1.
1.1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Khái niệm
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đặt
ra cho mô hình kinh tế hiện tại của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nó được mô tả là một
nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường mà ở đó khu vực nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế, hướng tới mục tiêu phát triển chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch tập trung bằng nền
kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường mà ở đó kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo.
Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Đại hội XII xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa Việt Nam là
nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý cảu Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu ‘dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.”
1.1.2. Cơ hội, thách thức
a. Cơ hội:
Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác cổ điển về phát triển kinh tế và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
nơi chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xuất hiện khi điều kiện vật chất đã được phát triển đủ để phát
triển các mối quan hệ của chủ nghĩa xã hội. Mô hình thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được coi là một bước quan trọng để đạt được sự tăng trưởng và hiện đại hóa kinh tế cần thiết
trong khi có thể cùng tồn tại trong nền kinh tế thị trường toàn cầu và hưởng lợi từ thương mại
toàn cầu. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tái khẳng định cam kết của mình đối với sự phát triển của
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với những cải cách của thời kỳ Đổi mới. Mô hình kinh tế này được
bảo vệ từ quan điểm của chủ nghĩa Mác, trong đó tuyên bố rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ
có thể xuất hiện sau khi phát triển nền tảng chủ nghĩa xã hội thông qua việc thiết lập nền kinh tế
thị trường và kinh tế trao đổi hàng hóa, và chủ nghĩa xã hội sẽ chỉ xuất hiện sau khi giai đoạn
này hoàn thành vai trò lịch sử của nó và dần tự chuyển hóa thành chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ việc cần kíp phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng và Nhà
nước ta đã chủ trương xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp chuyển sang nền
KTTT và hội nhập quốc tế. Chủ trương đó nhanh chóng được các nhà đầu tư trong, ngoài nước
và đông đảo người sản xuất, tiêu dùng hưởng ứng. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước và có
vốn nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều, hộ nông dân chuyển sang kinh doanh hàng hóa, hộ tư
thương phát triển mạnh, thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy mô ngày càng lớn,
chủng loại phong phú hơn. Thị trường tài chính, nhất là thị trường tín dụng và chứng khoán phát
triển khá nhanh. Thị trường bất động sản, thị trường lao động và khoa học - công nghệ, dù còn
chưa phát triển một cách chuẩn tắc, nhưng cũng đã hình thành. Xuất khẩu, nhập khẩu phát triển
mạnh, đưa nước ta trở thành nước có nền kinh tế mở ở mức độ cao trong khu vực.
b. Thách thức:
Mặc dù từ Đại hội XI đã nhấn mạnh, vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế, coi hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là một trong ba đột phá chiến lược…,
nhưng nhiều năm đã trôi qua mà chủ trương ấy vẫn chưa đem lại thành quả như mong muốn:
Kinh tế vĩ mô tuy cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, còn phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức. Kinh tế phục hồi còn chậm, việc thực hiện tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng gặp nhiều khó khăn và chưa đáp ứng được yêu cầu. Những kết quả bước
đầu của việc thực hiện ba đột phá chiến lược chưa đủ để tạo ra sự chuyển biến về chất trong đổi
mới mô hình tăng trưởng. Chất lượng tăng trưởng chưa thật sự được nâng cao và duy trì một
cách bền vững.
1.2.
Tổng quan về xuất khẩu
1.2.1. Khái niệm về xuất khẩu
Theo Điều 28 Luật Thương mại 2005: Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra
khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Các hình thức xuất khẩu
Ở Việt Nam có một số hình thức xuất khẩu chính:
- Xuất khẩu trực tiếp:
Trong hình thức này, hai bên mua bán hàng sẽ trực tiếp ký kết hợp đồng ngoại thương. Hợp
đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ của quốc gia cũng như thông lệ mua bán quốc
tế. Người xuất khẩu tự đứng tên, đàm phán, bán hàng… nên gọi là trực tiếp. Hình thức thích hợp
đối với gần như mọi loại hình doanh nghiệp, giúp chủ động được hoạt động kinh doanh, khẳng
định thương hiệu trên thị trường quốc tế.
2
Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, một trong những phương thức thức khá phổ biến là
thanh toán qua tín dụng chứng từ L/C với những bước cần thiết: xin giấy phép, chuẩn bị hàng
hóa, làm thủ tục hải quan, giao hàng, tìm hiểu và mua bảo hiểm (nếu xuất theo điều kiện CIF,
CIP), làm thủ tục nhận thanh toán.
- Xuất khẩu uỷ thác (gián tiếp):
Với hình thức này, bên có hàng sẽ ủy thác cho một đơn vị khác gọi là bên nhận ủy thác để
tiến hành xuất khẩu trên danh nghĩa của bên nhận ủy thác. Doanh nghiệp nhận ủy thác cần ký kết
hợp đồng xuất khẩu ủy thác với đơn vị trong nước. Bên nhận ủy thác sẽ ký kết hợp đồng xuất
khẩu, giao hàng và thanh toán đối với đơn vị nước ngoài và cuối cùng là nhận phí ủy thác xuất
khẩu từ chủ hàng đã ủy thác xuất khẩu.
Thông thường, các doanh nghiệp chưa có đủ thông tin cần thiết về thị trường nước ngoài,
quy mô kinh doanh còn nhỏ, nguồn lực hạn chế, chịu nhiều rào cản từ phía nhà nước sẽ áp dụng
hình thức này. Doanh nghiệp có thể xuất khẩu gián tiếp (ủy thác) thông qua công ty, tổ chức,
xuất khẩu chuyên nghiệp hay một hãng khác…
- Gia công hàng xuất khẩu:
Công ty trong nước nhận tư liệu sản xuất (chủ yếu là máy móc, nguyên vật liệu) từ công ty
nước ngoài về để sản xuất hàng hóa dựa trên yêu cầu của bên đặt hàng. Hàng hóa làm ra sẽ được
xuất khẩu ra nước ngoài theo chỉ định của công ty đặt hàng. Hình thức gia công xuất khẩu này
đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, được nhiều quốc giá có nguồn lao động dồi dào giá rẻ áp
dụng. Điều này tạo điều kiện tiếp cận công nghệ mới, mang lại việc làm cho người lao động. Việt
Nam cũng gia công hàng xuất khẩu với nhiều mặt hàng đa dạng như dệt may, da giầy, điện tử…
- Ngoài ra còn có mốt số hình thức xuất khẩu khác: xuất khẩu tại chỗ, tạm xuất tái nhập,
tạm nhập tái xuất, buôn bán đối lưu, xuất khẩu theo nghị định thư ký kết giữa các Chính phủ…
1.2.3. Vai trò của xuất khẩu và xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế Việt Nam
Có thể tóm tắt vai trò của xuất khẩu với Việt Nam bao gồm:
- Đem lại doanh thu cho doanh nghiệp. Việc bán hàng cho khách hàng nước ngoài chính là
cách mở rộng thị trường vượt ra khỏi biên giới quốc gia, góp phần nâng tầm của doanh nghiệp
nội địa. Đây cũng là một trong những lợi ích chính yếu mà buôn bán quốc tế đem lại.
- Quảng bá thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế. Các công
ty lớn mạnh xuất khẩu nhiều mặt hàng có giá trị ra thị trường quốc tế ngoài việc chiếm lĩnh thị
trường, còn giúp khẳng định tên tuổi công ty. Quốc gia có nhiều thương hiệu mạnh thì cũng được
3
khẳng định thương hiệu của chính quốc gia đó. Có thể thấy rõ điều này qua thương hiệu các quốc
gia như: Microsoft, Apple (Mỹ), Sony, Toyota (Nhật Bản), Samsung, Hyundai (Hàn Quốc),…
- Đem lại nguồn ngoại tệ cho đất nước. Lợi ích này mang tính vĩ mô, và cũng là yếu tố
then chốt mà các quốc gia khuyến khích hoạt động xuất khẩu để đảm bảo cán cân thanh toán và
tăng tích lũy và dự trữ ngoại tệ.
- Góp phần thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu thông qua đáp ứng lợi ích của các doanh nghiệp
và các quốc gia. Xuất khẩu thúc đẩy sản xuất trong nước thông qua khuyến khích việc tận dụng
lợi thế tuyệt đối cũng như lợi thế so sánh của các nước.
Trong các mặt hàng xuất khẩu, gạo có vai trò vị trí vô cùng quan trọng, là mặt hàng xuất
khẩu chủ lực đối với Việt Nam. Từ năm 1989 gạo Việt Nam bắt đầu được xuất khẩu, góp mặt
vào thị trường toàn cầu. Dần dà ngành gạo xuất khẩu vươn mình lớn mạnh, trở thành nước xuất
khẩu lớn trên thế giới. Sự chuyển mình của ngành lúa gạo Việt Nam được cả thế giới nhìn nhận
và xem như một kỳ tích. Tính đến năm 2018, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba thế
giới sau Ấn Độ và Thái Lan. Gạo Việt hiện đã có mặt ở gần 150 quốc gia và vùng lãnh thổ với
các sản phẩm khá đa dạng như: Gạo hạt dài, gạo hạt ngắn, gạo thơm, gạo đồ, gạo hữu cơ… Đáng
chú ý, gạo Việt bước đầu đã thâm nhập được vào những thị trường có yêu cầu cao như: Hàn
Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU… Nguồn ngoại tệ thu về từ xuất khẩu gạo đối các nước này là rất
quan trọng.
Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì xuất khẩu gạo là một lợi thế lớn.
Bởi những lợi thế căn bản như: đất đai, khí hậu, nguồn nước, nguồn nhân lực ... và đặc biệt yêu
cầu về vốn kỹ thuật trung bình, với các lợi thế như vậy tăng cường xuất khẩu gạo là hướng đi
đúng đắn nhất. Xuất khẩu gạo có tác động to lớn đến nền kinh tế nước ta, giúp khai thác được tất
cả các lợi thế của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Gạo đóng vai trò quan trọng đối với an
ninh lương thực quốc gia trong điều kiện dân số tăng, đất nông nghiệp giảm do công nghiệp hóa,
đô thị hóa và tác động của biến đổi khí hậu. Nhu cầu tiêu thụ và giá gạo thế giới ngày càng tăng
tăng.
4
2.
2.1.
hóa
THỰC TRẠNG
Chủ trương của Đảng về xuất khẩu các nông sản trong quá trình công nghiệp
2.1.1. Chủ trương của Đảng
a. Quan điểm Đại hội XII của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn và xây
dựng nông thôn mới
Một trong những định hướng lớn để sớm đạt được mục tiêu nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây
dựng nông thôn mới. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp nhằm nâng cao năng lực sản xuất
cũng như đời sống của người dân nông thôn, nhất là trong điều kiện nền nông nghiệp nước ta
đang đứng trước nhiều thách thức của quá trình hội nhập.
Đại hội XII của Đảng ta đã chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và kinh
tế nông thôn là “Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công
nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị
gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu”(1). Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi để sản phẩm nông nghiệp Việt
Nam có đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.
Đồng thời “đẩy nhanh cơ cấu lại ngành công nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái
phát triển toàn diện về cả nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát
huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ,
nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh
lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân. Chú
trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung
ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp; từng bước hình thành có tổ
hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao”(2).
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, nhiệm vụ của ngành nông nghiệp và phát triển
nông thôn là: phát triển nông nghiệp bền vững; thực hiện tái cơ cấu, xây dựng nền nông nghiệp
hiện đại, giá trị gia tăng và hiệu quả cao; xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập, cải thiện
điều kiện sống của dân cư nông thôn; phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực phòng,
chống, giảm nhẹ thiên tai; bảo vệ và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên và bảo vệ
môi trường.
5
Đảng chỉ rõ nhiệm vụ và giải pháp cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới
trong giai đoạn 2016 – 2020 là: “tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển
nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông dân”(3).Đây là
nhiệm vụ hết sức khó khăn, bởi quá trình sản xuất nông nghiệp những năm gần đây tuy đã đạt
được nhiều thành tựu, nhưng kém bền vững và còn nhiều thách thức.
(1), (2), (3) ĐCSVN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.92, 93, 281, 283-284.
b. Chủ trương của Đảng về xuất khẩu nông nghiệp
Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam khẳng định xuất khẩu nông nghiệp, đặc biệt là
xuất khẩu gạo chiếm một vị trí quan trọng, đảm bảo an ninh lương thực cho Việt Nam và góp
phần đảm bảo an ninh lương thực cho cả khu vực và thế giới. Việt Nam có vai trò ngày càng
quan trọng trong phối hợp với các tổ chức đối tác, các nước xuất, nhập khẩu gạo, không chỉ ở giá
trị chuỗi cung ứng gạo mà còn tham gia phát triển công nghệ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là
lĩnh vực lúa gạo, góp phần đảm bảo an ninh lương thực.
Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2017-2020, định
hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành, trong đó tập trung quan tâm phát
triển thị trường xuất khẩu gạo để nâng cao hiệu quả và thúc đẩy xuất khẩu gạo; định hướng cho
công tác quy hoạch và tổ chức sản xuất lúa gạo hàng hóa trong nước theo hướng bảo đảm chất
lượng, an toàn thực phẩm, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu tiêu thụ, đáp ứng yêu cầu, quy định của
thị trường.
Đồng thời, gắn phát triển thị trường xuất khẩu gạo với nâng cao năng lực cạnh tranh, xây
dựng thương hiệu của sản phẩm gạo xuất khẩu và thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo Việt
Nam trên thị trường, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, xuất
khẩu.
c. Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2017 2020, định hướng đến năm 2030.
1. Phát triển thị trường xuất khẩu gạo để nâng cao hiệu quả và thúc đẩy xuất khẩu gạo, góp
phần tiêu thụ hết thóc, gạo hàng hóa với giá có lợi cho người nông dân, nâng cao thu nhập của
người nông dân, đảm bảo an sinh xã hội, an ninh lương thực trong nước, bảo vệ môi trường sinh
thái.
6
2. Phát triển thị trường xuất khẩu gạo để định hướng cho công tác quy hoạch và tổ chức
sản xuất lúa gạo hàng hóa trong nước theo hướng đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, phù
hợp với nhu cầu, thị hiếu tiêu thụ, đáp ứng yêu cầu, quy định của thị trường.
3. Phát triển thị trường xuất khẩu gạo gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng
thương hiệu của sản phẩm gạo xuất khẩu và thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo Việt Nam;
tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, xuất khẩu.
4. Phát triển thị trường xuất khẩu gạo theo hướng đa dạng hóa thị trường, giảm phụ thuộc
vào một số thị trường nhất định phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế về kinh tế và hợp tác quốc
tế về đầu tư sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo; khai thác cơ hội, tiềm năng, lợi thế từ các hiệp
định thương mại tự do, các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
5. Phát triển thị trường xuất khẩu gạo nhằm cụ thể hóa và gắn với việc thực hiện Chiến
lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030; Chiến lược Hội
nhập kinh tế quốc tế ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2030; Đề án phát triển
các thị trường khu vực thời kỳ 2015 - 2020, định hướng đến năm 2030; Đề án tái cơ cấu ngành
nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; Đề án tái cơ cấu
ngành lúa gạo Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Đề án phát triển thương hiệu
gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
2.1.2. Chính sách của Nhà nước
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải khẳng định, Nông nghiệp đã và đang có
những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế, đặc biệt thể hiện qua sự thành công và tăng trưởng
trong việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp ra thị trường quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu nông
sản 8 tháng năm 2019 đạt 26,58 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó có một số
nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu hơn 1 tỷ USD. Với kết quả này, Việt Nam đã từng bước
khẳng định và tiếp tục củng cố vị trí là nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới: chúng ta thuộc
nhóm top 15 nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Những thành tựu như vậy có được là
nhờ một phần đóng góp không nhỏ của những chính sách thuận lợi hóa thương mại, đơn giản
hóa thủ tục xuất nhập khẩu, xúc tiến thương mại, thúc đẩy xuất khẩu của Chính phủ.
Bên cạnh những chính sách hiện tại, không thể không kể đến vai trò quan trọng của các
Hiệp định thương mại tự do (FTA). Ngoài việc giúp mở rộng hơn nữa thị trường, chuyển dịch cơ
cấu cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, còn đảm bảo một môi trường kinh doanh và pháp lý ổn
định, thông thoáng cho nhà đầu tư nhờ những cam kết mạnh mẽ về mở cửa thị trường và quản trị
nhà nước
7
Việt Nam đã tham gia một số FTA “thế hệ mới”, cụ thể là Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã chính thức có hiệu lực với Việt Nam ngày 14 tháng
1 năm 2019 và Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) đã được
ký kết ngày 30 tháng 6 năm 2019. Việc này chắc chắn mở ra một giai đoạn hợp tác mới đầy triển
vọng, kỳ vọng mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, doanh nghiệp và tạo ra sức bật lớn cho
ngành công nghiệp của cả Việt Nam và các đối tác.
Hiệp định CPTPP với 10 đối tác, trong đó có những đối tác mà thông qua Hiệp định này,
Việt Nam lần đầu thiết lập mối quan hệ thương mại tự do song phương như Ca-na-đa, Chi-lê,
Mê-hi-cô và Pê-ru, sẽ mở ra các cơ hội hợp tác nông nghiệp giữa Việt Nam và các đối tác
CPTPP.
Với CPTPP, phần lớn hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được hưởng thuế
suất 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3-5 năm, ví dụ như một số loại thủy sản
(cá, tôm), các loại rau quả tươi và rau quả chế biến, gạo, các loại hạt khô… Đây là cơ hội tiềm
năng để các doanh nghiệp Việt Nam tăng trưởng xuất khẩu cũng như góp phần đa dạng hóa thị
trường xuất khẩu cho các mặt hàng nông lâm thủy sản có thế mạnh của ta.
Với EVFTA, đây là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao, cân bằng về lợi ích cho cả
Việt Nam và EU, góp phần củng cố mối quan hệ song phương theo hướng chiến lược, toàn diện
và bền vững. Về góc độ mở cửa thị trường, Hiệp định này sẽ đem lại cơ hội lớn cho lĩnh vực
nông nghiệp khi thuế hàng loạt mặt hàng nông sản xuất khẩu sang EU sẽ dần giảm xuống về 0%
sau một lộ trình ngắn. Cụ thể: ngay khi Hiệp định có hiệu lực, 70,3% kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang EU sẽ được hưởng thuế 0%. Sau 07 năm, 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sẽ được hưởng thuế 0%, một số ít các mặt hàng còn lại sẽ được nhập khẩu vào EU theo hạn
ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%.
2.2.
Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam những năm gần đây
2.2.1. Thành tựu
2.2.1.a.
▪
Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019
Các loại gạo Việt Nam xuất khẩu
Không chỉ tự cung đủ gạo, Việt Nam cũng đã trở thành một nước xuất khẩu gạo từ năm
1989 và hiện là nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới. Xuất khẩu gạo trong những năm gần
đây đã đạt được những thành tựu đáng kể, mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước phục vụ
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và cho chính ngành công nghiệp. Từ năm 2000 đến năm
2018, khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng từ 3,48 triệu tấn lên 6,12 triệu tấn, chiếm hơn
8
20 phần trăm khối lượng gạo được xuất khẩu trên thế giới. Gạo cũng là sản phẩm thực phẩm
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam đạt giá trị 2 - 3,7 tỷ đôla.
Việt Nam đã mở rộng thị trường ra trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nhìn chung, cho đến
nay thị trường gạo của Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể, không những về chiều rộng mà còn
theo chiều sâu. Được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây.
Tổng khối lượng xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Lượng
Trị giá
(triệu tấn)
(tỷ USD)
6,886
3,248
7,112
3,657
8,016
3,673
2,592
2,925
6,331
2,935
6,582
2,796
4,809
2,159
5,819
2,633
6,115
3,064
5,061
2,204
Theo Tổng cục Thống kê
Năm
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
9 tháng đầu năm 2019
Tổng khối lượng xuất khẩu gạo Việt Nam
giai đoạn 2010-2019
9,000
8,000
7,000
6,000
5,000
4,000
3,000
2,000
1,000
0
10
20
11
20
12
20
13
20
14
20
16
20
15
20
17
20
18
20
9
Lượng
án
th
g
đ
ầu
nă
m
19
20
4,000
3,500
3,000
2,500
2,000
1,500
1,000
500
0
Trị giá
Các loại gạo xuất khẩu quen thuộc của Việt Nam đó là: Gạo trắng, gạo lứt, gạo tấm, gạo nếp,…
Đơn vị: nghìn tấn
Năm
Gạo lứt
Gạo đã xát
Tấm
Trị giá
9
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
62,4
118,1
61,5
26,3
28,7
27,2
22,6
67,9
6694,1
7500,3
7477,4
6307,5
6124,1
6048,1
4489,1
5338,5
(tỷ USD)
3,25
3,96
6,678
2,961
2,981
2,842
2,194
2,671
136,4
251,7
478,1
353,3
302,9
608,5
397,7
518,1
Các loại gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2017
8000
8
7000
7
6000
6
5000
5
4000
4
3000
3
2000
2
1000
1
0
2010
2011
2012
2013
Gạo lứt
▪
2014
Gạo đã xát
2015
Tấm
2016
2017
0
Trị giá
Các thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam
Việt Nam là 1 trong 3 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới (đứng thứ 3 sau Ấn Độ và
Thái Lan). Các mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên 150 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới. Trong đó, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia và Ghana là những thị
trường nhập khẩu gạo hàng đầu của Việt Nam.
GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU GẠO SANG CÁC THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU GẠO LỚN
CỦA VIỆT NAM (Đơn vị: triệu USD)
2014
2015
2016
2017
2018
Trung Quốc
892,604
866,551
782,107
1,026,503
683,630
Philippines
598,649
467,553
167,660
223,525
460,612
Malaysia
216,003
214,916
117,079
210,155
219,724
Ghana
176,200
182,848
237,441
202,441
213,961
10
Indonesia
150,618
266,721
128,571
5,883
362,663
Nguồn: Cục thống kê Việt Nam, Trademap
KHỐI LƯỢNG GẠO VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG CÁC THỊ TRƯỜNG
NHẬP KHẨU CHỦ YẾU (Đơn vị: tấn)
2014
2015
2016
2017
2018
Trung Quốc
1,352,048
1,794,261
1,618,415
2,264,651
1,449,602
Philippines
855,833
580,951
259,296
500,251
675,557
Malaysia
310,751
326,577
191,401
326,165
206,248
Ghana
319,515
358,397
474,187
485,782
488,015
Indonesia
306,418
509,374
535,577
16,600
767,181
Nguồn: Trademap
Tuy nhiên, theo số liệu thống kê từ Trademap và Cục thống kê Việt Nam, từ cuối năm
2018, phía Bộ đã xác định xuất khẩu gạo sẽ gặp nhiều khó khăn ở các thị trường lớn như
Indonesia, Bangladesh, Trung Quốc do đều giảm nhập. Trong đó, đặc biệt là Trung Quốc năm
nay giảm nhập 65% gạo của Việt Nam. “Với thị trường Trung Quốc, hiện có thêm các nước tham
gia cung cấp gạo cho Trung Quốc. Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các đối thủ khác. Chưa
kể, vấn đề còn là một số doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam sang Trung Quốc chưa đạt được
kiểm tra an toàn chất lượng”. Ông Nguyễn Quốc Toàn - Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển
thị trường nông sản nói và cho biết, có những thời điểm Trung Quốc tiến hành xả kho gạo dự trữ
nên cũng giảm nhập. (Nguồn: ). Số liệu từ Hải quan Việt Nam cũng cho
thấy, lượng gạo xuất sang Trung Quốc trong 7 tháng đầu năm 2019 đã giảm tới 66% so với cùng
kỳ năm 2018, xuống còn 318.100 tấn. Chính vì thế, Trung Quốc từ nước nhập khẩu gạo lớn nhất
của Việt Nam nay đã bị thế chỗ bởi Philipines.
Trong 9 tháng đầu năm 2019, các thị trường xuất khẩu gạo truyền thống của Việt Nam như
Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Ghana,.. đều giảm lượng gạo nhập khẩu đáng kể so với cùng
kỳ năm ngoái (theo bảng phân tích dưới đây). Như vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra đó là mở rộng thị
trường xuất khẩu gạo để đạt được mục tiêu đã đề ra trong CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2017 - 2020, ĐỊNH HƯỚNG
ĐẾN NĂM 2030 (Số: 942/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ngày 03/07/2017) :
11
- Đến năm 2020, thị trường châu Á chiếm tỷ trọng khoảng 60% tổng kim ngạch
xuất khẩu gạo, thị trường châu Phi chiếm khoảng 22%, thị trường Trung Đông chiếm
khoảng 2%, thị trường châu Âu chiếm khoảng 5%, thị trường châu Mỹ chiếm khoảng
8%, thị trường châu Đại Dương chiếm khoảng 3%.
- Đến năm 2030, thị trường châu Á chiếm tỷ trọng khoảng 50% tổng kim ngạch
xuất khẩu gạo, thị trường châu Phi chiếm khoảng 25%, thị trường Trung Đông chiếm
khoảng 5%, thị trường châu Âu chiếm khoảng 6%, thị trường châu Mỹ chiếm khoảng
10%, thị trường châu Đại Dương chiếm khoảng 4%. (Nguồn : thuvienphapluat.vn)
XUẤT KHẨU GẠO 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
9 tháng đầu năm 2019
Thị trường
Lượng (tấn)
So với cùng kỳ năm trước (%)
Trị giá (USD)
Lượng
Trị giá
Tổng cộng
5.060.437
2.204.303.094
3,42
-10,4
Philippines
1.886.091
773.782.044
188,14
159,27
Trung Quốc
387.807
192.880.568
-65,59
-66,8
Bờ Biển Ngà
427.762
182.579.425
149,31
81,84
Malaysia
443.486
174.966.464
-2,02
-14,21
Ghana
290.854
142.075.526
-2,35
-17,69
Indonesia
29.539
13.040.625
-96,17
-96,4
Nguồn: VITIC
2.2.1.b.
▪
Vị thế của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới
Chất lượng gạo Việt Nam xuất khẩu
Chỉ 3 năm sau công cuộc Đổi mới được phát động, năm 1989 Việt Nam đã bắt đầu xuất
khẩu gạo ra thị trường thế giới. Đây được coi là "trái ngọt đầu mùa" của công cuộc Đổi mới giai
đoạn đó.
Sở hữu những lợi thế về tự nhiên cũng như yếu tố con người có nhiều năng kinh nghiệm
canh tác lúa nước lâu năm, Việt Nam có lợi thế về sản xuất lúa gạo với sản lượng lúa thu hoạch
hàng năm khoảng trên 40 triệu tấn, xuất khẩu 5-7 triệu tấn/năm luôn đứng ở vị trí hàng đầu. Đất
đai vùng ĐBSCL và Đồng bằng Sông Hồng rất đa dạng về thổ nhưỡng vùng miền, có nhiều lợi
thế để sản xuất nhiều loại gạo có giá trị, kết hợp phương thức canh tác phù hợp cũng như theo
12
mô hình liên kết sẽ mang lại hiệu quả cao, cũng như con đường cạnh tranh với sản phẩm cao cấp
của Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia,... sẽ ngắn hơn.
Gạo Việt Nam luôn đặt ra tiêu chí CHẤT LƯỢNG - AN TOÀN - THƠM NGON - GIÁ
CẠNH TRANH.
Yếu tố về CHẤT LƯỢNG: được đảm bảo nhờ :
- Tính ổn định được duy trì nhờ sản xuất theo chuỗi giá trị
- Toàn bộ quá trình canh tác được kiểm soát chặt chẽ và qua đó truy xuất được nguồn gốc –
một yếu tố cần thiết để kiểm soát chất lượng
- Sau khi thu hoạch, lúa được sấy, chế biến, xử lý trực tiếp tại nhà máy
- Được quản lý bởi các hệ thống chất lượng quốc tế: ISO22000, HACCP, BRC, HALAL,
SMETA...
- Gạo thành phẩm phải qua các thiết bị kiểm tra tiên tiến như: Máy tách màu điện tử, Máy
tách đá sạn, Máy dò kim loại...
Yếu tố AN TOÀN, được đảm bảo nhờ:
- Quy trình sử dụng thuốc BVTV được kiểm soát nghiêm ngặt: danh mục thuốc sử dụng,
quy tắc “4 đúng”, đặc biệt 20 ngày trước khi thu hoạch tuyệt đối không sử dụng bất kỳ loại thuốc
BVTV nào.
- Gạo thành phẩm trước khi đóng gói, được kiểm tra, phân tích định lượng cụ thể đạt chuẩn
an toàn vệ sinh TP.
- Quá trình đóng gói gạo đươc thực hiện khép kín, đồng bộ trong phòng đóng gói tiêu
chuẩn đạt chứng nhận HACCP.
- Bao bì đóng gói, tiếp xúc trực tiếp với gạo phải bảo đảm an toàn và có kiểm nghiệm phân
tích phù hợp quy định ATVSTP
- Quá trình chế biến , bảo quản gạo tuân thủ nguyên tắc 3 KHÔNG: KHÔNG CHẤT TẨY
TRẮNG, KHÔNG CHẤT BẢO QUẢN, KHÔNG CHẤT TẠO MÙI.
Yếu tố THƠM NGON
Đây tuy là yếu tố không định lượng được, chủ yếu bằng cảm nhận, tùy theo sở thích và
khẩu vị mỗi người và cũng thay đổi tùy theo đặc tính mỗi loại giống. Tuy nhiên, yếu tố này vẫn
được đảm bảo nhờ:
13
- Sản xuất từ giống lúa xác nhận của các đơn vị sản xuất giống có uy tín
- Tuyển chọn từ giống thơm đặc sản, hoặc lúa thơm, lúa hạt dài chất lượng cao nổi tiếng
- Xay xát trực tiếp từ LÚA – không pha trộn từ gạo – giữ được hương vị tự nhiên của lúa.
Trong số những loại gạo nước ta xuất khẩu, trong đó phải kể đến 2 loại gạo đứng đầu đó là
ST25 và Japonica.
Gạo ST25 đứng đầu về gạo ngon thế giới, điều này có ý nghĩa quan trọng về tinh thần cho
những người nông dân sản xuất ra những hạt gạo đạt chất lượng tầm thế giới. các giống lúa của
Thái Lan hay Campuchia đã từng đạt giải gạo ngon nhất thế giới chỉ có thể sản xuất được một vụ
và nó có thời gian sinh trưởng rất dài, năng suất không cao.
Trong khi đó, các giống lúa chất lượng cao của Việt Nam hiện nay; trong đó, có ST25 đều
thích hợp với các vụ, có thời gian sinh trưởng ngắn nên có thể trồng được 2 vụ/năm, năng suất
lúa cũng cao hơn. Như vậy, hiệu quả sản xuất lúa của Việt Nam cũng cao hơn.
Đối với gạo Japonica, với phương thức canh tác gieo cấy theo tiêu chuẩn VietGAP, ĐS1
thể hiện ưu thế vượt trội ít sâu bệnh hại, chất lượng gạo dẻo, hạt nhỏ, thơm ngon so với nhiều
giống lúa khác. ĐS1 cho năng suất khá, đạt trung bình 60 tạ/ha, giá trị kinh tế cao hơn 15 - 20%
so với các giống lúa khác.
Với các chương trình tự do thương mại hóa toàn cầu, lúa gạo Japonica đang trở thành một
ngành hàng xuất khẩu của nước ta, với giá trị 800 - 1.500 USD/tấn. Do đó, việc đẩy mạnh phát
triển sản xuất lúa Japonica là hướng đi đúng, trúng, mở ra cơ hội lớn cho gạo chất lượng cao của
nước ta vươn tới thị trường thế giới.
▪
Đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu gạo
Sản lượng gạo thơm, gạo trắng hạt dài xuất khẩu của nước ta hiện đã chiếm khoảng 70%
tổng sản lượng gạo bán cho các nước; gạo thường xuất khẩu chỉ hơn 20%.
Tuy nhiên, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lại rất thấp so với các quốc gia xuất khẩu khác.
Gạo ST24 của Việt Nam xuất khẩu có giá cao nhất chỉ 750-800 USD/tấn, trong khi gạo Thái Lan
với phẩm chất tương tự lên đến 1.100-1.200 USD/tấn. Thậm chí, gạo Campuchia có chất lượng
chỉ tương đương giống ST5 của Việt Nam cũng bán được ra thị trường thế giới với giá đến 600
USD/tấn, còn Việt Nam xuất với giá 550 USD/tấn. "Sở dĩ gạo Thái Lan, Campuchia có giá cao là
do họ làm thương hiệu tốt, tạo được niềm tin về chất lượng với khách hàng. Trong khi đó, gạo
xuất khẩu của Việt Nam cho dù chất lượng cao nhưng không ai biết nên luôn có giá thấp, dẫn
14
đến dù đã chuyển qua xuất khẩu gạo chất lượng cao nhưng giá trị thu về cũng không thay đổi
nhiều so với thời kỳ xuất khẩu gạo thường" - ông Bình nhận định.
Nguyên nhân là do hầu hết giống gạo đoạt giải của Việt Nam đều đang có quy mô sản xuất
nhỏ, chưa phổ biến. Phần lớn gạo của Việt Nam vẫn là giống ngắn ngày, chất lượng chưa cao, sử
dụng phân bón hóa học "vô tội vạ". Trong khi đó, nhiều loại gạo của Thái Lan, Campuchia là
giống dài ngày, sản xuất theo tập quán cũ nên chất lượng cao.
2.2.2. Hạn chế
▪
Mở rộng thị trường xuất khẩu
Từ tình hình sản xuất, chế biến và xuất khẩu lúa gạo như trên, có thể thấy ngành hàng lúa
gạo Việt Nam hiện nay tồn tại một số hạn chế, gây ra tổn thất không nhỏ đối với lợi ích chính
đáng của nông dân và quốc gia. Nhu cầu nhập khẩu của một số thị trường truyền thống không ổn
định, lại gặp phải cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng. Một số nước trong khu vực trước
đây nhập khẩu gạo nhiều thì nay đẩy mạnh tự cung tự cấp, thậm chí còn sản xuất dư thừa để xuất
khẩu. Do đó, thị trường của gạo Việt càng ngày càng thu hẹp. Bên cạnh đó, Trung Quốc – quốc
gia 1,4 tỉ dân – mặc dù vẫn là thị trường lớn nhất nhập khẩu mặt hàng nông sản của Việt Nam
nhưng đã không còn là thị trường dễ tính của gạo Việt khi nước này siết chặt về chất lượng, truy
xuất nguồn gốc hay siết chặt quản lí biên giới.
Cụ thể, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 9, kim ngạch xuất khẩu
gạo của Việt Nam đạt gần 211 triệu USD với 479.363 tấn; giảm 20,4% về lượng và 21,7% về giá
trị so với tháng 8. Tính chung 9 tháng, Việt Nam xuất khẩu được 5,060 triệu tấn gạo với kim
ngạch đạt trên 2,2 tỷ USD; tăng 3,7% về lượng nhưng lại giảm tới 10,2% về trị giá. Bước sang
nửa kỳ đầu tháng 10 (từ 1 đến 15/10), Việt Nam xuất khẩu được 226.630 tấn gạo với giá trị kim
ngạch đạt hơn 103 triệu USD. Còn theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì 10 tháng qua, kim
ngạch xuất khẩu gạo của nước ta đạt 2,4 tỷ USD, lượng tăng 6,1% nhưng giảm 7,8% về giá trị.
Nguyên nhân lượng tăng nhưng giá trị xuất khẩu gạo giảm được phân tích là do tốc độ tăng
trưởng kinh tế thế giới chậm lại, nhiều thị trường nhập khẩu gạo chủ lực của Việt Nam giảm nhu
cầu nhập gạo. Bên cạnh đó, trong tháng 9, trên thị trường thế giới, giá gạo xuất khẩu Ấn Độ tăng
nhờ đồng Rupee hồi phục. Đồng Baht tăng trở lại cũng giúp giá gạo Thái Lan ổn định ở mức cao
trong gần 1 năm qua và đắt hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác ở châu Á. Trong khi đó, nhu
cầu tiêu thụ ảm đạm giữ giá gạo Việt Nam ở mức thấp. Trong tháng 8 và tháng 9 vừa qua, giá
gạo tại thời điểm thấp nhất là khoảng 325 USD/tấn. Tại thời điểm đó, giá gạo Thái Lan khoảng
350-360 USD/tấn.
15
Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường mới để bù đắp cho sự
sụt giảm mạnh lượng gạo xuất sang Trung Quốc. Không chỉ khó khăn từ thị trường Trung Quốc;
xuất khẩu gạo sang các thị trường lớn, truyền thống của Việt Nam như: Indonesia, Bangladesh,
Philippines… cũng không thuận lợi do các nước này đều giảm nhập khẩu. Khó khăn thấy rõ là
các thị trường lớn, truyền thống của Việt Nam, nhất là Trung Quốc, Indonesia, Banglandesh đều
giảm nhập khẩu. Trong đó, thị trường Trung Quốc giảm mạnh cả về sản lượng lẫn kim ngạch do
có thêm các nước tham gia cung cấp gạo cho Trung Quốc. Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với
các đối thủ khác. Bên cạnh đó, có những thời điểm Trung Quốc tiến hành xả kho gạo dự trữ.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc chưa đạt được
kiểm tra an toàn chất lượng…
Chứng minh nguồn gốc xuất xứ
Thông tin từ Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn) cho thấy, giá gạo xuất khẩu bình quân chín tháng năm 2019 của Việt Nam chỉ ở mức
435,6 USD/tấn, giảm 13,4% so với cùng kỳ năm 2018. Tính riêng trong tháng 9-2019, giá gạo
5% tấm của Việt Nam giảm từ 330 USD/tấn xuống còn 325 USD/tấn. Trong khi đó, cùng phân
khúc này, gạo Ấn Ðộ tăng từ 366 đến 374 USD/tấn lên 373 đến 379 USD/tấn; gạo Thái-lan ở
mức 400 đến 418 USD/tấn. Giá gạo xuất khẩu giảm cũng kéo theo giá lúa gạo trong nước hầu
như giảm trong suốt chín tháng đầu năm. Gần nhất là tháng 9-2019, lúa IR50404 tại An Giang
giảm từ 4.750 đồng/kg (mức cao nhất trong chín tháng) xuống 4.000 đồng/kg; tại Vĩnh Long
giảm từ 4.800 đồng/kg xuống còn 4.200 đồng/kg. Lúa chất lượng cao tại Bạc Liêu giảm từ 5.000
đến 5.400 đồng/kg xuống còn 5.000 đến 5.300 đồng/kg…
Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do gạo Việt Nam chịu sự cạnh tranh gay gắt của nhiều
quốc gia xuất khẩu gạo như Ấn Ðộ, Thái Lan. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu từ các quốc gia
truyền thống đều giảm, đặc biệt xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc giảm mạnh cả về
số lượng và giá trị do Trung Quốc điều chỉnh chính sách thương mại, đa dạng hóa nguồn gạo
nhập khẩu, đồng thời siết chặt các quy định về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm cũng
như các quy định kỹ thuật khác như tem nhãn, nguồn gốc xuất xứ, mã số vùng trồng…
Vấn đề được đặt ra chính là hạn chế trong việc chứng minh nguồn gốc xuất xứ của các loại
gạo xuất khẩu ở nước ta. Trong quá trình sản xuất, do có quá nhiều giống lúa với chất lượng hạt
khác biệt nhau, dẫn đến không đồng nhất về chất lượng, và hệ quả là không thể xác định nguồn
gốc và xây dựng thương hiệu. Chi phí vật tư có nguồn gốc dầu mỏ mà chủ yếu là nhiên liệu,
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật tăng cao do lệ thuộc nhập khẩu và chi phí phân phối, tiếp thị
cao. Chi phí lao động, nhất là công đoạn thu hoạch cao, vì thiếu hụt lao động nông nghiệp và
16
mức độ cơ giới hóa trong công đoạn thu hoạch còn quá thấp. Các vấn đề này tác động làm cho
chất lượng gạo xuất khẩu thấp, giá thành sản xuất cao và tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch quá cao
(ước tính từ 10-12% tổng sản lượng).
▪
Đảm bảo tiêu chuẩn kĩ thuật
Việt Nam là một nước có khu vực sản xuất và xuất khẩu gạo khá lớn nên có nhu cầu cao
trong việc yêu cầu các đối tác mở cửa thị trường nông nghiệp cho nông sản Việt Nam nói chung
và mặt hàng gạo nói riêng. Vấn đề khó khăn là ở chỗ các nước TPP đều có xu hướng đàm phán
hạn chế, giữ bảo hộ đối với mặt hàng gạo nội địa (không mở cửa). Vấn đề TBT (Technical
Barriers to Trade - hàng rào kĩ thuật thương mại) và SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures –
biện pháp vệ sinh dịch tế) rất quan trọng đối với khả năng tiếp cận thị trường của các mặt hàng
gạo Việt Nam bởi dù thế nhập khẩu vào các nước có được cắt bỏ hết những việc kiểm dịch phải
kiểm tra dư lượng kháng sinh, các đòi hỏi về nhãn mác bao gói,… của các nước vẫn ngăn chặn
khả năng xuất khẩu gạo của Việt Nam. Điều này thậm chí còn có thể rủi ro hơn nhiều so với thuế
quan. Trong khi đó, đàm phán TPP liên quan đến vấn đề này hiện nay hầu như không giải quyết
được vướng mắc này của Việt Nam vì các nội dung đàm phán không đề cập tới vấn đề hạn chế
quyền ban hành các điều kiện SPS, TBT mới của các nước TPP (và vì vậy các nước này vẫn
được đơn phương đưa ra các điều kiện SPS, TBT mới hoặc điều chỉnh, từ đó ngăn chặn việc
nhập khẩu của nông sản Việt Nam vào các nước này). Thực tế, đàm phán chỉ xoay quanh vấn đề
hợp tác để xử lí vướng mắc, một vấn đề chỉ liên quan tới rút ngắn thời gian, xử lí khiếu nại, còn
các điều kiện kiểm dịch thì vẫn giữ nguyên.
17
3.
3.1.
GIẢI PHÁP
Về phía Đảng và Nhà nước
Đầu tư vào việc nghiên cứu các ứng dụng khoa học công nghệ như : xúc tiến nhanh việc
bình tuyến các loại giống lúa đặc sản của các địa phương, từ đó hình thành quỹ gen về giống lúa
chất lượng cao để xuất khẩu. Hoàn thiện hệ thống quản lí nhà nước về giống lúa; Hình thành hệ
thống nhân giống lúa thích hợp để thường xuyên thay giống lai tạo bằng giống thuần chủng cho
nông dân, do phần lớn các loại giống lúa mới đều bị xuống cấp nhanh, dễ bị lai tạp. Đồng thời,
nhà nước cần phát huy vai trò chỉ đạo của các cơ sở nghiên cứu chính là các viện, các trường đại
học, đồng thời huy động mọi lực lượng khác tham gia nghiên cứu trong đó có các doanh nghiệp,
nông trường,…
Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng cho xuất khẩu Đồng bằng Sông Cửa Long là nơi
cung cấp nguồn gạo chủ yếu cho xuất khẩu của nước ta hiện nay. Khu vực cảng Sài Gòn và các
tỉnh lân cận là những cảng quan trọng nên cần được đầu tư, nâng cấp, cải tiến lại hệ thống kho
bãi, phương tiện bốc dỡ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển xuất khẩu gạo đúng thời gian và tiến độ.
Một giải pháp nữa là chính phủ nên tập trung đầu tư, xây dựng, cải tạo lại một số cảng ở Đồng
bằng Sông Cửu Long theo phương pháp dàn trải, tránh tập trung vào một cảng như hiện nay để
giảm thiểu sự tắc nghẽn. Cần xây dựng, sửa chữa, nâng cấp một số cảng như Long An, Đồng
Tháp, Cần Thơ,… thành những cảng có chất lượng tốt, có thể là cảng chuyên dùng cho xuất
khẩu gạo. Đặc biệt là cảng Cần Thơ, môt số cảng có vị trí chiến lược, nếu được đầu tư xây dựng
sẽ tác động tích cực đến sản xuất lúa gạo đồng bằng Sông Cửu Long, đẩy nhanh tiến độ công
nghiệp hóa hiện đại hóa khu vực này, tạo sự lưu thông lúa gạo thuận tiện giữa vùng sản xuất lúa
gạo và xuất khẩu.
3.2.
Về phía các doanh nghiệp
3.2.1. Tồn tại và nguyên nhân
Việc xuất khẩu của các doanh nghiệp còn chạy theo số lượng chưa quan tâm nhiều đến
chất lượng. Chưa xây dựng được thương hiệu ở nước ngoài do chất lượng gạo không cao và khả
năng cạnh tranh còn kém hơn so với các đối thủ trong và ngoài nước. Bên cạnh đó thì vẫn còn ủy
thác xuất khẩu nên sản phẩm không trực tiếp đến người tiêu dùng. Ngoài ra thì các thị trường
xuất khẩu của các doanh nghiệp dường như đã bão hòa, chỉ xuất khẩu sang những thị trường
truyền thống lâu năm. Và vấn đề khó khăn nhất hiện nay là nguồn nguyên liệu đầu vào chưa đảm
bảo được chất lượng nên ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của họ.
3.2.2. Các giải pháp
18
a. Nâng cao chuyên môn trong nghiệp vụ ngoại thương
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang diễn ra sôi động, nền kinh tế Việt Nam
đã trở thành bộ phận của nền kinh tế thế giới. Ngoại thương trở thành hoạt động không thể thiếu
đối với các doanh nghiệp. Vì vậy các công ty muốn hoạt động kinh doanh của mình diễn ra tốt
đẹp thì cần phải có chuyên gia nghiệp vụ ngoại thương giỏi. Để có được những chuyên nghiệp
vụ ngoại thương giỏi thì cần phải trang bị và bổ sung kiến thức kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương
cho cán bộ công nhân viên của công ty sao cho họ sử dụng hợp đồng ngoại thương một cách
nhuần nhuyễn như có những khóa học nghiệp vụ để nhân viên có thể hiểu rõ hơn về nghiệp vụ.
Từ đó sẽ nâng cao trình độ tay nghề và năng suất làm việc sẽ nhanh hơn.
b. Nâng cao khả năng dự đoán thị trường
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, việc nắm vững thị trường nước ngoài có ý nghĩa rất quan
trọng. Nó giúp cho doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài một cách dễ dàng và
giảm bớt rủi ro. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu phải quan tâm các vấn đề: Dung lượng thị
trường nước ngoài, tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng về mặt hàng mà mình đang kinh
doanh. Các kênh phân phối và tiêu thụ mặt hàng như thế nào, tình hình cung cầu về hàng hoá
mình đang kinh doanh. Chiều hướng giá cả hàng hoá đang lên hay đang xuống, có những biến
động gì lớn về giá cả hay không và nguyên nhân sự biến đổi là do đâu. Đặc biệt khi xuất khẩu lô
hàng lớn, cũng cần phải chú ý đến cả tình hình thu mua hàng trong nước có gặp khó khăn hay
cạnh tranh lớn gì không và giá thu mua hàng xuất khẩu ở mức tối đa và tối thiểu ra sao
c. Nâng cao chất lượng hạt gạo
Hiện nay, xuất khẩu gạo của Việt Nam chỉ đứng sau Thái Lan. Tuy nhiên giá trị mặt hàng
chủ lực này không cao, do giá xuất khẩu thấp. Các nhà khoa học cho rằng, ngoài những yếu tố
tác động của thị trường thì khâu chọn giống, cùng các biện pháp canh tác sẽ là giải pháp thiết
thực để nâng cao chất lượng hạt gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Hỗ trợ cho các viện
nghiên cứu để có thể tiềm kiếm những giống lúa mới. Ngoài ra thì việc liên kết giữa nhà sản xuất
và nhà kinh doanh là một việc làm hết sức cần thiết. Các doanh nghiệp có thể chọn những giống
chất lượng cho người nông dân trồng. Bên cạnh đó công ty sẽ giúp nhà nông có được những
hướng dẫn, trợ giúp trong áp dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, bao tiêu
sản phẩm với giá cả ổn định, đảm bảo lợi ích cả đôi bên. Các doanh nghiệp nên hình thành mối
liên kết có hiệu quả với Viện Lúa Đồng bằng Sông Cửu Long, Viện Khoa học-Kỹ thuật để sản
xuất và bao tiêu sản phẩm lúa sạch
19
d. Xây dựng thương hiệu
Các doanh nghiệp đã xây dựng được thương hiệu cho mình là sản phẩm gạo An Toàn. Việc
tạo dựng thương hiệu đã khó nhưng để tồn tại và giữ vững ,hiệu càng khó hơn. Do đó các doanh
nghiệp cần có một khoản ngân sách để đầu tư cho việc nuôi dưỡng và phát triển thương hiệu.
Phải tập trung cho việc quảng cáo, tuyên truyền, giới thiệu mạnh mẽ các mặt hàng trên các
phương tiện thông tin đại chúng, báo chí tiếp thị để người tiêu dùng tiếp cận được với sản phẩm
của mình. Xây dựng chi nhánh tại các nước để từ đó tiếp cận được với người tiêu dùng, dễ dàng
quảng bá sản phẩm của họ. Từ đó thương hiệu của các doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiếp cận được
với khách hàng. Tăng cường khả năng quảng cáo tiếp thị và đảm bảo hạt gạo luôn đạt chất
lượng. Bên cạnh đó thì cần cải tiến, xây dựng trang web về thương hiệu sản phẩm của mình.
e. Mở rộng thị trường
Như phân tích ở trên thì trong những năm hoạt động gần đây thị trường nhập khẩu gạo của
các doanh nghiệp hầu như đã bão hòa. Nên việc tìm kiếm thị trường mới là một vấn đề cần thiết
để việc xuất khẩu được nâng cao, từ đó đem lại nguồn doanh thu lớn cho các doanh nghiệp. Giữ
vững thị trường truyền thống, tham gia tích cực thị trường khu vực, tập trung mở rộng và từng
bước chiếm lĩnh thị trường Trung Đông và Bắc Mỹ. Tổ chức mạng lưới bán lẻ trong nước, đổi
mới phương thức tiếp thị xuất khẩu, đồng thời quan tâm đến việc xây dựng, quảng bá thương
hiệu sản phẩm, đóng góp vào việc xây dựng hình ảnh của ngành Lương Thực Việt Nam trên thị
trường trong nước và quốc tế. Phải có đội ngũ nhân viên an hiểu về luật quốc tế để dễ dàng xâm
nhập vào thị trường mới mà không bị kiện, dễ dàng đàm phán và giải quyết các tranh chấp hợp
đồng, nhất là hợp đồng thương mại quốc tế. Áp dụng chiến lược Marketing – Mix vào công tác
thâm nhập thị trường nước ngoài.
3.3.
Về phía người nông dân
- Thiết lập mối quan hệ gắn bó với các doanh nghiệp và nhà nước.
- Tham gia đầy đủ các buổi hướng dẫn sử dụng công nghệ trong trồng trọt, các buổi giới
thiệu giống lúa mới tăng năng suất.
- Kiến nghị với nhà nước nếu các quyền lợi của bản thân, gia đình chưa được đầy đủ.
20
KẾT LUẬN
Xuất khẩu gạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của Việt Nam hiện nay.
Song, tình hình xuất khẩu gạo chưa thực sự tương xứng với tiềm năng và khả năng xuất khẩu của
một nước có lịch sử văn minh lúa nước lâu đời như Việt Nam. Bên cạnh nêu ra những thành tựu
mà xuất khẩu gạo Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua, nghiên cứu đã đánh giá về thực
trạng xuất khẩu của ngành gạo Việt Nam trong nền Kinh tế thị trường định hướng HXCN hiện
nay và đã chỉ ra được tầm quan trọng đặc biệt chiến lược của xuất khẩu gạo phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Ngoài ra, nghiên cứu giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về chất lượng gạo
Việt Nam xuất khẩu, đồng thời chỉ ra những thị trường truyền thống và tiềm năng cho mặt hàng
gạo Việt Nam xuất khẩu. Từ việc thu thập, xử lí thông tin, số liệu về tình hình xuất khẩu gạo
Việt Nam giai đoan 2010-2019, bài tiểu luận đã cho thấy xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn còn gặp
không ít khó khăn rào cản về chất lượng, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, vẫn chưa có bước tiến vào
các thị trường khó tính. Từ đó đưa ra các giải pháp từ phía nhà nước, doang nghiệp cho đến
người nông dân nhằm đáp ứng tốt hơn và hỗ trợ cho nâng cao hoạt động xuất khẩu.
Do đề tài thực hiện trong thời gian ngắn nên số liệu chưa thống kê đầy đủ và mang tính
tổng quát; các giải pháp đưa ra chưa cụ thể hết và chưa toàn diện nên không thể tránh còn có
những sai sót nhưng nghiên cứu này có thể làm nền tảng cho những bài viết tiếp theo của nhóm
về xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS Bùi Xuân Lưu, Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, Nhà xuất bản Lao động Xã hội,
Hà Nội.
2. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, chương IV- Đường lối
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Luật Thương mại 2005
4. PGS. TS. Vũ Văn Phúc - Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học các ban Đảng Trung
ương,“Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta”, Tuyên giáo
– Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương
5. Đỗ Minh, “Hạt gạo Việt - Hành trình vươn xa”, Báo Hà Nội mới :
6. Cục chế biến và Phát triển nông sản:
7. Hải quan Việt Nam:
8. Tổng cục thống kê:
9. ITC - Macmap :
10. Trademap:
11. Trang thông tin thị trường hàng hóa Việt Nam: />12. Vietnam.net: />13. Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
14. Thư viện pháp luật:
22