng trong năm 1988, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa VI) xác định hộ nông
dân là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đổi mới cơ bản cách thức quản lý hợp tác xã
nông nghiệp đã tạo động lực cho kinh tế tư nhân trong nông nghiệp hồi phục và
phát triển năng động, bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hóa. Đó là bước khởi
đầu đáng quý đối với kinh tế tư nhân nước ta, mở đường cho những bước đột phá
mạnh hơn sau này. Từ Đại hội VII và đặc biệt từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VII
(1982) kinh tế tư nhân đã được coi trọng và khuyến khích phát triển, trong đó nhấn
mạnh: “Bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm đảm bảo cho kinh tế tư nhân được phát huy
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật
không cấm; được tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước
ngoài theo những điều kiện do luật định”.
c. Từ năm 2000 đến nay
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng, kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ được sức mạnh, là một trong các
động lực phát triển đất nước, đến Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, lần đầu tiên,
vấn đề phát triển kinh tế tư nhân đã được đưa ra thảo luận trong một chuyên đề
riêng và ra Nghị quyết Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo
điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Đây là một bước tiến đáng kể về tư duy lý luận
và quan điểm, đường lối kinh tế của Đảng ta, thể hiện tính nhất quán của đường lối
đổi mới theo hướng kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, đã tạo nên động
lực và sự yên tâm cho các doanh nhân và nhà đầu tư được tự do kinh doanh theo
pháp luật
Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực từ năm 2000 đã tạo ra cuộc bùng nổ lần thứ
hai trong phát triển kinh tế tư nhân. Hơn nữa, lần đầu tiên Đảng dành một Nghị

quyết định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Nghị quyết TW 5
khoá IX (4-2001) đánh giá tổng quát vai trò khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam:
“Sự nghiệp phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản
xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
11


CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng thêm số lượng
công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hóa
y tế, văn hóa, giáo dục…
Nghị quyết Đại hội XII nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước theo hướng: doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực
then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh; những lĩnh
vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư” và “Hoàn
thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân
ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế”, đồng thời “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú
trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản
phẩm”.
Từ những thực tiễn sinh động đó, Đại hội XII của Đảng đã khẳng định:
“Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng(1) của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nguồn cổ vũ cho tinh thần khởi nghiệp, đổi mới và
sáng tạo, tạo sức sống và đột phá phát triển mạnh mẽ đất nước ta trong giai đoạn
tới”.
Quan niệm kinh tế tư nhân (KTTN) là “một động lực quan trọng của nền
kinh tế” tại Đại hội XII cho thấy bước đột phá về nhận thức của Đảng ta so với giai
đoạn trước, khi chúng ta chỉ coi KTTN là một trong những động lực của nền kinh
tế(2). Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tiếp tục yêu cầu
phải phát triển mạnh khu vực KTTN cả về số lượng và chất lượng, để thực sự trở
thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Trong những năm qua, khu vực

KTTN đã làm nên sự phát triển năng động của nền kinh tế, góp phần quan trọng
trong tạo việc làm, nâng cao thu nhập của người dân, mạnh dạn đột phá và đi đầu
trong nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mới. Do đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho khu vực KTTN phát triển cũng chính là tạo điều kiện để giải phóng các nguồn
lực phát triển trong xã hội, để nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) phát huy tối đa các tiềm năng to lớn của nó.
12


Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tháng 5/2017 đã
thông qua Nghị quyết quan trọng về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động
lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đặt
mục tiêu (Nghị quyết 10) đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp; đến năm
2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh
nghiệp và tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để đến năm 2020
đạt khoảng 50%, năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030 khoảng 60 - 65%.
4. Hiệu quả của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
a. Khái quát
Ở Việt Nam trong tổng số khoảng 600 nghìn doanh nghiệp có gần 500 nghìn doanh
nghiệp tư nhân. Trong đó có gần 97% doanh nghiệp nhỏ và vừa, 2% doanh nghiệp
quy mô vừa và 2% doanh nghiệp lớn.
b. Các thành tích, đóng góp của nền kinh tế tư nhân trong sự phát triển kinh
tế Việt Nam
Trong suốt thời gian qua nền kinh tế tư nhân không chỉ duy trì tăng trưởng
GDP ở mức cao, tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước và giải quyết nhiều
vấn đề xã hội: giảm thất nghiệp, nâng cao năng suất,...
Cụ thể, kinh tế tư nhân duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm 40-43% GDP,
tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm, thu hút 85% lực lượng lao động. Thu nhập bình
quân/lao động trong khu vực này cũng tăng dần theo các năm, từ 46 triệu

đồng/năm/lao động năm 2011 lên khoảng 76 triệu đồng/năm/lao động năm 2016.
Ngoài ra, nền kinh tế còn có đóng góp quan trọng trong huy động các nguồn lực xã
hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân,
bảo đảm an sinh xã hội.
Thực tế, khu vực kinh tế tư nhân đã có đóng góp lớn vào nền kinh tế với hiệu
quả hoạt động của khu vực này ở mức cao. Đồng thời những doanh nghiệp tư nhân
đã nêu lên nhiều sáng kiến, đổi mới cho nền kinh tế ngày càng phát triển hơn.
13


Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn 1,2 lần so với
mức bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước. Với sự phát
triển không ngừng của các thành tựu khoa học và công nghệ - lực lượng sản xuất
trực tiếp, kinh tế tư nhân đang ngày càng trở nên quan trọng hơn.
Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp trong cơ cấu GDP với mức luôn ở trên
43% GDP (so với khu vực kinh tế nhà nước 28,9% GDP và khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài FDI là 18% GDP).
Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh, đạt hơn 110.000 doanh nghiệp
mới (năm 2016). Thương hiệu của khu vực tư nhân đã không chỉ được ghi nhận ở
thị trường trong nước mà cả ở thị trường khu vực và quốc tế. Những tập đoàn kinh
tế tư nhân có quy mô lớn cả về vốn và công nghệ cao đã xuất hiện. Đã có 4 doanh
nhân Việt được xếp hạng tỷ phú USD, theo thống kê của Forbes, và nhiều doanh
nhân khác cũng đang vươn lên để có mặt ở danh sách này.
5. Những hạn chế của nền kinh tế tư nhân và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế tư nhân cũng bộc lộ nhiều hạn chế,
yếu kém do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ
quan là chủ yếu đang là những rào cản đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Những tồn tại và nguyên nhân chủ yếu đó là:
Thứ nhất, việc đổi mới và kết quả triển khai thực hiện các chủ trương, chính

sách về khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân còn nhiều hạn chế, yếu kém. Kinh
tế tư nhân chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng GDP của kinh tế tư nhân có xu hướng giảm trong những năm
gần đây (giai đoạn 2003-2010: 11,93%/năm; giai đoạn 2011-2015: 7,54%/năm).
Thứ hai, năng suất lao động còn thấp: Khu vực kinh tế tư nhân mặc dù có sự
tham gia của đông đảo các lực lượng lao động nhưng thành phần tham gia trong
khu vực kinh tế này chủ yếu lại là các doanh nghiệp nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể,
hộ gia đình, sử dụng nhiều lao động, nên năng suất lao động không cao, năng lực
14


sản xuất còn hạn chế, thiếu nguồn vốn để đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất...
Thứ ba, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân còn chưa cao. Từ
năm 2011 đến nay, hệ số ICOR của kinh tế tư nhân giao động từ là 5-6, mức này cơ
bản bằng với hệ số ICOR của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, ICOR của kinh tế tư
nhân so với khu vực có vốn FDI vẫn cao hơn, cho thấy hiệu quả đầu tư của kinh tế
tư nhân trong nước chưa bắt kịp với những doanh nghiệp nước ngoài. Nguyên nhân
là do khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu hoạt động ở các lĩnh vực có giá trị gia tăng
thấp và chưa tham gia sâu vào chuỗi sản xuất giá trị toàn cầu
Thứ tư, năng lực cạnh tranh còn hạn chế. Theo Tổng cục Thống kê (2018), cả
nước có hơn 500 nghìn doanh nghiệp tư nhân, số doanh nghiệp có quy mô nhỏ
chiếm tới 96%, trong đó, gồm 114,1 nghìn doanh nghiệp nhỏ và 385,3 nghìn doanh
nghiệp siêu nhỏ. Do quy mô nhỏ nên rất nhiều doanh nghiệp trong nước chưa đủ
năng lực cạnh tranh để xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, hoặc tham gia mạng
lưới sản xuất toàn cầu. Đồng thời, năng lực quản trị và hội nhập kinh tế quốc tế còn
nhiều hạn chế, cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của kinh tế tư nhân. Chưa
kể, việc tiếp cận tín dụng của khu vực kinh tế tư nhân hiện nay còn gặp nhiều khó
khăn, làm gia tăng chi phí tài chính về vốn, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong
cạnh tranh về giá.

Thứ năm, cơ cấu sản phẩm, ngành nghề chưa đa dạng và nhạy bén với thị
trường. Cơ cấu ngành nghề của kinh tế tư nhân còn bất cập khi có tập trung vào
lĩnh vực hoạt động thương mại, dịch vụ, trong khi chỉ có 1% đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất chưa nhiều,
dẫn đến chậm thay đổi cơ cấu sản phẩm, ngành nghề phù hợp với tình hình thực tế.
Theo số liệu của Cục phát triển Doanh nghiệp (2018), số doanh nghiệp thành lập
trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo không nhiều, thường thấp hơn đáng kể
số doanh nghiệp thành lập trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
15


III.

Một số giải pháp về chính sách cho khu vực kinh tế tư nhân trong nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1. Các thay đổi trong chính sách và định hướng của Đảng và nhà nước trong
việc gỡ rối chính sách phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội VI: Chính sách “Đổi mới” được ban hành. Khu vực kinh tế tư nhân
chính thức được công nhận là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và của nền kinh tế nhiều thành phần.
 Khẩn trương sửa đổi, bổ sung các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách về
cung ứng vật tư, lưu thông hàng hoá, giá, thuế, tín dụng, tiền lương... nhằm
khuyến khích các cơ sở và công nhân, nông dân, thợ thủ công hăng hái phát
triển sản xuất.
 Sử dụng kinh tế tư bản tư nhân (tư sản nhỏ) trong một số ngành, nghề, đi đôi
với cải tạo họ từng bước bằng nhiều hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
 Mở rộng nhiều hình thức liên kết giữa các thành phần kinh tế theo nguyên tắc
cùng có lợi, bình đẳng trước pháp luật.

 Kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thiết lập và hình thành
đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội
chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
 Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, tự chủ tài chính của các đơn vị
kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của các tập thể lao động.
 Để tăng nhanh khối lượng hàng hoá lưu thông, phải mở rộng giao lưu hàng hoá,
bãi bỏ các biện pháp cấm đoán, chia cắt thị trường theo địa giới hành chính.
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân nói riêng, các thành phần kinh tế phi XHCN nói
chung vẫn được coi là thành phần phải “cải tạo”, bằng những hình thức và bước đi
thích hợp, tránh chủ quan nóng vội và cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng
đắn các thành phần kinh tế khác.
Đại hội VII:

16


 Tiếp tục làm rõ hơn bằng việc khẳng định vị trí “kinh tế tư nhân được phát
triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của nhà
nước”
 Địa vị kinh tế của mỗi người dân được xác định cụ thể “mọi người được tự do
kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”.
 Thực hiện vai trò quản lý của nhà nước đối với kinh tế tư nhân, Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VII nhấn mạnh đến việc “bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm
đảm bảo cho kinh tế tư nhân được phát huy không hạn chế về quy mô và địa
bàn trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm”.
Như vậy, từ chỗ coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế có thể
sử dụng nhưng cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp, Đại hội VII đã thực sự
coi kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và
đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước.
Đại hội IX (tháng 1/2001), Đảng ta khẳng định, kinh tế tư bản tư nhân là

thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN; được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong
những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm.
 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính
sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân” là Nghị quyết
chuyên đề về kinh tế tư nhân đầu tiên của Đảng ta.
 Nghị quyết đưa ra những đánh giá xác đáng về đóng góp và hạn chế của kinh tế
tư nhân, từ đó thống nhất đề ra các giải pháp cụ thể nhằm tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh nghiệp
của tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành, nghề sản xuất, kinh doanh
mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô, nhất là trên những định
hướng ưu tiên của Nhà nước.
Từ Đại hội VI đến Đại hội IX quan điểm của Đảng đã có bước nhìn nhận
mới về kinh tế tư nhân và đề ra định hướng: Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những hướng ưu
17


tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ
phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh liên kết với nhau với kinh tế tập
thể và kinh tế nhà nước.
Đại hội X:
 Văn kiện Đại hội X (tháng 4/2006) đã chính thức đề cập tới vấn đề đảng viên
làm kinh tế tư nhân nhằm huy động, phát huy tiềm năng của mọi người dân,
trong đó có đội ngũ đảng viên, tạo động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội.
 Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thảo luận và thông qua “Quy định đảng viên
làm kinh tế tư nhân”. Quy định này đã mở đường cho đảng viên được kinh
doanh hợp pháp.
Đại hội XI: Với nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt và ý nghĩa

chiến lược phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, Đảng tiếp tục xác định chủ trương là phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để
phát triển kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế tại
Đại hội XI (tháng 1/2011).
 Sau hơn 30 năm đổi mới, năm 2017, Hội nghị Trung ương 5 Khóa XII, đã ban
hành Nghị quyết 10 riêng về phát triển kinh tế tư nhân. Với việc nhấn mạnh khu
vực tư nhân là “động lực quan trọng” của nền kinh tế, chủ trương của Đảng đã
tháo gỡ mọi vướng mắc trong nhận thức, mở đường cho thành phần kinh tế này
trở mình “lột xác”, phát triển.
 Nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân đã có những bước tiến quan
trọng, ngày càng tích cực hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách từng
bước được hoàn thiện. Quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của cá nhân và tổ
chức được thể chế hóa và được pháp luật bảo vệ. Phương thức quản lý của Nhà
nước đối với kinh tế tư nhân được đổi mới phù hợp hơn với cơ chế thị trường.

18


6. Đề xuất giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Để cụ thể hoá và thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân trở thành một
động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày
3/6/2017, có thể thực hiện một số giải pháp sau:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền góp phần nâng cao nhận thức của các
doanh nghiệp, doanh nhân trong việc thực hiện Nghị quyết 10 về phát triển kinh tế
tư nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói
cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt mục đích đó, là tuyên
truyền thất bại”. Trong mục tiêu xây dựng và phát triển kinh tế tư nhân, công tác

tuyên truyền vận động giữ vai trò hết sức quan trọng trong trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng rõ hơn. Mục
đích là nhằm truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đến đối tượng,
biến những kiến thức, giá trị tinh thần đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm của
đối tượng, thôi thúc đối tượng hành động theo những định hướng, những mục tiêu
do chủ thể tuyên truyền đặt ra.
Tuy nhiên cũng cần đổi mới và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, vận
động đối với doanh nghiệp và phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Chú trọng
những hình thức tuyên truyền vận động phù hợp, có ảnh hưởng sâu sắc. Có thể thấy
rằng nhờ vào việc tuyên truyền, kinh tế tư nhân đã phát triển trên nhiều phương
diện, được tự do kinh doanh và đối xử bình đẳng hơn với các thành phần kinh tế
khác, nhất là trong tiếp cận các yếu tố sản xuất và các loại thị trường; hiệu quả, sức
cạnh tranh dần được nâng lên; hoạt động đa dạng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và
các vùng, miền; bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có
quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước
và quốc tế.
19


Củng cố nền tảng, hoàn thiện thể chế kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ
nghĩa
Điều này đã được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội XII như là vấn đề căn
cốt của quá trình cải cách thể chế kinh tế, giúp đem lại động lực phát triển mới của
nước ta trong giai đoạn tới. Việt Nam đã cam kết thực hiện và đáp ứng các tiêu chí
để được công nhận là nền KTTT đầy đủ; trong số đó, có những tiêu chí phổ biến
của một nền KTTT hiện đại, như không phân biệt đối xử; bảo đảm cạnh tranh lành
mạnh; thực hiện minh bạch trong chính sách... là những điều kiện nền tảng để khu
vực KTTN phát triển. Tiến trình cải cách kinh tế trong nước phải nhằm bảo đảm
những tiêu chí này để đồng bộ với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong hơn 30
năm đổi mới, việc hình thành và đa dạng hóa các hình thức sở hữu đã quy định các

thành phần kinh tế tương ứng. Tuy nhiên, cần phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn
nữa để có một nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại. Phải thực sự xác lập, thực thi
phổ biến và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu tư nhân về tài sản. Chỉ khi quyền sở hữu
tư nhân được tôn trọng và bảo vệ, các cá nhân mới có thể phát huy được các tiềm
năng của mình, mới có thể tự do và độc lập trong việc tiến hành các hoạt động sản
xuất, trao đổi nhằm tối đa hóa các lợi ích cá nhân.
Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp tư nhân và các loại hình doanh
nghiệp khác.
Chính phủ cần tập trung vào việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, đẩy
mạnh kết nối một cách công bằng để các doanh nghiệp được cạnh tranh bình đẳng.
Hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất riêng biệt, tách biệt các doanh
nghiệp FDI có thể giúp nâng cao hiệu quả hoạt động và xuất khẩu.
Tập trung vào việc thực hiện đồng bộ các giải pháp để đảm bảo chính sách hỗ
trợ kinh tế tư nhân một cách thực chất thông qua các chính sách hỗ trợ về lãi suất,
ưu đãi về thuế, đất đai, giải phóng mặt bằng...; tăng cường năng lực nghiên cứu và
phát triển, đổi mới công nghệ và các giải pháp tài chính, tín dụng; thực hiện công
khai minh bạch các quy hoạch, kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy liên kết
tích cực giữa các ngành kinh tế, các chủ thể kinh tế và các không gian kinh tế.
20


Khắc phục triệt để tình trạng các doanh nghiệp lớn chi phối, lấn át các doanh
nghiệp nhỏ trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh tế. Hoàn thiện pháp
luật về chế độ sở hữu, kể cả đối với bất động sản, ruộng đất... để góp phần ngăn
ngừa xung đột trong xã hội, góp phần phân bổ nguồn lực hiệu quả, khi pháp luật về
sở hữu rõ ràng thì tự nó sẽ đặt ra một trật tự có giới hạn cho các quyền của các chủ
thể trong xã hội được đảm bảo.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp
tư nhân.
Đẩy mạnh xây dựng nâng cao văn hóa doanh nghiệp và đạo đức doanh nhân.

Hiện nay, thực trạng văn hóa Việt Nam, bên cạnh những cái tích cực thì còn nhiều
yếu tố tiêu cực. Cần phải thường xuyên tuyên truyền, nâng cao ý thức tuân thủ, quy
tắc đạo đức nghề nghiệp và các chuẩn mực hành vi, ứng xử trong các doanh nghiệp
tư nhân, tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp, hạn chế rủi ro cho đạo đức nghề
nghiệp có thể phát sinh; cũng như xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, gian lận (nếu
có) để răn đe, phòng ngừa chung.
Hoàn thiện các quy định để quản lý, kiểm soát hoạt động của các doanh
nghiệp. Rà soát việc tổ chức, triển khai thực hiện các văn bản pháp luật của Trung
ương và địa phương nhằm phục vụ tốt hơn yêu cầu quản lý, đồng thời không gây
khó khăn, phiên hà cho người dân, doanh nghiệp.
Thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân ứng dụng khoa học công nghệ nhằm nâng
cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Theo phân loại trình độ công nghệ theo tiêu chuẩn của Tổ chức Phát triển
công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn
chủ yếu thuộc nhóm công nghệ thấp. Trong tổng số doanh nghiệp thực hiện các
hoạt động cải tiến công nghệ, máy móc, thiết bị trong năm 2013, 2/3 số doanh
nghiệp đã gặp phải các trở ngại. Vì vậy, cần phải tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và phân phối..
Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho kinh tế tư nhân.
Chất lượng giáo dục luôn là vấn đề cốt lõi, là yếu tố sống còn của từng cơ sở
giáo dục, cũng như cả hệ thống giáo dục đại học. Xây dựng tiêu chuẩn đào tạo
21


nguồn nhân lực chất lượng cao, có năng lực hành nghề chuyên môn, kỹ năng mềm,
đặc biệt kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm, kỷ luật đạo đức làm việc, trách nhiệm
nghề nghiệp và trách nhiệm lao động. Tập trung vào việc xây dựng thể chế, cơ chế,
chính sách phát triển giáo dục nghề nghiệp phù hợp với xu thế hội nhập; hoàn thiện
quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp; nâng cao chất lượng dạy nghề,
tiếp cận các chuẩn khu vực và thế giới.

Nâng cao hiệu quả công tác Đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp tư nhân.
Muốn nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể ở các doanh
nghiệp tư nhân, trước hết phải nâng cao nhận thức của chủ doanh nghiệp và người
lao động về vấn đề này. Cần chú trọng làm tốt công tác tuyên truyền về vị trí, vai
trò của tổ chức Đảng, đoàn thể chính trị-xã hội trong các doanh nghiệp tư nhân cho
chủ doanh nghiệp và người lao động.
Cùng với việc quán triệt, phổ biến quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, các địa phương đều xác định lấy hiệu quả hoạt động để vận động,
thuyết phục chủ doanh nghiệp và người lao động tích cực tham gia vào tổ chức,
thành lập và duy trì hoạt động của tổ chức đảng, đoàn thể chính trị - xã hội.

KẾT LUẬN
Trải qua hơn 30 năm đổi mới và phát triển, với nhận thức mới kịp thời và
tiên tiến hơn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra những chủ trương và chính sách đúng
đắn để giúp cho đất nước đi lên phát triển, bộ mặt, sức mạnh kinh tế được thay đổi
theo hướng tích cực hơn rất nhiều. Nhờ có sự chuyển biến về chủ trương chính sách
của Đảng, khu vực kinh tế tư nhân từ chỗ cấm đoán bài trừ đã tiến lên thành một
trong những yếu tố đóng góp quan trọng cho kinh tế nước nhà, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, tạo công ăn việc làm cũng như giúp Việt Nam đáp ứng được xu hướng
hội nhập trên toàn thế giới. Tuy nhiên, để có thể phát triển khu vực kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta, Đảng cần
phải đặc biệt để ý đến những mặt hạn chế và tích cực, từ đó xây dựng được những
chính sách, đường lối phù hợp để giúp khu vực thiết yếu này phát huy hết tiềm lực
22


của mình. Từ đó, kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục có những bước đi lên mạnh mẽ hơn,
trở thành bước đệm cho sự phát triển của xã hội, chính trị và sự phát triển về mọi
mặt của tổ quốc.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
CTQG, HN 2001
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
CTQG, HN 2006
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thời kỳ
đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I và phần II, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
CTQG, HN 2011
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng TW Đảng, HN 2016
6. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương Đảng (Khóa XII) về “phát triển KTTN trở thành một động lực quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
7. Nguyễn Xuân Thắng: Một số luận điểm mới về phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 82016
8. GS. TS. Hồ Văn Vĩnh (2003), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh
tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh (Chủ biên), Nguồn lực và động lực cho phát triển
nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020, Nxb
Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội
10. Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám thống kê năm 2017, NXB Thống kê
11. Tổng cục thống kê (2018), Tình hình kinh tế xã hội năm 2018
12.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016
23


13.Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam: Báo cáo Kinh tế thế giới và Việt Nam

2016 - 2017, Hà Nội, 2017
14.Sách Trắng doanh nghiệp 2019 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
15. exploreeconomies/vietnam
16. />17. />18. />19. />20. />21. />
24



×