Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy vào một số môn chuyên ngành tại khoa tài chính ngân hàng, viện đại học mở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 67 trang )

Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP VIỆN

ĐỀ TÀI: “ỨNG DỤNG TRIỂN KHAI PHƯƠNG PHÁP
GIẢNG DẠY DỰA TRÊN BẢN ĐỒ TƯ DUY VÀO
MỘT SỐ MÔN CHUYÊN NGÀNH TẠI KHOA TÀI
CHÍNH - NGÂN HÀNG, VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI”
Mã số: V2014 - 16

Chủ nhiệm đề tài: Bùi Thanh Sơn

Hà Nội, Tháng 12 Năm 2014


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI

STT

Họ và tên

Đơn vị công tác



1

Bùi Thanh Sơn

Khoa Tài chính - Ngân hàng

2

Nguyễn Thị Hồng Lan

Khoa Tài chính - Ngân hàng


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU .............................................................................. 3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI ........................................................ 4
PHẦN 1: MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 5
1.

Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................ 5

2.

Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................. 5

3.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 6

4.

Phương pháp nghiên cứu........................................................................................... 6

5.

Kết cấu của đề tài ...................................................................................................... 6

PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .......................................................................... 7
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC LỰA CHỌN
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY DỰA TRÊN BẢN ĐỒ TƯ DUY ............................... 7
1.1 Cơ sở lý luận ............................................................................................................. 7
1.1.1 Phương pháp giảng dạy truyền thống và yêu cầu đổi mới trong thời kỳ mới .......... 7
1.1.2 Bản đồ tư duy (BĐTD) và phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy .......... 14
1.1.3 Cơ sở của việc lựa chọn phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy .............. 18
1.2 Cơ sở thực tiễn ........................................................................................................ 22
1.2.1. Tổng quan chung về Viện Đại học Mở Hà Nội ..................................................... 22
1.2.2. Tổng quan về Khoa Tài chính - Ngân hàng .......................................................... 27
1.2.3. Tổng quan về sinh viên khóa 4(2011-2015) .......................................................... 30
CHƯƠNG II : TRIỂN KHAI ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY DỰA
TRÊN BẢN ĐỒ TƯ DUY TẠI KHOA TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ..................... 31
2.1.Lập kế hoạch tổng thể .............................................................................................. 31
2.2. Chuẩn bị nguồn lực ................................................................................................. 34
2.2.1. Cơ sở vật chất, trang thiết bị ................................................................................ 34
2.2.2. Nhân lực ( Giảng viên và sinh viên) .................................................................... 34
2.3. Lựa chọn môn học, giảng viên, lớp học ................................................................... 35
2.3.1. Lựa chọn môn học chuyên ngành ........................................................................ 35

2.3.2. Lựa chọn giảng viên ............................................................................................ 37
2.3.3. Lựa chọn lớp ứng dụng thử ................................................................................. 38
1


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

2.4 Cài đặt phần mềm ................................................................................................... 39
2.5. Tập huấn giảng viên ................................................................................................ 39
2.5.1.Các bước tổ chức tập huấn .................................................................................... 39
2.5.2. Tài liệu tập huấn................................................................................................... 40
2.6. Chuẩn bị hồ sơ và tiến hành giảng thử ..................................................................... 41
CHƯƠNG III: TỔNG KẾT ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT QUY TRÌNHỨNG DỤNG
TRIỂN KHAI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY DỰA TRÊN BẢN ĐỒ TƯ DUY VÀO
MỘT SỐ MÔN CHUYÊN NGÀNH TẠI KHOA TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ........ 43
3.1.Tổng kết, đánh giá việc ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư
duy vào một số môn chuyên ngành tại khoa Tài chính - Ngân hàng .......................... 43
3.1.1. Khảo sát và đánh giá trên bảng câu hỏi................................................................ 43
3.1.2. Phỏng vấn giảng viên, sinh viên .......................................................................... 50
3.1.3. Tổng hợp kết quả thi, kiểm tra, đánh giá............................................................... 51
3.2. Đề xuất quy trình áp dụng phương pháp ................................................................. 52
3.2.1. Quy trình áp dụng ................................................................................................ 52
3.2.2. Điều kiện cần có để thực hiện quy trình................................................................ 53
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................................... 54
PHỤ LỤC 1

............................................................................................................ 55

PHỤ LỤC 2


............................................................................................................ 62

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 64

2


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Bảng 1: Bảng Kế hoạch tổng thể ........................................................................... 32
Bảng 2: Bảng kết quả điều tra ................................................................................ 44
Bảng 3: Bảng tổng hợp tỉ lệ kết quả thi .................................................................. 51
Sơ đồ: Quy trình áp dụng phương pháp giảng dạy dựa trên BĐTD ........................ 52
Biểu đồ 1: Mức độ tập trung trong 60 phút học...................................................... 19
Biểu đồ 2a: Hiệu quả học tập - foundationcoalition .................................................. 19
Biểu đồ 2b: Hiệu quả học tập - EdgarDale ............................................................... 20
Biểu đồ 2c: Hiệu quả học tập - Daniel Sousa, Stice và một số người khác ................. 20
Biểu đồ 3: Hiệu quả của chương trình đào tạo mang tính tương tác so với chương
trình không tương tác - Nacy Tobler ...................................................................... 21

3


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI


BĐTD

Bản đồ tư duy

NCKH

Nghiên cứu khoa học

PPDH

Phương pháp dạy học

PPGD

Phương pháp giảng dạy

TCNH

Tài chính - Ngân hàng

4


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ nhiều năm nay, Việt Nam thường xuyên có những hội thảo về đổi mới

phương pháp giảng dạytrong các trường học. Một trong số các phương pháp áp dụng
vào hệ thống trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông một cách hiệu quả
là phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy. Tuy nhiên, đối với bậc học đại học,
phương pháp giảng dạy hiệu quả này chưa thấy được áp dụng rộng rãi.
Khoa Tài chính - Ngân hàng là một trong số các đơn vị mong muốn thực sự được
đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng các phương pháp giảng dạy đại học hiện
nay là tập trung vào kỹ năng tư duy phân tích, dạy cho người học cách hiểu các khái
niệm, thảo luận theo phương pháp định sẵn, loại bỏ những hướng đi không đúng, tìm
ra câu trả lời đúng nhất. Trong các ứng dụng đó, việc ứng dụng phương pháp giảng
dạy dựa trên bản đồ tư duy là một trong số các ứng dụng để tăng hiệu quả trong việc
giảng dạy của giảng viên và học tập của sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
Phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy được các nhà nghiên cứu, các
giáo viên nghiên cứu,trong đó có tài liệu tập huấn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các
Sở giáo dục và đào tạo triển khai và áp dụng rộng rãi tại các cấp bậc đào tạo: mầm
non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông thông qua các sách dịch: Bản đồ
tư duy trong công việc;lập bản đồ tư duy, qua các phim tài liệu: Bản đồ tư duy - Hành
trình kết nối và các tài liệu tập huấn khác.
Nhiều công trình nghiên cứu áp dụng phương pháp này ở nhiều lĩnh vực khác
nhau từ hoạch định kếhoạch tương lai, quản lý đến việc áp dụng tại các trường học
một cách chung nhất về tác dụng và phần mềm sử dụng để tạo ra bản đồ tư duy, các
ấn phẩm sách đọc: Mind maps at work; How to mind map của Tony Buzan, các phần
mềm sử dụng để tạo ra bản đồ tư duy: Imindmap, Freemind.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích về phương pháp giảng dạy dựa trên
bản đồ tư duy đã đượctrình bày trong đề tài:"Xây dựng phương pháp giảng dạy dựa
trên bản đồ tư duy ứng dụng cho một số môn chuyên ngành của khoa Tài chính Ngân
hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội”, áp dụng thử phương pháp này để có cơ sở đánh giá
5



Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

hiệu quả về phương pháp đối với việc giảng dạy tại khoa Tài chính - Ngân hàng, đề
xuất áp dụng phương pháp này nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu lý luận cơ bản về việc lựa chọn ứng dụng phương pháp
giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy và thực tế triển khai ứng dụng cho việc giảng dạy
một môn chuyên ngành của khoa TCNH, Viện Đại học Mở Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát thực tế.
- Phương pháp định tính và định lượng.
- Phương pháp tiếp cận quy trình, công nghệ.
- Phương pháp phân tích tổng hợp thống kê
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận cơ bản về việc lựa chọn ứng dụng phương pháp giảng dạy
dựa trên bản đồ tư duy vào thực tế
Chương II: Triển khai áp dụng phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy
tại khoa Tài chính - Ngân hàng
Chương III: Tổng kết, đánh giá và đề xuất quy trình ứng dụng triển khai phương
pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy vào một số môn chuyên
ngành tại khoa Tài chính - Ngân hàng.

6


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội


PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC LỰA
CHỌN PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY DỰA TRÊN BẢN ĐỒ TƯ DUY
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Phương pháp giảng dạy truyền thống và yêu cầu đổi mới trong thời kỳ mới
Quan niệm “học là quá trình biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách
thu nhập và xử lý thông tin lấy từ môi trường xung quanh”. Đây là việc giúp cho
người học tự mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc biến đổi
những tình cảm thái độ”. Các quan niệm về dạy và học đó phù hợp với triết lý hướng
về người học của học chế tín chỉ. Do đó phương pháp dạy và học phải bảo đảm thực
hiện tốt cả phần nổi lẫn phần chìm của khối lượng lao động học tập.
Phương pháp giảng dạy (PPGD) truyền thống là phương pháp mà trong đó chủ
yếu là thầy nói - trò nghe. Ngay tận thập niên 1990, phương pháp này vẫn đang chi
phối mạnh ở các trường cao đẳng và đại học, kể cả ở Hoa Kỳ1. Sinh viên thường phải
ngồi nghe liên tục trong một khoảng thời gian dài và học tập theo cách mà Freire gọi
là “giáo dục kiểu ngân hàng” 2. Trong phương pháp này, giảng viên dạy và sinh viên
được dạy; giảng viên biết mọi thứ và sinh viên không biết gì; giảng viên suy nghĩ và
sinh viên buộc phải nghĩ theo cách của giảng viên; giảng viên nói và sinh viên lắng
nghe; giảng viên quyết định (chọn lựa) và sinh viên phải làm theo. Nhìn chung, giảng
viên là chủ thể còn sinh viên là khách thể của quá trình dạy - học. Giảng viên quan
tâm trước hết đến việc truyền đạt kiến thức, hướng đến mục tiêu làm cho sinh viên
hiểu và ghi nhớ kiến thức. Phương pháp này ít quan tâm đến việc phát triển tư duy,
huấn luyện kỹ năng và rèn luyện thái độ cho người học. Nó dẫn đến tình trạng hầu
hết sinh viên học tập thụ động, ra trường không đáp ứng tốt yêu cầu công việc.

1

Charles C. Bonwell and James A. Eison – 1991


Trong phương pháp “giáo dục kiểu ngân hàng”, thay vì truyền thông thì giảng viên lại đưa
ra những thông cáo và tạo thành những khoản gửi (như một tài khoản séc tại ngân hàng) để
rồi sinh viên nhẫn nại tiếp nhận, ghi nhớ, và lập lại – Preire – 1970

2

7


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

Chickering và Gamson (1987) cho rằng để học tốt thì người học cần phải làm
nhiều việc hơn là chỉ nghe một cách thụ động, cụ thể là phải đọc, viết, thảo luận,
hoặc tham gia giải quyết vấn đề. Tương tự như vậy, khi nghiên cứu tất cả các cấp độ
học, Freire thấy rằng sinh viên học và giữ lại kiến thức nhiều hơn khi họ đóng vai trò
thực sự trong quá trình và có cơ hội để nói, chia sẻ, tương tác, phản hồi,… Theo John
Goodland, việc học tập mang tính hàn lâm là quá trừu tượng đối với hầu hết sinh
viên, nên muốn học tốt thì sinh viên cần được “thấy, sờ, và ngửi” cái mà họ đọc và
viết. Còn Victor Weisskop thì cho rằng con người không thể học được bằng cách
mang thông tin đẩy vào não họ, do đó chúng ta chỉ có thể dạy bằng cách duy nhất là
tạo ra động lực hiểu biết.
Những thông tin trên đây một mặt cho thấy sự hạn chế của phương pháp dạy
học (PPGD) truyền thống; mặt khác đặt ra nhu cầu bức xúc phải chuyển đổi sang
phương pháp mới, lôi cuốn sinh viên gia nhiều hơn trong quá trình dạy-học. Những
phương pháp mới đó, chúng ta tạm gọi là các PPGD tích cực.
Trong giai đoạn đổi mới giáo dục Đại học ở nước ta hiện nay nội dung phương
pháp dạy và học có những biến đổi lớn. Nội dung bao quát là dạy cách học, phẩm
chất cần phát huy mạnh mẽ là tính chủ động của người học, biện pháp cần khai thác
triệt để là công nghệ thông tin và truyền thông mới. Nói cách khác, PPGD trong thời

kỳ mới phải đáp ứng mục tiêu, nội dung phương pháp dạy và học sau đây:
Về mục tiêu và nội dung dạy và học ở đại học
- Trong thời kỳ đổi mới quá trình đào tạo ở các trường đại học nước ta phải cho ra
sản phẩm như thế nào?
Bối cảnh quốc tế đã nêu trên làm cho triết lý về giáo dục cho thế kỷ XXI có
những biến đổi sâu sắc, đó là lấy “ học thường xuyên suốt đời” làm nền móng, dựa
trên các mục tiêu tổng quát, 4 trụ cột của việc học, là “ học để biết, học để làm,
học để cùng sống với nhau và học để làm người”, nhằm hướng tới xây dựng một
“xã hội học tập”.
Sản phẩm đào tạo của GDĐH nước ta sẽ hoạt động trong một nền kinh tế thị
trường có tính quốc tế, và trong một khung cảnh hội nhập về văn hóa, giáo
dục…Đặc điểm quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh, đó là
động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Như vậy sản phẩm đào tạo của GDĐH
8


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

nước ta phải vừa biết sống hòa hợp với cộng đồng dân tộc và quốc tế, vừa có năng
lực cạnh tranh để tự khẳng định và phát triển. Đó là những đòi hỏi quan trọng của
thời kỳ mới đối với sản phẩm đào tạo đại học, cũng là những thách thức mới chưa
bao giờ thể hiện rõ ở giai đoạn trước đây của GDĐH nước ta.
- Trong bối cảnh mới của thời đại và xuất phát từ các triết lý mới về giáo dục,
chúng ta hãy xác định mục tiêu đào tạo đối với sinh viên đại học nước ta.
Hội nghị GDĐH trong thế kỷ tại Paris tháng 10/1998 đã đề ra những yêu cầu
mới về năng lực của sinh viên tốt nghiệp. Sau 5 năm triển khai các hoạt động
GDĐH trên thế giới theo khuyến cáo của Hội nghị Paris, trong Báo cáo tổng hợp
của UNESCO năm 2003 có phân tích rõ những thay đổi mạnh mẽ về bản chất và
nhu cầu của thế giới việc làm, và trình bày khái quát các tiềm năng mà trường đại

học cần tạo cho sinh viên sao cho họ có thể đương đầu với những đòi hỏi của xã hội
tri thức. Đó là:
i) Các tiềm năng để học tập, nghiên cứu [academic capacities] (dựa trên việc
đào tạo chuyên môn, nhưng còn bao gồm tư duy phê phán, giải quyết vấn đề, có
năng lực đổi mới tư duy [un-learn] và học lại [re-learn] trong suốt cuộc đời);
ii) Các kỹ năng phát triển cá nhân gắn kết với xã hội (tự tin, quyết tâm cao, tôn
trọng các giá trị đạo đức, hiểu biết rộng về xã hội và thế giới );
iii) Các kỹ năng sáng nghiệp [entrepreneurial skill] (các tiềm năng đáp ứng cả
việc lãnh đạo và làm việc đồng đội, làm chủ công nghệ thông tin truyền thông và
các công nghệ khác..v.v..)
Trên đây là những tiềm năng cần rèn luyện được để đáp ứng với đòi hỏi của
thế giới việc làm trong thời kỳ mới, nhưng chúng không chỉ phản ánh mục tiêu học
để làm trong 4 trụ cột, mà còn phản ánh cả 3 mục tiêu này của việc học.Trên cơ sở
các yêu cầu khái quát đối với sản phẩm đào tạo đại học mà UNESCO đã tổng kết, có
thể cụ thể hóa mục tiêu đào tạo mới đối với sinh viên đại học nước ta và làm sáng tỏ hơn
những khiếm khuyết cả về mặt quan niệm và hành động thực tế của đại học nước ta:
Một là, trước hết có thể thấy rằng các trường đại học nước ta vốn thường lưu ý
đến việc trang bị nhóm tiềm năng thứ nhất cho sinh viên mà không chú ý đúng mức đến
hai nhóm tiềm năng sau. Ngay trong nhóm tiềm năng thứ nhất, cách dạy và học hiện tại
ở nước ta thường cũng chỉ mới phát triển được các năng lực nhận thức cấp thấp, nhận
9


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

biết (knowledge) và thông hiểu (comprehention), chưa tập trung đúng mức đến việc phát
triển óc phê phán, khả năng giải quyết vấn đề. Ngoài ra, sự phát triển thông tin và tri
thức cực kỳ nhanh chóng, vòng đời của các loại công nghệ rất ngắn ngủi của thời đại
kinh tế tri thức còn đòi hỏi phải nhấn mạnh ở đây khả năng đổi mới tư duy, xóa những

nếp nghĩ sai trái đã học được trước đây thay thế bằng những tư duy nới (un-learn ) và
luôn luôn bổ sung, cập nhận kiến thức mới (re-learn). Tất cả tiềm năng để học tập đã nêu
mà sinh viên rèn luyện được trong thời gian học đại học sẽ giúp cho việc học tập trong
suốt cuộc đời họ, còn tri thức mà họ thu nhận được chỉ có thể sự dụng trong một thời
gian ngắn. Từ đó có thể thấy rõ cách học quan trong hơn nhiều so với kiến thức. Hơn
nữa, cần lưu ý thêm là họ biết cách học chưa đủ, mà họ phải tự tạo nên được thói
quen và niềm say mê học suốt đời, tức là bản thân nhóm năng thứ nhất liên quan đến
cả tri thức cũng như thái độ mà sinh viên đạt đươc trong quá trình học tập.
Hai là, nhóm tiềm năng thứ hai liên quan nhiều đến tính nhân văn của sản
phẩm đào tạo; sản phẩm phải là những công dân – tri thức của đất nước, có phẩm
chất và trách nhiệm công dân, có hiểu biết và tầm nhìn rộng đối với xã hội và thế
giới. Ở nước ta trong giai đoạn hiện tại trách nhiệm công dân này biểu hiện ở sự
quyết tâm đóng góp vào việc đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu,
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, “ sánh vai
cường quốc năm châu”. Trong quá trình đổi mới GDĐH ở nước ta từ thập niên 1990
đã có quy định về nội dung đào tạo ở cấp bậc đại học bao gồm hai mảng kiến thức :
mảng kiến thức giáo dục đại cương và mảng kiến thức giáo dục chuyên nghiệp.
Ba là, nhóm tiềm năng thứ 3 thể hiện rõ yêu cầu đối với một người hoạt động
trong một nền kinh tế thị trường, cần các kỹ năng để khẳng định mình, để tồn tại,
đồng thời để canh trạnh nhằm phát triển. Cần hết sức lưu ý đến kỹ năng làm việc
đồng đội và kỹ năng lãnh đạo, tức là khả năng thuyết phục đồng đội làm việc theo đề
xuất của mình, khả năng hòa mình với đồng đội trong công việc. Với các kỹ năng
này sản phẩm đào tạo sẽ có nhiều thuận lợi khi tìm cho mình một việc làm thích hợp,
lập nghiệp, cũng như khi tạo ra việc làm mới cho mình và cho nhiều người khác,
tức là sáng nghiệp.

10


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số

môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

Về phương pháp dạy và học ở đại học
- Phù hợp với yêu cầu về mục tiêu và nội dung dạy và học đại học vừa phân tích
trên, yêu cầu về phương pháp dạy học (PPGD) trong giai đoạn mới của GDĐH
nước ta là gì?
Để trả lời câu hỏi này, cần phân tích sâu thêm về điều kiện công nghệ và
phương tiện dạy học hiện nay. Nhân loại đã từng sử dụng công nghệ và phương
tiện vào việc dạy và học từ xa xưa, nhưng chưa bao giờ khoa học và công nghệ có
những bước tiến phi thường như ngày nay. Ở đây chỉ giới hạn nói về lĩnh vực công
nghệ thông tin truyền thông, đặc biệt là công nghệ thông tin truyền thông mới ( gọi
công nghệ thông tin truyền thông khi có tính đến mạng Internet), công nghệ phát
triển nhanh nhất, tạo nên những thành tựu bất ngờ nhất, và trực tiếp khai sinh nền
kinh tế tri thức.Với công nghệ thông tin truyền thông mới, một cuộc cách mạng
giáo dục thật sự đang và sẽ xảy ra đối với nhân loại.
Người ta thường nêu ra 3 định luật mô tả tốc độ phát triển và hiệu quả của
công nghệ thông tin truyền thông mới: định luật Moore phát biểu rằng công suất
của máy tính điện tử cứ tăng gấp đôi trong khoảng 18 tháng; định luật về dải
truyền (bandwidth)khẳng định rằng dung năng truyền thông (bandwidth
communication capacity) tăng gấp đôi trong vòng cỡ 12 tháng; định luật
Metcalf cho biết giá trị của một máy tính tăng tỉ lệ với bình phương số máy tính
đươc nối trong mạng. Chính do đặc điểm của công nghệ thông tin truyền thông
mới và tốc độ tăng trưởng của nó mà công nghệ đó tác động to lớn và toàn diện
đến xã hội loài người, và hiển nhiên cũng tác động mạnh mẽ trưc tiếp đến giáo
dục. Trong tình huống đó, không có cách nào khác là chỉ trang bị kiến thức nền
tảng, kỹ năng cơ bản và dạy cách học cho sinh viên, tạo cho họ khả năng, thói quen
và niềm say mê học tập suốt đời.
-

Với yêu cầu vừa nêu trên về nội dung và phương pháp dạy và học ở đại học nước

ta ngày nay, cần lựa chọn phương pháp nào để dạy và học?
Phương pháp dạy và học thường có rất nhiều và rất đa dạng. Tuy nhiên, PPGD
được coi là tích cực hiện nay phải hướng đến 3 tiêu chí sau đây:

11


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

Một là, trước hết cần quan niệm việc DẠY CÁCH HỌC, HỌC CÁCH HỌC để
tạo thói quen, niềm say mê và khả năng học suốt đời là tiêu chí bao quát nhất của
việc dạy và học ở đại học. Mọi phương pháp dạy, phương pháp học, nội dung cần
dạy, nội dung cần học đều phải xuất phát từ đó.
Hai là, tính CHỦ ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC là tiêu chí về phẩm chất quan
trọng cần tập trung phát huy khi dạy và học ở đại học. Trong những năm gần đây
các nhà sư phạm trên thế giới và ở nước ta thường bàn đến các quan điểm sư
phạm. các cách tiếp cận trong việc dạy và học. Cách tiếp cận lấy người học làm
trung tâm hoặc hướng vào người học được nhiều người tán thưởng. Khi nói đến
quan điểm lấy người học làm trung tâm nguyên tắc quan trọng nhất là phát huy
tính chủ động của người học.Người thầy trong quan niệm này ở vị trí ẩn, tác động
bằng cách giúp người học chọn nhập và xử lý thông tin.
Khi nói về phương pháp sư phạm tương tác, người ta thường nêu 3 tác nhân mà
phương pháp đó quan tâm: người học, người dạy và môi trường. Họ nhấn mạnh:
người học là người đi học chứ không phải là người được dạy (tính tự nguyện và
chủ động), nhiệm vụ của người dạy là giúp đỡ người học, phục vụ người học để
làm nảy sinh tri thức ở người học, còn môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh
và bên trong người học là tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến việc dạy và học.
Ngoài ra, so với cách tiếp cận thông tin đã nêu trên, môi trường ở đây chính là nơi
chứa thông tin. Với cách hiểu như vậy quan niệm sư phạm tương tác không mâu

thuẫn với các quan niệm lấy người học làm trung tâm, mà chỉ nhấn mạnh hơn vai
trò của tương tác, tức là cho thấy rõ tính chất động của quá trình dạy và học. Trong
quá trình giảng dạy, bản thân việc tăng sự tương tác cũng thúc đẩy tính chủ động
của người học.
Với các quan niệm dạy và học vừa nêu, có thể mô tả bằng sơ đồ dưới đây mối
quan hệ giữa các yếu tố quan trọng nhất trong quá trình dạy và học: mục tiêu, nội
dung, phương pháp. Nếu coi 3 yếu tố Mục tiêu (MT), Nội dung (ND), Phương pháp
(PP) là 3 đỉnh của một tam giac thì cả ba yếu tố đó có tương quan với nhau và đều
hướng vào cái mục đích chung là người học, “ lấy người học làm trung tâm ” :
Qua những lý giải trên đây, chúng ta có thể thấy sự vận động của nhân tố người
học là rất quan trọng nhất để làm cho hoạt động HỌC thật sự được diễn ra và nâng
12


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

cao hiệu quả của quá trình dạy và học. Đó là lý do vì sao chúng tôi muốn nêu
việc phát huy tính CHỦ ĐỘNG của người học là nguyên tắc quan trọng nhất của
quá trình dạy và học ở đại học.
Ba là, trong thờiđại hiện nay CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN
THÔNG MỚI là tiêu chí về công cụ quan trọng cần triệt để khai thác khi dạy và
học ở đại học.
Sử dụng công nghệ trong dạy và học là chuyện bình thường trước đây, vậy tại
sao ngày nay người ta lại rất nhấn mạnh đến việc sử dụng công nghệ mới? Trước
hết, như đã nêu trước đây, chúng ta đang sống trong thời đại mà khối lượng thông
tin và tri thức tăng nhanh theo hàm mũ, đó là hệ quả của sự tiến bộ nhảy vọt của
công nghệ thông tin truyền thông mới. Trong khung cảnh đó, cũng chính công
nghệ thông tin truyền thông mới có thể giúp con người chọn nhập và xử lý thông
tin nhanh chóng để biến thành tri thức. Ngoài ra, công nghệ mới là một khía cạnh

văn hóa của thế giới mới, và như mọi thứ văn hóa, nó sẽ được tiếp nhận tốt nhất ở
tuổi trẻ, nó giúp cho người học định hướng tư duy và thái độ của mình trong thời
kỳ mới. Từ đó cần qua dạy và học làm cho thế hệ trẻ nhanh chóng làm quen và sử
dụng công nghệ mới một cách đúng đắn, để hình thành phong cách văn hóa mới.
Bản chất của phương pháp giảng dạy tích cực
Thực ra, xét đến cùng thì tất cả các PPGD đều có thể ẩn chứa những hoạt động
mang tính tích cực của nó. Tuy nhiên, để trở thành một phương pháp mà yếu tố tích
cực trở thành nét đặc trưng thì hầu hết các nhà nghiên cứu đều đề cập đến mức độ
tham gia của sinh viên trong quá trình học tập 3. Phải thực sự xem người học là trung
tâm, là chủ thể của hoạt động “học”. Muốn vậy cần phải:
- Đa dạng hóa các PPGD
- Giảm thời lượng thuyết giảng và tăng thời lượng hoạt động của người học
- Tạo sự tương tác cao giữa người dạy và người học, giữa người học với nhau
- Khuyến khích tư duy độc lập và sáng tạo, xóa bỏ lối áp đặt kiến thức theo kiểu
giáo điều
3

Fern et al 1993; McKinney – 2007; Brody – 2009; Charles C. Bonwell and James A. Eison199i; Bonwell, C., and Eison, J., – 1991
13


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

- Hướng đến việc phát triển nhận thức bậc cao cho sinh viên, đó là: phân tích, tổng
hợp, và đánh giá 4
- Chú trọng phát triển kỹ năng và xây dựng thái độ làm việc tích cực cho người học.
Ngược lại, về phía người học, cần phải thay đổi thái độ và phương pháp học
tập, tích cực tham gia vào các hoạt động, chủ động tìm kiếm kiến thức, rèn luyện kỹ
năng cũng như điều chỉnh thái độ trong quá trình làm việc với nhau.

1.1.2 Bản đồ tư duy (BĐTD) và phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy
a. Khái niệm Bản đồ tư duy
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Bản đồ tư duy (Mindmap) là
phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi
nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân
tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy tính,
ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo 1 trình tự nhất định chẳng hạn
như trình tự biến cố xuất hiện của 1 câu truyện) thì não bộ còn có khả năng liên lạc,
liên hệ các dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả năng này của
bộ não”.
Phương pháp này có lẽ đã được nhiều người Việt biết đến nhưng nó chưa được
hệ thống hóa và được nghiên cứu kĩ lưỡng và phổ biến chính thức trong nước mà chỉ
được dùng tản mạn trong giới sinh viên học sinh trước các mùa thi.
Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng giản đồ ý,
tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng thì liên hệ
với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi nhớ và nhìn
nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều biểu thị toàn bộ cấu trúc chi tiết
của một đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của đối tượng, sự
quan hệ hỗ tương giữa các khái niệm (hay ý) có liên quan và cách liên hệ giữa chúng
với nhau bên trong của một vấn đề lớn.

Theo Bloom, có 6 mức độ nhận thức từ thấp đến cao: biết (knowledge), hiểu (comprehension),
áp dụng (application), phân tích (analysis), tổng hợp (synthesis), đánh giá (evaluation). Trong đó,
phân tích, tổng hợp và đánh giá được xem là nhận thức bậc cao.
14
4


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số

môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

Theo Tony Buzan, người đầu tiên tìm hiểu và sáng tạo ra BĐTD thì: “BĐTD
là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý
tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình
ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho các ý chính và
đều được nối với các ý trung tâm. Với phương thức tiến dần từ trung tâm ra xung
quanh, BĐTD khiến tư duy con người cũng phải hoạt động tương tự. Từ đó các ý
tưởng của con người sẽ phát triển”.
Như vậy, có thể đi đến một khái niệm chung nhất về BĐTD là: “BĐTD
(MindMap) là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ
thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng
đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây
là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ
thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh,
các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện”
nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng. Do đó, việc lập BĐTD phát huy được tối
đa khả năng sáng tạo của mỗi người”.
b. Phương pháp giảng dạy dựa trên BĐTD
BĐTD được nghiên cứu ở nhiều nước và được triển khai ở nhiều nước trên thế
giới. Ở Việt Nam, PPGD bằng BĐTD do nhóm tác giả TS. Trần Đình Châu và Nhà
giáo Ưu tú-TS. Đặng Thị Thu Thủy nghiên cứu trên cơ sở tiếp thu phát triển ý tưởng
tiên tiến của quốc tế và kinh nghiệm giáo dục trong nước.
Với đề xuất có cơ sở khoa học của nhóm tác giả trên, phương pháp giáo dục
bằng BĐTD đã từng bước được triển khai, mở rộng tập huấn áp dụng rộng rãi, linh
hoạt trong vài năm gần đây cùng với các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực
khác ở hệ thống gần 10.000 trường THCS trong cả nước và sau đó áp dụng vào bậc
học THCS ở 64 vùng miền. Nhiều Sở, Phòng giáo dục đã có văn bản chỉ đạo chọn
BĐTD là bước “đột phá” về tổ chức hoạt động dạy học, đổi mới công tác quản lý nhà
trường bởi phương pháp này dễ triển khai, rất tiết kiệm mà hiệu quả. Người học học

bài, tự học, ôn tập, hoạt động nhóm sẽ rất hấp dẫn, góp phần giáo dục toàn diện, phát
triển “đa trí tuệ” cho người học. Tuy nhiên, PPGD dựa trên BĐTD chưa được nghiên
cứu và áp dụng rộng rãi ở bậc đại học.
15


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

Trong tài liệu tập huấn của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai tập huấn
PPGD dựa trên BĐTD thông qua các hoạt động dạy và học như sau:
- Để hỗ trợ giảng dạy kiến thức mới:
+ Hoạt động 1: Giáo viên giao nhiệm vụ, gợi ý; người học vẽ BĐTD mô tả kiến thức
+ Hoạt động 2: Người học báo cáo, thuyết minh sản phẩm;
+ Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa, bổ sung; dẫn dắt kiến thức mới
+ Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng 1 BĐTD hoàn chỉnh, hấp dẫn
Sản phẩm: “kiếnthức + hội họa” là thành quả lao động của người học => Tạo
hứng thú học tập.
- Để củng cố kiến thức sau tiết học:
+ Hoạt động 1: Giáo viên giao nhiệm vụ, gợi ý; người học vẽ BĐTD với “từ khóa
+ Hoạt động 2: Người học báo cáo, thuyết minh sản phẩm;
+ Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa, bổ sung; chốt lại
+ Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng 1 BĐTD hoàn chỉnh, hấp dẫn
- Ôn tập, hệ thống hóa kiến thức chương:
+ Hoạt động 1: GV giao nhiệm vụ, gợi ý; người học vẽ BĐTD với “từ khóa chính
+ Hoạt động 2: Người học báo cáo, thuyết minh sản phẩm;
+ Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa, bổ sung; chốt lại
+ Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng 1 BĐTD hoàn chỉnh, hấp dẫn
Với PPGD dựa trên BĐTD, điều quan trọng nhất là người thầy chỉ ra con
đường mà sinh viên sẽ đi, cách đi trên con đường đó, còn người sinh viên có thể đi

trên con đường đó hoặc tìm ra con đường mới trong suốt quá trình học một học phần.
Người thầy đi sâu vào bản chất của các khái niệm ban đầu của từng chương, từng bài,
nhắc lại những kiến thức là nền tảng để hình thành nên những khái niệm đó. Điều này
sẽ làm cho sinh viên định hướng được cái phải phát triển từ những cái đã biết. Người
thầy giúp cho sinh viên hình dung ra những khái niệm ban đầu là gì? Sau đó, chỉ ra
cái đích phải đi tới, cũng như cách đi thông qua những kiến thức cũ và cuối cùng, tự
tìm, tự học để hiểu được vấn đề cốt lõi của học phần.
16


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

PPGD dựa trên BĐTD có thể trình bày kiểu nêu vấn đề, thuật chuyện, mô tả
phân tích,... Trong qúa trình trình bày bài giảng, giảng viên có thể diễn đạt vấn đề
dưới dạng nghi vấn, gợi mở để gây tình huống lôi cuốn sự chú ý của người học thông
qua một tình huống có vấn đề từ một nhánh bất kỳ hoặc là một chủ đề lớn bất kỳ
được xây dựng trên BĐTD. Giảng viên có thể dẫn dắt vấn đề để sinh viên phát huy
trí tưởng tượng của mình, tổng hợp trí tuệ để hiểu hoặc giải quyết tình huống có vấn
đề đó.
Giảng viên có thể thông qua những sự kiện kinh tế - xã hội, những câu chuyện
hoặc tác phẩm văn học, phim ảnh… từ một nhánh của BĐTD hoặc từ một từ khóa
chính trong BĐTD làm tư liệu để phân tích, minh họa, khái quát và rút ra nhận xét,
kết luận nhằm xây dựng biểu tượng, khắc sâu nội dung kiến thức của bài học.
Có thể dùng công thức, sơ đồ, biểu mẫu…làm từ khóa chính để mô tả phân
tích nhằm chỉ ra những đặc điểm, khía cạnh của từng nội dung. Trên cơ sở đó đưa ra
những chứng cứ lôgíc, lập luận chặt chẽ để làm rõ bản chất của vấn đề.
Với BĐTD, giảng viên có thể đưa ra 2 hình ảnh hoặc 2 đồ vật hay 2 tình
huống có vấn đề nào chứa đựng những mặt tương phản, sau đó so sánh, tổng hợp, để
so sánh từng mặt, thuộc tính hoặc quan hệ giữa hai đối tượng đối lập nhau nhằm rút

ra kết luận cho từng tiêu chí so sánh. Với 2 nhánh tương phản trên BĐTD cũng góp
phần làm tăng tính chính xác, rõ ràng và tính thuyết phục của vấn đề.
Hiện nay, bài giảng hiện đại đang có khuynh hướng sử dụng ngày càng nhiều
các phương tiện công nghệ thông tin, làm tăng sức hấp dẫn và hiệu quả. Trước đây,
để minh họa nội dung bài giảng, giảng viên chỉ có thể sử dụng lời nói giàu hình
tượng và gợi cảm kèm theo những cử chỉ, điệu bộ diễn tả nội tâm hoặc có thêm bộ
tranh giáo khoa hỗ trợ. Ngày nay có cả một loạt phương tiện để giảngviên lựa chọn
sử dụng như: máy chiếu, băng ghi âm, băng ghi hình, đĩa CD, phần mềm máy vi
tính... Tiến tới mọi giảng viên phải có khả năng soạn bài giảng trên máy vi tính được
nối mạng, biết sử dụng đầu máy đa năng để thực hiện bài giảng của mình một cách
sinh động, hiệu qủa, phát huy cao nhất tính tích cực học tập của người học. PPGDdựa
trên BĐTD giảng viên cũng có thể dùng máy tính để soạn bài giảng và đưa vào đó
audio, video, hình ảnh, nội dung chữ của một tình huống có vấn đề nào đó để dẫn
dắt sinh viên đến với mức độ tư duy cao hơn hoặc để chứng minh, làm sáng tỏ hoặc
17


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

để sinh viên tận mắt thấy hình ảnh của một vấn đề nào đó giảng viên cần trình
bày.PPGD dựa trên BĐTD sẽ giúp người học sử dụng sức mạnh của não bộ để tư
duy, ghi nhớ. Đặc biệt, khi chúng ta đã tự thiết kế, tự ghi chép bằng giấy và bút
màu thì hiểu sâu hơn vì đã biết chuyển kiến thức từ giáo trình thành cách hiểu của
riêng mình...
1.1.3 Cơ sở của việc lựa chọn phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy
Có thể đưa ra 4 lý do chính để lựa chọn PPGD dựa trên BĐTD trong rất nhiều
các PPGD tích cực hiện nay như sau:
Một là,PPGD dựa trên BĐTDsẽ tạo điều kiện và lôi cuốn người học chủ động
trong học tập. Tính chủ động cao là tiền đề cho sự hình thành khả năng tư duy độc

lập. Tư duy độc lập là mầm móng của sáng tạo.
Hai là,PPGD dựa trênBĐTDgiúp nâng cao hiệu quả học tập nhờ vào việc
giảm thời lượng thuyết giảng.
Thực vậy, công trình nghiên cứu của Russell, Hendricson và Herbert (1984)
chỉ ra rằng: sinh viên học và lưu lại thông tin bài giảng tốt hơn khi mật độ thông tin
cung cấp ở mức thấp (so với mức trung bình và mức cao trong thí nghiệm). Hàm ý
ở đây là lượng thông tin mới mà sinh viên có thể học được trong một khoảng thời
gian là có giới hạn, và chính giảng viên phá vỡ mục đích của mình khi vượt quá
giới hạn đó.
Tiếp theo là công trình nghiên cứu nổi tiếng của Ruhl, Hughes, và Schloss
(1987) đã đi đến một kết luận bất ngờ: nếu giảng viên nói ít thì sinh viên có thể học
được nhiều hơn.Phát hiện này hoàn toàn trái ngược với niềm tin của hầu hết giảng
viên khi cho rằng việc học của sinh viên sẽ tốt hơn nếu giảng viên nói nhiều và cung
cấp nhiều thông tin hơn.

18


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

Biểu đồ 1: Mức độ tập trung trong 60
phút học
Biểu đồ 2a: Hiệu quả học tập - foundationcoalition

Nếu xét về mức độ tập trung chú ý của sinh viên, công trình nghiên cứu của
Wilbert Mc Keachie cho thấy: giảng dạy theo phương pháp tích cực thì độ tập trung
chú ý giữ ở mức cao (75%) suốt 60 phút. Trong khi đó, giảng dạy theo phương pháp
thuyết giảng kiểu truyền thống thì độ tập trung chỉ đạt mức cao (75%) trong vòng 20
phút, sau đó sẽ giảm dần một cách nhanh chóng (biểu đồ 1) Như vậy, với lối giảng

dạy truyền thống, chúng ta đang đi ngược lại mục tiêu của chính mình bởi lẽ giảng
viên nói quá nhiều làm cho sinh viên học được quá ít. Trong những lớp học đông
sinh viên, theo kết quả nghiên cứu của Lewis và Woodward (1984) thì giảng viên nói
đến hơn 88% thời gian trên lớp, sự im lặng chiếm hơn 6%, và thời gian dành cho sinh
viên nói chỉ chiếm hơn 5%. Điều này thuyết phục chúng ta cần phải nhanh chóng
thực hiện PPGD tích cực: giảng viên nói ít hơn và sinh viên làm nhiều hơn.
Ba là,PPGD dựa trên BĐTDsẽ giúp nâng cao hiệu quả tiếp thu kiến thức nhờ
vào sự tương tác và đa dạng hóa các loại hình hoạt động.
- Lưu giữ kiến thức là yếu tố quan trọng của việc học tập. Một số công trình nghiên
cứu 5 về tỷ lệ lưu giữ kiến thức từ các phương pháp học tập đã thu được những kết
quả hết sức ấn tượng về hiệu quả của PPGD tích cực (xem các biểu đồ 2a, 2b, 2c).

5

Foundationcoalition; Edgar Dale, Daniel Sousa, Stice và một số người khác
19


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

Biểu đồ 3b: Hiệu quả học tập - EdgarDale

Biểu đồ 4c: Hiệu quả học tập DanielSousa, Stice và một số người khác

Mặc dù kết quả đưa ra trong 3 biểu đồ có khác biệt chút ít, nhưng ý tưởng
chung mà ta có thể dễ dàng nhận thấy là:
- Với lối học thụ động (nghe giảng, đọc, nhìn), sinh viên học được nhiều nhất là
50% lượng kiến thức. Trong đó, nếu chỉ có lý thuyết giảng suông thì mức độ tiếp
thu kiến thức hết sức thấp. Điều này phần nào giải thích được vì sao PPGD truyền

thống không mang lại hiệu quả cao.
Với PPGD dựa trên BĐTD, nhấn mạnh sự tham gia của sinh viên vào quá
trình dưới nhiều hình thức, lôi cuốn sinh viên chủ động trong học tập, thì kết quả
khác biệt hết sức rõ ràng: có thể đạt được mức độ tiếp thu kiến thức lên đến 90%.
Bốn là,PPGD dựa trên BĐTD giúp xây dựng thái độ và phát triển tốt kỹ năng,
nhất là kỹ năng mềm.
Càng ngày người ta càng nhận ra tầm quan trọng của thái độ và kỹ năng đối
với công việc cũng như đối với sự thành công của mỗi cá nhân, nhất là trong xu thế
phát triển mới của thế kỷ XXI . Theo nhận định của Đại học Michigan, đa số sinh
viên có khuynh hướng nghĩ rằng một mức điểm trung bình cao và một mảnh bằng
trong tay sẽ bảo đảm sự thành công trong nghề nghiệp, nhưng thực tế thì bất cứ ai
trong thế giới công việc đều biết rằng chỉ có kỹ năng và tính cách mới bảo đảm sự
thành công6.

6

USA Today 10/6/2004
20


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

Về kỹ năng, thuật ngữ kỹ năng mềm
(soft skills)7 đang được quan tâm rộng rãi bởi lẽ
nó có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công
nhưng lại không được chú ý trong các chương
trình đào tạo. Trường Đại học sự phạm Harvard
khẳng định tầm quan trọng của kỹ năng mềm
khi họ cho rằng: “Bằng việc chỉ đẩy mạnh kỹ

năng cứng (hard skills), nhiều trường học ngày
Biểu đồ 5: Hiệu quả của chương trình
đào tạo mang tính tương tác so với
chương trình không tương tác - Nacy
Tobler

nay tiếp tục giáo dục trẻ em cho một nền kinh
tế không có lối thoát trong dài hạn” 8.
Trong khi đó, PPGD truyền thống chỉ

cung cấp được kỹ năng cứng, hoàn toàn không quan tâm đến kỹ năng mềm. Ngược lại,
trong PPGD dựa trên BĐTD, nhờ vào các hoạt động mà sinh viên được tham gia, có
thể phát triển rất tốt thái độ cũng như kỹ năng mềm. Biểu đồ 3 là kết quả khảo sát của
Nacy Tobler, cho thấy hiệu quả của các chương trình đào tạo mang tính tương tác cao
(PPGD tích cực): cả kiến thức, tư duy và thái độ trong những chương trình tương tác
đều có sự thay đổi mạnh mẽ so với chương trình không tương tác, nhất là về kỹ năng.
Tóm lạiPPGD dựa trên BĐTD là một trong các PPGD tích cực mang lại hiệu
quả học tập cao hơn rất nhiều so với phương pháp thuyết giảng truyền thống. Giảng
viên nói ít lại, dành nhiều thời gian cho việc lôi cuốn sinh viên vào các hoạt động đa
dạng trong lớp cũng như ngoài lớp học. Về phía sinh viên, chỉ trên cơ sở tham gia,
trải nghiệm, họ mới có thể thực sự thấu hiểu và tạo dựng nhận thức cho chính mình.
Có lẽ vì vậy mà Howard Hendricks đã khẳng định: “tối đa hóa việc học tập luôn luôn
là kết quả của việc tối đa hóa sự lôi cuốn” 9.

7

Theo Jessica Holbrook – 2009, kỹ năng mềm (soft skills) là thuật ngữ dùng để chỉ tính cách
và các kỹ năng của con người mà không dễ đo lường hay lượng hóa được. Các nhà nghiên
cứu đã liệt kê rất nhiều kỹ năng dạng này, chẳng hạn như: làm việc nhóm, truyền thông (nói
và viết), giao tiếp cá nhân, tư duy phản biện, giải quyết vấn đề, và nhiều kỹ năng khác nữa.

8
Teaching the New Basic Skills from Harvard’s Graduate School of Education
The 7 laws of the teacher

9

21


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tổng quan chung về Viện Đại học Mở Hà Nội
a. Khái quát về Viện Đại học Mở Hà Nội
Viện Đại học Mở Hà Nội được thành lập ngày 03/11/1993 theo Quyết định số
535/TTg của Thủ tướng Chính phủ, là một trong những trường đại học công lập hoạt
động trong hệ thống các trường đại học quốc gia do Bộ giáo dục và Đào tạo trực tiếp
quản lý. Viện Đại học Mở Hà Nội là cơ sở đào tạo đại học và nghiên cứu với các loại
hình đào tạo từ xa, đào tạo tại chỗ nhằm đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của xã hội,
góp phần tăng tiềm lực cán bộ khoa học , kỹ thuật cho đất nước. Trường là đơn vị sự
nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
Nhiệm vụ của trường là đào tạo cán bộ có trình độ đại học và sau đại học
phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực và đất nước. Triển khai các đề
tài nghiên cứu khoa học (NCKH), ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao
công nghệ thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của khu vực và đất nước. Trường thực hiện nhiệm vụ quản lý đào tạo, NCKH, tổ
chức cán bộ, cơ sở vật chất và các mặt công tác khác của trường theo quy định của Nhà
nước, Bộ GD&ĐT và sự phân cấp của Viện Đại học Mở Hà Nội; Là đơn vị tự chủ về
mặt tài chính.
Sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển, hiện nay Viện Đại học Mở Hà Nội

đang đào tạo các loại hình cấp bậc sau:
- Đào tạo thạc sỹ 7 chuyên ngành: Kỹ thuật điện tử, Quản trị kinh doanh, Ngôn ngữ
Anh, Công nghệ sinh học, Luật kinh tế, Công nghệ thông tin, Kỹ thuật viễn thông.
- Đạo tạo ĐH chính quy 12 ngành: Quản trị kinh doanh (3 chuyên ngành): QTKD;
QTKD DL; KS; HD DL, Kế toán, Ngôn ngữ Anh, Ngôn ngữ Trung Quốc, Công
nghệ thông tin, Tin học ứng dụng, Công nghệ sinh học, Công nghệ Kỹ thuật Điện
tử-Truyền thông, Kiến trúc, Thiết kế công nghiệp (3 chuyên ngành): Đồ họa; Nội
thất; Thời trang, Tài chính-Ngân hàng, Luật Kinh tế, Luật Quốc tế
- Đào tạo Đại học từ xa 7 ngành: Quản trị kinh doanh, Kế toán, Ngôn ngữ Anh,
Công nghệ thông tin, Công nghệ Kỹ thuật Điện tử-Truyền thông, Tài chính-Ngân
hàng, Luật Kinh tế
22


Ứng dụng triển khai phương pháp giảng dạy dựa trên bản đồ tư duy ứng dụng vào một số
môn chuyên ngành tại khoa Tài chính – Ngân hàng, Viện Đại học Mở Hà Nội

- Đào tạo trực tuyến (E-learning) 5 ngành: QTKD, Kế toán, CNTT; TC-NH và Luật
kinh tế.
- Đào tạo Bằng đại học thứ 2 (3 ngành): Luật Kinh tế, Ngôn ngữ Anh, Kế toán.
-

Hệ VLVH 10 chuyên ngành: Quản trị kinh doanh, Kế toán, Ngôn ngữ Anh, Công
nghệ thông tin, Điện tử viễn thông, Quản trị Du lịch-khách sạn, Thiết kế Nội thất,
Thiết kế Thời trang, Thiết kế Đồ họa, Luật Kinh tế.

- Đào tạo Liên thông và Hoàn chỉnh kiến thức 6 ngành: Quản trị kinh doanh, Kế
toán, Công nghệ thông tin, Điện tử viễn thông, Ngôn ngữ Anh, Công nghệ sinh học.
- Đào tạo song bằng (3 ngành): Quản trị kinh doanh, Kế toán, Ngôn ngữ Anh.
- Đào tạo cấp chứng chỉ hướng dẫn viên Du lịch, Kế toán trưởng…

Trong những giai đoạn tiếp theo Viện Đại học Mở Hà Nội vẫn tiếp tục thực
hiện loại hình đào tạo đa dạng, tăng cao quy mô loại hình đào tạo từ xa, mở thêm các
ngành học theo yêu cầu của xã hội. Chú trọng chất lượng đào tạo song song với việc
mở rộng quy mô, thực hiện nghiêm túc các quy chế, chủ trương của Bộ giáo dục và
Đào tạo về đào tạo. Cải tiến nội dung chương trình đào tạo, công nghệ đào tạo, đặc
biệt là đào tạo từ xa nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Đổi mới công nghệ
đào tạo theo hướng ứng dụng công nghệ truyền thông- tin học cho tất cả các loại hình
đào tạo. Phát triển đào tạo từ xa, công nghệ đào tạo từ xa tạo ra nét đặc thù của Viện
Đại học Mở Hà Nội. Mở rộng hợp tác với các trường đại học trong khu vực và quốc
tế thực hiện các Chương trình Hợp tác Đào tạo Quốc tế nhằm đẩy mạnh giao lưu, tiếp
thu và nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao vị thế của Đại học Mở Hà Nội. Phát
triển mối quan hệ truyền thống với các trường Đại học Mở trong khu vực với nhiều
hình thức hợp tác: trao đổi thông tin, nghiên cứu khoa học, tổ chức seminar, hội nghị,
hội thảo, dự án,… Phát huy vai trò của Đại học Mở Hà Nội trong Hiệp hội các trường
Đại học Mở châu Á(AAOU).
Viện Đại học Mở Hà Nội hiện nay đã đổi mới phương pháp giảng dạy đó là
chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ. Việc đổi mới này không phải do yêu cầu
của học chế tín chỉ mà xuất phát từ triết lý, chuẩn mực mới của nền giáo dục hiện đại
nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội là “Đào tạo ra người lao động chất lượng cao, có tính
tự chủ, năng động và tinh thần sáng tạo”. Năm 2011, Viện đã chọn hai khoa (Công
nghệ thông tin và Du lịch) làm thí điểm trước khi đào tạo theo học chế tín chỉ áp
23


×