Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội từ thực tiễn quận hoàn kiếm thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀN KIẾM - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

NGUYỄN QUANG THẮNG

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỪ
THỰC TIỄN QUẬN HOÀN KIẾM - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

NGUYỄN QUANG THẮNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Đào Thị Hằng

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
- Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chƣa đƣợc sử dụng để bảo vệ trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
- Các tài liệu đƣợc trích dẫn trong luận văn đều đƣợc chỉ rõ nguồn gốc
- Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nguồn gốc, số liệu, thông tin đƣợc sử
dụng trong luận văn./.
Tác giả luận văn

Nguyễn Quang Thắng


LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo Trƣờng Đại học Mở Hà Nội bạn
bè đồng nghiệp, gia đình đã giúp đỡ em trong qua trình làm luận văn.
Đặc biệt em xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo PGS.TS. Đào
Thị Hằng đã tận tình giúp đỡ và trực tiếp hƣớng dẫn em nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, song do khả năng và
kinh nghiệm của bản thân có hạn, nên luận văn không tránh khỏi những tồn tại, hạn
chế và thiếu sót. Vì vậy em rất mong đƣợc nhận đƣợc sự góp ý chân thành của các
thầy giáo, cô giáo, của các đồng nghiệp nhằm bổ sung hoàn thiện trong quá trình
nghiên cứu tiếp theo.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Quang Thắng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ XỬ LÝ VI
PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ........................................................ 7
1.1. Một số vấn đề lý luận về xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội...................7
1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội và các yếu tố cấu thành ....7
1.1.2. Phân loại vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội ..............................................13
1.1.3. Khái niệm và sự cần thiết phải xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội ..13
1.1.4. Các nguyên tắc xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội ............................ 15
1.2. Quy định pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội ....16
1.2.1. Quy định về các hành vi vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội và hậu quả
pháp lý ....................................................................................................................... 16
1.2.2. Quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội.................25
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 29
Chƣơng 2: THỰC TIỄN XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ
HỘI TẠI QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................30
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà
Nội ............................................................................................................................. 30
2.1.1. Vị trí địa lý, dân cư ......................................................................................... 30
2.1.2. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ............................................................... 30
2.2. Kết quả xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội tại quận Hoàn Kiếm ....32
2.2.1. Thực tiễn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội trên địa bàn
quận Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội .......................................................................32
2.2.2. Hoạt động xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội trên địa bàn quận
Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội .................................................................................42
2.3. Nhận xét, đánh giá thực tiễn xử lý phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội tại
quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội .....................................................................44
2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân .....................................................45


2.3.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân ...................................................... 46

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 53
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ HẠN
CHẾ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI QUẬN HOÀN
KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................................54
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật bảo
hiểm xã hội ...............................................................................................................54
3.2. Một số kiến nghị nhằm hạn chế vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội tại
quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội .....................................................................58
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.......................................................................................... 64
KẾT LUẬN ...............................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................67


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
ASXH An sinh xã hội
VPPL Vi phạm pháp luật
NLĐ Ngƣời lao động
NSDLĐ Ngƣời sử dụng lao động


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1.: Tổng hợp số liệu lao động tại các đơn vị sử dụng lao động từ năm 2014
– 2018 ........................................................................................................................ 33
Bảng 2.2. Thống kê số tiền nợ đọng BHXH trong giai đoạn 2014-2018 .................36
2.2.2. Hoạt động xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội trên địa bàn quận
Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội ...................................................................................42
Bảng 2.3: Số liệu tổng hợp các đơn vị vi phạm và số tiền thu hồi các năm từ 2016 –
2018 ........................................................................................................................... 42



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển ASXH nhằm đảm bảo cho đời sống NLĐ, trong đó BHXH là
chính sách quan trọng hàng đầu trong hệ thống ASXH ở nƣớc ta, đóng góp to lớn
vào sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế bền vững của quốc gia. Khi
đánh giá tốc độ phát triển của một quốc gia, một trong những tiêu chí đánh giá
chính là hệ thống ASXH mà trong đó BHXH giữ vai trò nòng cốt. Nhận thức đƣợc
vai trò của BHXH, Đảng và Nhà nƣớc ta rất chú trọng đến việc xây dựng, từng
bƣớc hoàn thiện hệ thống, cơ sở pháp lý về chế độ BHXH. Nhà nƣớc đã ban hành
Bộ Luật lao động, Luật BHXH…và các văn bản hƣớng dẫn thi hành. Các quy định
về BHXH đã và đang giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi của NLĐ
khi tham gia BHXH, pháp luật về BHXH bƣớc đầu đã tạo lập đƣợc hành lang pháp
lý với vai trò điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực BHXH, góp phần xây dựng hệ
thống ASXH của Nhà nƣớc, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của NLĐ tham gia BHXH
góp phần thúc đẩy chính sách ASXH của Nhà nƣớc ta ngày càng phát triển.
Cùng với sự hình thành phát triển của nền kinh tế thị trƣờng thì đồng thời
hình thành các quan hệ mà pháp luật BHXH cần điều chỉnh. Trong những năm gần
đây, tình trạng vi phạm pháp luật BHXH có chiều hƣớng gia tăng, ảnh hƣởng không
nhỏ đến quyền lợi của NLĐ. Một vấn đề nổi cộm vi phạm pháp luật về BHXH là
trình trạng chậm đóng, nợ đọng BHXH cho NLĐ ngày càng gia tăng với số tiền lớn
xảy ra ở hầu hết địa phƣơng trên cả nƣớc. Nghiêm trọng hơn có nhiều đơn vị nợ
đóng BHXH cho NLĐ trong thời gian dài, nhiều trƣờng hợp doanh nghiệp chiếm
dụng tiền đóng BHXH của NLĐ, làm ảnh hƣởng đến các chế độ BHXH kịp thời.
Việc gian lận, trục lợi trong lĩnh vực BHXH có tính chất tƣơng đối phổ biến, không
chỉ ảnh hƣởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích chính đáng của NLĐ, ngƣời tham
gia mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sự ổn định và phát triển của
chính sách ASXH, ảnh hƣởng đến chính sách thu hút đầu tƣ để phát triển kinh tế
của Đảng và Nhà nƣớc. Hơn nữa, trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công


1


nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập thì việc bảo đảm sự ổn định
và phát triển của chính sách ASXH, bảo vệ lực lƣợng lao động trong xã hội là một yêu
cầu tất yếu. Vì vậy, ngày 20/6/2017, Quốc hội thông qua Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 01/01/2018. Một trong số những nội dung quan trọng đƣợc bổ sung là nhóm tội
phạm trong lĩnh vực BHXH đã bổ sung thêm 4 tội danh liên quan đến lĩnh vực này, đó là
tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213); tội gian lận BHXH, BHTN (Điều
214); tội gian lận bảo hiểm y tế (BHYT) (Điều 215) và tội trốn đóng BHXH, BHYT,
BHTN cho NLĐ (Điều 216).
Dù vậy, việc gia tăng các hành vi vi phạm pháp luật BHXH của các chủ thể
trên cả nƣớc vẫn không tránh khỏi, trong đó, Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
cũng không là ngoại lệ. Những hành vi vi phạm pháp luật BHXH đã và đang diễn ra
và trở thành điểm nóng tại quận Hoàn Kiếm, làm ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích
của NLĐ tham gia BHXH. Điều này đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu cụ thể để
có biện pháp xử lý phù hợp nhằm hạn chế các hành vi vi phạm. Từ cơ sở đó, tác giả
lựa chọn đề tài: “Xử lý vi phạm pháp luật về BHXH từ thực tiễn quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội” để làm luận văn thạc sĩ luật học nhằm nghiên cứu và góp
phần hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật BHXH cũng nhƣ nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về BHXH tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo hiểm xã hội là vấn đề đƣợc Đảng, Nhà nƣớc luôn quan tâm nhằm
đảm bảo quyền lợi cho NLĐ khi tham gia BHXH. Với mục đích chính là sự bù
đắp thu nhập cho NLĐ khi họ bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, nghỉ hƣu…do vậy BHXH đã và đang là vấn đề đƣợc nghiên cứu rộng rãi
với nhiều cách thức tiếp cận khác nhau nhằm đánh giá đƣợc những ƣu điểm mà
BHXH mang lại cho NLĐ, đồng thời qua phân tích những quy định BHXH để

thấy đƣợc những mặt còn tồn tại, những bất cập trong thực tiễn thực hiện Luật
BHXH.

2


Trong thời gian gần đây, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và những
ngƣời quan tâm đến BHXH đã có nhiều bài viết, công trình khoa học nhằm đóng
góp ý kiến xây dựng hệ thống BHXH ở nƣớc ta, trong đó trực tiếp hoặc gián tiếp đề
cập đến vấn đề xử lý vi phạm pháp luật về BHXH:
Thứ nhất, các bài báo, sách, công trình, đề tài nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến BHXH nói chung nhƣ:
“Những vấn đề lớn của BHXH” (Bài viết năm 2010), tác giả Phạm Nhẫn,
Tạp chí Công sản; Bài viết nêu lên các nội dung cơ bản của BHXH và những giải
pháp đẩy mạnh hoạt động BHXH;
“Đánh giá thực trạng tham gia BHXH - Kiến nghị và đề xuất” (Đề tài cấp
Bộ, năm 2014), Trần Đình Liệu, Phó TGĐ BHXH Việt Nam; Đề tài tập trung phân
tích thực trạng tham gia BHXH gồm BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện, từ đó
đƣa ra các kiến nghị và đề xuất nhằm hoàn thiện các giải pháp mở rộng đối tƣợng
tham gia BHXH, đảm bảo lộ trình bao phủ BHXH theo chỉ tiêu đƣợc giao, trong đó
đánh giá một số vấn đề về thực trạng trốn đóng BHXH của NSDLĐ trên địa bàn cả
nƣớc, thông qua đó tác giả có đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những vi
phạm này;
Đề tài khoa học cấp Bộ (2013): Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý
thu bảo hiểm xã hội, Chủ nhiệm Tiến sĩ Dƣơng Xuân Triệu, cấp Bộ LĐ-TBXH,
trong đề tài này nhóm tác giả đã xây dựng cơ sở lý luận về quy trình quản lý thu bảo
hiểm xã hội, trong đó có đề cập đến hoạt động quản lý nhà nƣớc về xử lý vi phạm
pháp luật trong đóng bảo hiểm xã hội.
Bài viết Lê Quang Thắng (2018), Bình luận tội trốn đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo BLHS năm 2015, Tạp

chí Kiểm sát số 9/2018. Trong bài viết này tác giả tập trung phân tích về tội vi phạm
quy định về trốn đóng bảo hiểm xã hội, đây là nội dung quan trọng trong việc xử lý
vi phạm về đóng bảo hiểm ở mức độ hình sự;
- Bài viết của tác giả Phan Tiến Anh (2016), Nhận diện một số thủ đoạn thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội và biện pháp phòng

3


ngừa, Tạp chí kiểm sát số 6, đây là bài viết phân tích về những thủ đoạn, phƣơng
thức vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng bảo hiểm xã hội.
Thứ hai, các luận văn, luận án nghiên cứu về hoạt động xử lý VPPL trong
lĩnh vực BHXH có thể kể đến nhƣ:
Phạm Đức Cƣờng (2012), “Tăng cƣờng các giải pháp xử lý nợ đọng, trốn
đóng BHXH”, Tạp chí BHXH, (9A), tr16-18; Vũ Ngọc Lân (2012), “Nợ BHXH
dƣới góc nhìn từ “cái gốc””, Tạp chí BHXH, (9B), tr 30-31; Nguyễn Văn Dụng
(2013), “Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra vi phạm pháp luật về BHXH”,
Tạp chí BHXH, (1A), tr 24-26.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã đề cập về các nội dung cụ thể
của Luật BHXH nhƣ:
Một là, nghiên cứu những quy định pháp luật về BHXH, thực trạng pháp luật
về BHXH nói chung.
Hai là, nghiên cứu về phần các chế độ chính sách các chế độ ngắn hạn nhƣ:
ốm đau, thai sản, dƣỡng sức phục hồi sức khỏe…
Ba là, nghiên cứu về chế độ, chính sách các chế độ dài hạn: chế độ hƣu trí,
chế độ tử tuất.
Bốn là, nghiên cứu về phần thu BHXH ví dụ nhƣ: tình trạng nợ đọng BHXH
đã và đang gây nhiều bức xúc trong dƣ luận, làm giảm sự tin tƣởng của NLĐ đối
với BHXH, chính sách ASXH của Nhà nƣớc.
Nhƣ vậy, các công trình nghiên cứu về xử lý vi phạm pháp luật về BHXH

mới chỉ dừng lại ở mức độ khá khiêm tốn so với các lĩnh vực khác. Việc nghiên
cứu, phân tích, đánh giá những vi phạm pháp luật về BHXH qua đó làm rõ những
ƣu điểm, nhƣợc điểm và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật trong xử lý vi phạm
pháp luật về BHXH là thực sự cần thiết.
Thực tiễn thực hiện các quy định của Luật BHXH trên địa bàn quận Hoàn Kiếm và
thành phố Hà Nội cho thấy, các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH có xu hƣớng tăng về
số lƣợng và mức độ vi phạm. Dựa trên những cơ sở đó, ngƣời viết lựa chọn đề tài “Xử lý
vi phạm pháp luật về BHXH từ thực tiễn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội” làm

4


luận văn với suy nghĩ có thể tìm hiểu rõ hơn về vi phạm pháp luật về BHXH, các vấn đề
pháp lý hiện hành để xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, những vƣớng mắc, bất cập trong
các quy định pháp luật, đồng thời đƣa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, đƣa ra các kiến nghị có liên quan nhằm
giúp cho việc xử lý vi phạm pháp luật về BHXH trên địa bàn đạt hiệu quả.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài luận văn, học viên hƣớng tới mong muốn làm sáng tỏ lý
luận về xử lý vi phạm pháp luật BHXH và quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này.
Qua đó, nhận xét, phân tích việc áp dụng trên thực tiễn xử lý vi phạm quy định pháp
luật về BHXH ở quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị
nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về BHXH và hạn chế vi phạm pháp luật BHXH ở
quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về xử lý vi phạm pháp luật
BHXH. Phân tích thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật
BHXH.
- Đánh giá thực trạng thực hiện quy định pháp luật về xử lý vi phạm pháp

luật BHXH tại quận Hoàn Kiếm, làm rõ những kết quả đạt đƣợc và những tồn tại
cần khắc phục để đảm bảo BHXH là công cụ hữu hiệu nhất của ASXH ở nƣớc ta
trong thời gian tới.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý vi
phạm pháp luật BHXH; đóng góp những ý kiến nhằm hạn chế vi phạm pháp luật về
BHXH tại quận Hoàn Kiếm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là các quy định pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm pháp luật về BHXH và
thực tiễn xử lý vi phạm pháp luật về BHXH trên quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà
Nội, trên cơ sở các số liệu thực tiễn trên địa bàn quận Hoàn Kiếm.

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào các quy định pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm
pháp luật BHXH nhƣ nghiên cứu các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH và hậu
quả pháp lý đồng thời làm rõ thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, cũng
nhƣ vấn đề khiếu nại, tố cáo trong xử lý hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã
hội…
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin,
quan điểm, đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc về chính sách, pháp luật BHXH ở Việt
Nam. Ngoài ra còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với nội
dung nghiên cứu của đề tài nhƣ: phƣơng pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, phân
tích, đối chiếu…Các phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để xem xét một cách toàn diện
các vấn đề lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ quan

hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện pháp luật về BHXH, đặc biệt là
các cơ quan BHXH, các đơn vị tham gia BHXH. Luận văn cũng có thể đƣợc sử
dụng nhƣ một tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy, nghiên cứu pháp luật,
cũng nhƣ bất cứ ai quan tâm đến vấn đề xử lý vi phạm pháp luật về BHXH.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xử lý vi phạm pháp luật BHXH và quy
định pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm pháp luật BHXH.
Chương 2: Thực tiễn xử lý vi phạm pháp luật BHXH tại quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và hạn chế vi phạm
pháp luật về BHXH tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Một số vấn đề lý luận về xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội và các yếu tố cấu thành
* Khái niệm
Hệ thống BHXH đầu tiên ra đời trên thế giới vào giữa thế kỷ XIX là công
trình của Chính phủ Đức dƣới thời Thủ tƣớng Bismark (1883-1889) với cơ chế ba
bên (Nhà nƣớc - giới chủ - giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho NLĐ trong
một số trƣờng hợp họ gặp rủi ro. Chế độ BHXH này bao gồm: Chế độ bảo hiểm ốm
đau (1883); bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp (1884) và bảo hiểm tuổi già, tàn tật

(1889). Sau đó, trƣớc tác dụng tích cực của BHXH trong quan hệ lao động nhiều
nƣớc bắt đầu áp dụng hệ thống BHXH. Trong những năm 30 của thế kỷ XX, một số
nƣớc còn mở rộng thêm những chế độ khác ngoài BHXH và xuất hiện khái niệm
mới: Social Security (an sinh, an toàn xã hội). Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) có
Công ƣớc số 102 năm 1952 về ASXH. Hiện nay, trên thế giới nói chung ngƣời ta
coi BHXH là một bộ phận cấu thành của ASXH.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, do Nhà nƣớc ban hành nên đƣợc đại đa số nhân dân nghiêm chỉnh thực
hiện. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên vi phạm pháp luật vẫn phát
sinh, tồn tại, xâm hại đến lợi ích của Nhà nƣớc, xã hội, đến các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Vi phạm pháp luật khá đa dạng, bao gồm nhiều loại khác nhau dựa theo các
tiêu chí phân chia nhất định. Mặc dù mỗi loại vi phạm có những đặc điểm riêng tuy

7


nhiên chúng vẫn có những đặc điểm chung. Những điểm chung này đã đƣợc thống
nhất cả trong lý luận và thực tiễn.
Vi phạm pháp luật có những dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất: Vi phạm pháp luật luôn luôn là hành vi xác định của con ngƣời.
Chỉ có thông qua hành vi của mình con ngƣời có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra
những thiệt hại cho xã hội. Những gì trong ý nghĩ, trong tƣ tƣởng của con ngƣời
nếu chỉ dừng lại ở đó thì chƣa thể tác động tới xã hội. Vì vậy, để xác định đƣợc ý
nghĩ hoặc tƣ tƣởng của con ngƣời thì cũng phải thông qua cách sử xự bên ngoài, tức
là qua hành vi của họ. Vi phạm pháp luật biểu hiện bằng hành vi cụ thể và đó chính
là cơ sở để áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với ngƣời vi phạm.
Rõ ràng vi phạm pháp luật phải là hành vi của chủ thể, đƣợc thể hiện dƣới
dạng hành động hay không hành động.
Thứ hai: Vi phạm pháp luật không những là hành vi xác định của con ngƣời

mà hành vi đó phải trái với các quy định pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội
đƣợc pháp luật xác lập và bảo hộ. Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù hợp
với những quy định pháp luật, không thực hiện những gì mà pháp luật yêu cầu hoặc
sử dụng quyền hạn quá giới hạn của pháp luật.
Thứ ba: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật chứa đựng lỗi của chủ
thể khi thực hiện hành vi đó. Có thể nói tất cả mọi vi phạm pháp luật đều là hành vi
trái pháp luật đều chứa đựng yếu tố lỗi. Chỉ những hành vi trái pháp luật nào đƣợc
chủ thể thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mới có thể bị coi là hành vi vi phạm pháp
luật. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt khách quan và chủ
quan của hành vi, nghĩa là phải xác định trạng thái tâm lý của ngƣời thực hiện hành
vi trái pháp luật đó (xác định lỗi của họ).
Thứ tƣ: Về năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể thực hiện hành vi trái
pháp luật. Trong pháp luật xã hội chủ nghĩa sự độc lập gánh chịu nghĩa vụ pháp lý
chỉ quy định đối với những ngƣời có khả năng tự lựa chọn đƣợc cách xử sự và có tự
do ý chí. Nói cách khác, ngƣời đó có khả năng nhận thức, điều khiển đƣợc hành vi
của mình và chịu trách nhiệm về hành vi đó. Vì vậy, những hành vi mặc dù trái

8


pháp luật nhƣng do những ngƣời mất trí hoặc trẻ em (chƣa đến độ tuổi theo quy
định của pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý) thực hiện thì vẫn không thể coi là
vi phạm pháp luật.
Trên cơ sở phân tích các dấu hiệu cơ bản nêu trên của hành vi vi phạm pháp
luật, có thể đƣa ra khái niệm vi phạm pháp luật nhƣ sau: Vi phạm pháp luật là hành
vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm
hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.1
Trên cơ sở khái niệm BHXH và khái niệm vi phạm pháp luật nêu trên ta có
thể rút ra khái niệm vi phạm pháp luật BHXH nhƣ sau: Vi phạm pháp luật về BHXH
là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng các quy định

pháp luật về BHXH, do chủ thể quan hệ pháp luật BHXH thực hiện một cách có lỗi,
xâm hại quyền và lợi ích của các chủ thể, nhà nước và xã hội.
Có thể xác định các yếu tố cấu thành VPPL về BHXH nhƣ sau.
Theo lý luận về pháp luật đã đƣợc nghiên cứu, thì vi phạm pháp luật có 4 yếu
tố cấu thành gồm chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và mặt khách quan. Nhƣ vậy, vi
phạm pháp luật BHXH cũng đƣợc cấu thành bởi các yếu tố tƣơng tự.
* Chủ thể vi phạm pháp luật BHXH
Chủ thể thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật BHXH bao gồm:
- Ngƣời sử dụng lao động
- NLĐ
- Cơ quan BHXH
Các chủ thể này thực hiện hành vi do lỗi cố ý hay vô ý các hành vi trái với
các quy định của pháp luật BHXH; gây thiệt hại cho bên thứ hai trong quan hệ
BHXH hay bên thứ ba - Nhà nƣớc thì đều cấu thành vi phạm pháp luật BHXH.
- Ngƣời sử dụng lao động.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật lao động năm 2012 thì "NSDLĐ là
doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mƣớn, sử

1

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Lý luận nhà nƣớc và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân,
tr.126

9


dụng lao động theo hợp đồng lao động; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ"2.
NSDLĐ là cá nhân cụ thể phải có năng lực hành vi đầy đủ hoặc NSDLĐ là
tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp, là một bên trong quan hệ pháp luật BHXH; ký kết

hợp đồng lao động với NLĐ, quản lý lao động, thực hiện các quy định pháp luật về
BHXH.
NSDLĐ vi phạm pháp luật BHXH khi thực hiện một hoặc nhiều hành vi sau đây:
+ Không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền BHXH hàng tháng trích từ
tiền lƣơng, tiền công của NLĐ để cùng đóng một lúc vào quỹ BHXH.
+ Không bảo quản hoặc sử dụng đúng mục đích số tiền BHXH của NLĐ trong
thời gian NLĐ làm việc;
+ Không lập hồ sơ để NLĐ đƣợc cấp sổ, đóng và hƣởng BHXH;
+ Không giới thiệu NLĐ bị suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y
khoa theo khi họ đủ điều kiện để giám định khả năng lao động trƣớc khi nghỉ hƣu;
+ Không cung cấp tài liệu, thông tin có liên quan theo yêu cầu của cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền;
+ Không cung cấp thông tin về việc đóng BHXH của NLĐ hoặc tổ chức
công đoàn yêu cầu.
+ Không tham gia bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng cho NLĐ trích từ tiền
lƣơng, tiền công của NLĐ để đóng cùng một lúc vào quỹ Bảo hiểm thất nghiệp.
- Ngƣời lao động
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật lao động năm 2012 thì "NLĐ là
ngƣời từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động,
đƣợc trả lƣơng và chịu sự quản lý, điều hành của NSDLĐ"3.
Nhƣ vậy, trong quan hệ lao động các cá nhân có đủ độ tuổi từ 15 tuổi trở
lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có thể tự nguyện tham gia vào quan hệ lao
động. Khi tham gia vào quan hệ này thì các cá nhân đƣợc hƣởng các quyền lợi về
lƣơng, về điều kiện lao động…đồng thời cũng chịu sự quản lý và điều hành của chủ
2
3

Quốc hội (2012), Bộ luật lao động, Hà Nội
Quốc hội (2012), Bộ luật lao động, Hà Nội


10


sử dụng lao động và đồng thời tham gia quan hệ pháp luật BHXH nếu họ thuộc đối
tƣợng tham gia BHXH bắt buộc.
NLĐ có thể có một hoặc nhiều hành vi vi phạm pháp luật BHXH sau:
+ Ngƣời lao động có hành vi kê khai không đúng sự thật hoặc sửa chữa, tẩy
xóa những nội dung có liên quan đến việc hƣởng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo
hiểm xã hội tự nguyện.
+ Không đóng hoặc đóng BHXH không đầy đủ.
Nhƣ vậy, nếu NLĐ vi phạm các quy định về pháp luật BHXH bằng hình
thức thực hiện hoặc không hiện đều cấu thành vi phạm pháp luật BHXH.
- Cơ quan BHXH
Cơ quan BHXH là hệ thống cơ quan đƣợc thiết lập theo hệ thống ngành dọc
nhằm thực hiện các chính sách BHXH từ trung ƣơng đến địa phƣơng nhƣ: thu, quản
lý và chi trả các chế độ BHXH cho ngƣời tham gia BHXH.
Cơ quan BHXH cũng có thể có các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH khi
thực hiện một số hành vi nhƣ:
+ Thực hiện thu BHXH chƣa đúng quy định;
+ Tiếp nhận hồ sơ, giải quyết chế độ BHXH chƣa đúng quy định;
+ Quản lý và sử dụng quỹ BHXH chƣa đúng quy định;
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo chƣa kịp thời, không đảm bảo quyền lợi cho
NLĐ khi tham gia BHXH.
* Về khách thể của vi phạm pháp luật BHXH
Khách thể của vi phạm pháp luật là các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ
nhƣng bị hành vi trái pháp luật xâm hại.
Bởi vậy, khách thể của vi phạm pháp luật BHXH là các quan hệ đƣợc pháp
luật BHXH bảo vệ nhƣng bị các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật BHXH xâm
hại, bao gồm:
- Quan hệ giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động

Trong quan hệ này, chủ sử dụng lao động và NLĐ ký kết hợp đồng lao động
và việc tham gia BHXH bắt buộc hay tự nguyện tùy theo từng loại hợp đồng lao

11


động. Hành vi vi phạm quan hệ này từ chủ sử dụng lao động và NLĐ có thể là:
NLĐ và chủ sử dụng lao động ký kết hợp đồng để trốn tránh nghĩa vụ nộp BHXH
bằng việc ký kết hợp đồng ngắn hạn dƣới 1 tháng…
- Quan hệ giữa NSDLĐ và cơ quan BHXH là quan hệ trong quá trình thực
hiện các quy định về trích nộp BHXH chẳng hạn:
+ NSDLĐ không thực hiện việc trích nộp tiền BHXH hàng tháng theo đúng
quy định
+ NSDLĐ trốn đóng BHXH, nợ đọng tiền BHXH.
+ NSDLĐ lập hồ sơ khống đề nghị giải quyết chế độ BXHH nhƣ: ốm đau,
dƣỡng sức phục hồi sức khỏe.
- Quan hệ giữa NLĐ và cơ quan BHXH:
Quan hệ này phát sinh khi NLĐ tham gia BHXH và đề nghị đƣợc cơ quan
BHXH giải quyết chế độ chính sách. Trong mối quan hệ này, vi phạm pháp luật
BHXH nảy sinh từ NLĐ, khi họ thực hiện các hành vi gian lận, giả mạo hồ sơ trong
việc thực hiện BHXH, chẳng hạn:
+ Mua giấy chứng nhận nghỉ hƣởng BHXH để đƣợc cơ quan BHXH chi trả
các chế độ ngắn hạn hoặc giả mạo, tẩy xóa hồ sơ, giấy tờ để hƣởng chế độ BHXH.
* Về mặt chủ quan của vi phạm pháp luật BHXH
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật BHXH là thái độ tâm lý của các chủ thể
trong quan hệ pháp luật BHXH với các yếu tố nhƣ: lỗi, động cơ, mục đích của chủ
thể với hành vi và hậu quả của sự vi phạm pháp luật BHXH đối với NLĐ, cơ quan
BHXH là đại diện của Nhà nƣớc khi thực hiện các chế độ, chính sách.
* Về mặt khách quan của vi phạm pháp luật BHXH
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật BHXH là những biểu hiện ra bên

ngoài của vi phạm pháp luật BHXH bao gồm các hành vi vi phạm pháp luật BHXH,
hậu quả xảy ra do hành vi vi phạm pháp luật BHXH, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh,
công cụ, phƣơng tiện thực hiện..
Hành vi vi phạm pháp luật BHXH có thể là việc không thực hiện, thực hiện
không đúng, không đầy đủ quy định của pháp luật hoặc vi phạm điều cấm của pháp

12


luật. Đây sẽ là bằng chứng xác định có sự vi phạm pháp về bảo hiểm xã hội. Ngoài
ra còn là hậu quả xảy ra của các vi phạm.
1.1.2. Phân loại vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội
Việc phân loại vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội dựa trên các tiêu chí.
- Căn cứ vào chủ thể thục hiện hành vi vi phạm gồm.
+ Nhóm các hành vi vi phạm do NSDLĐ thực hiện ví dụ nhƣ trốn đóng bảo
hiểm cho ngƣời lao động; không chi trả chế độ bảo hiểm cho NLĐ thuộc diện đƣợc
hƣởng mà NSDLĐ có nghĩa vụ trả thay cho cơ quan BHXH ví dụ nhƣ chế độ ốm
đau, thai sản…
+ Nhóm các hành vi vi phạm của NLĐ nhƣ hành vi kê khai không đúng sự
thật hoặc sửa chữa, tẩy xóa những nội dung có liên quan đến việc hƣởng bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
+ Nhóm hành vi vi phạm do cơ quan BHXH thực hiện nhƣ sử dụng quỹ sai
mục đích, gây phiền hà, cản trở trong việc đóng và hƣởng bảo hiểm.
- Căn cứ vào loại hình BHXH có hai loại vi phạm pháp luật về BHXH, đó là:
+ Hành vi vi phạm pháp luật về BHXH bắt buộc.
+ Hành vi vi phạm pháp luật về BHXH tự nguyện.
- Căn cứ vào các chế độ BHXH bị vi phạm bao gồm.
+ Hành vi vi phạm quy định về chế độ ốm đau.
+ Hành vi vi phạm quy định về chế độ thai sản
+ Hành vi vi phạm quy định về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

+ Hành vi vi phạm quy định về chế độ hƣu trí.
+ Hành vi vi phạm quy định về chế độ tử tuất.
- Căn cứ vào lĩnh vực pháp luật đƣợc áp dụng để xử lý vi phạm, gồm.
+ Hành vi vi phạm pháp luật BHXH bị xử phạt vi phạm hành chính.
+ Hành vi vi phạm pháp luật BHXH bị xử lý hình sự.
+ Hành vi vi phạm pháp luật BHXH bị xử lý bồi thƣờng thiệt hại.
1.1.3. Khái niệm và sự cần thiết phải xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội
Về khái niệm xử lý hành vi vi phạm pháp luật về BHXH.

13


Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do Nhà
nƣớc đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nƣớc của giai cấp thống trị trên cơ sở
ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, đƣợc đảm bảo thực hiện bằng sử
dụng cƣỡng chế Nhà nƣớc nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự
và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội4. Pháp luật có ba chức năng
chính: điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục. Sở dĩ pháp luật có chức năng bảo vệ vì trong
xã hội vẫn tồn tại những “vi phạm pháp luật” – là hành vi nguy hiểm cho xã hội,
xâm hại đến các lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích của công dân, do ngƣời có năng
lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách có lỗi5. Và ngƣời vi phạm pháp luật
phải chịu trách nhiệm pháp lý – hậu quả của vi phạm pháp luật và đƣợc thể hiện
trong việc cơ quan nhà nƣớc (ngƣời có chức vụ) có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp cƣỡng chế (chế tài xử lý)6.
Vậy, xử lý vi phạm trong lĩnh vực về BHXH là việc tổ chức cơ quan, cá nhân
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp chế tài đối với những cá nhân, tổ chức có
hành vi vi phạm pháp luật về BHXH theo quy định của pháp luật.
Việc xử lý vi phạm pháp luật về BHXH là cần thiết bởi các lý do sau đây.
Một là BHXH là một chế độ góp phần bảo vệ quyền lợi và tƣơng lai cuộc sống
của ngƣời lao động, việc đóng BHXH sẽ góp phần quan trọng vào đảm bảo hệ thống

an sinh xã hội của Nhà nƣớc đƣợc vận hành hiệu quả. Do đó, việc xử lý đối với hành vi
vi phạm pháp luật về BHXH là một yêu cầu cần thiết để bảo vệ quyền lợi của NLĐ,
những ngƣời tham gia bảo hiểm xã hội khác. Quyền lợi của NLĐ sẽ bị xâm hại nghiêm
trọng nếu nhƣ NSDLĐ không tham gia, hoặc có những hành vi vi phạm pháp luật về
bảo hiểm xã hội khác.
Hai là, việc xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội là một yêu cầu nhằm
đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động xây dựng nhà nƣớc pháp quyền.

4

Hoàng Thị Kim Quế (2005), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nƣớc và pháp luật, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.tr.288
5
Hoàng Thị Kim Quế (2005), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nƣớc và pháp luật, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.tr.537
6
Hoàng Thị Kim Quế (2005), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nƣớc và pháp luật, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội., tr.550

14


Nhƣ chúng ta đã biết, trong nhà nƣớc pháp quyền, bất cứ vi phạm pháp luật nào cũng
bị xử lý điều này mới đảm bảo tính nghiêm minh. Hệ thống an sinh xã hội là một yêu
cầu cấp thiết mà nhà nƣớc ta đã dày công xây dựng nhằm đảm bảo tốt nhất đến đời
sống an sinh của hàng chục triệu con ngƣời. Hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã
hội sẽ trực tiếp làm bào mòn, suy thoái hệ thống an sinh xã hội này, làm lung lay đến
tận gốc rễ tính ổn định và bền vững của hệ thống. Chính vì vậy, tất cả các hành vi vi
phạm pháp luật về BHXH đều phải bị xử lý nghiêm minh.
Ba là, việc xử lý đối với những vi vi phạm pháp luật về BHXH cũng là một yêu

cầu quan trọng trong việc phòng ngừa đối với các hành vi vi phạm tiếp theo. Bởi lẽ,
nếu có một hành vi vi phạm pháp luật bất kỳ bị xử lý nghiêm minh thì điều này sẽ có
tác động giáo dục rất tốt, khiến cho những chủ thể có ý định thực hiện hành vi này sẽ
phải suy xét lại, tính toán lại hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật.
1.1.4. Các nguyên tắc xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội
Mọi hành vi VPPL đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật và VPPL
về BHXH cũng không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, việc xử lý VPPL đó không
bao giờ là tùy tiện mà cần phải tuân thủ những quy định chặt chẽ của pháp luật, đó
chính là các nguyên tắc khi xử lý vi phạm. VPPL về BHXH cần tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, mọi hành vi VPPL về BHXH phải đƣợc phát hiện kịp thời và phải
bị đình chỉ ngay. Việc xử lý vi phạm phải đƣợc tiến hành nhanh chóng, công minh,
triệt để; mọi hậu quả do VPPL gây ra phải đƣợc khắc phục theo đúng quy định của
pháp luật. Chảng hạn hành vi không đóng, chậm đóng, đóng không đúng mức quy
định,... của NSDLĐ cần phải đƣợc phát hiện sớm và có biện pháp xử lý thích đáng,
nếu không sẽ ảnh hƣởng tới quyền lợi chính đáng của NLĐ.
Thứ hai, cá nhân, tổ chức chỉ bị xử lý về vi phạm pháp luật BHXH khi có vi
phạm do pháp luật quy định trong lĩnh vực đóng, hƣởng BHXH. Không có lí do gì
để bao biện rằng một ngƣời hoặc một tổ chức ngang nhiên bị bắt và bị xử lý một khi
họ không làm bất cứ điều gì vi phạm trật tự xã hội mà pháp luật quy định. Pháp luật
đã có sự quy định rất rõ ràng rằng trong trƣờng hợp, hoàn cảnh nhất định cá nhân,

15


tổ chức đƣợc làm và không đƣợc làm gì, chủ thể ấy chỉ có thể bị xử lý khi họ làm
trái với những gì mà pháp luật đã nêu. Khi đó việc bị xử lý là hoàn toàn xác đáng
nhằm mục đích trừng trị, răn đe, phòng ngừa vi phạm.
Thứ ba, việc xử lý VPPL về BHXH phải do ngƣời có thẩm quyền tiến hành
theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ tư, một hành vi VPPL về BHXH chỉ bị xử lý một lần cho một hình thức
xử lý nhất định; một ngƣời thực hiện nhiều hành vi VPPL về BHXH thì bị xử lý về
từng hành vi vi phạm; nhiều ngƣời cùng thực hiện một hành vi vi phạm thì mỗi
ngƣời vi phạm đều bị xử lý. Ví dụ nhƣ tổ chức BHXH có hành vi không cấp sổ
BHXH hoặc không chốt sổ BHXH đúng hạn; hành vi không giải quyết đúng chế độ
BHXH; hành vi chi trả không đúng mức hoặc không đúng thời hạn chế độ BHXH
thì tổ chức BHXH đó sẽ bị xử lý một lần đối với từng hành vi với từng hình thức xử
lý, mỗi ngƣời trong tổ chức BHXH có hành vi vi phạm sẽ bị xử lý.
Thứ năm, việc xử lý VPPL về BHXH phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi
phạm, nhân thân ngƣời vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết
định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp. Mục đích của việc xem xét này là nhằm
đảm bảo việc xử lý ngƣời thực hiện hành vi phạm tội một cách công bằng, khách
quan, đúng ngƣời đúng tội và thể hiện quan điểm nhân văn trong xử lý và ngăn
ngừa ngƣời VPPL trong đóng, hƣởng BHXH.
1.2. Quy định pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội
1.2.1. Quy định về các hành vi vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội và hậu quả
pháp lý
1.2.1.1. Vi phạm quy định về đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và hậu quả pháp lý
* NLĐ thỏa thuận với NSDLĐ không tham gia BHXH bắt buộc hoặc tham
gia không đúng mức quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định 95/2013/NĐ-CP
BHXH bắt buộc là loại hình BHXH mà những NLĐ nhất định và NSDLĐ
phải tham gia (khoản 2 điều 3 Luật BHXH). Theo quy định của Bộ luật Lao động
và Luật BHXH thì việc tham gia loại hình BHXH bắt buộc không phụ thuộc vào số
lƣợng NLĐ trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động mà căn cứ

16


vào loại hợp đồng lao động đƣợc ký kết giữa NSDLĐ với NLĐ. NSDLĐ tham gia
BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan Nhà nƣớc, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh

doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mƣớn, sử dụng và trả
công cho NLĐ (khoản 2, điều 2 Luật BHXH 2014). Ở những doanh nghiệp, cơ quan,
tổ chức này, NSDLĐ và NLĐ phải đóng BHXH theo quy định tại luật luật này và NLĐ
đƣợc hƣởng các chế độ trợ cấp BHXH ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
thai sản, hƣu trí và tử tuất. Nhƣ vậy, việc bắt buộc tham gia BHXH áp dụng với
doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động thông qua việc ký kết hợp đồng
lao động không phụ thuộc vào việc những NLĐ đó làm việc theo HĐLĐ nào hoặc
số lƣợng NLĐ là bao nhiêu.
Tƣơng tự, NLĐ cũng bắt buộc phải tham gia BHXH nếu thuộc đối tƣợng
đƣợc quy định tại khoản 1, 2 Luật BHXH. Tuy nhiên nếu nhƣ NLĐ có hành vi thỏa
thuận với NSDLĐ không tham gia BHXH bắt buộc nhƣ quy định, hoặc không tham
gia đúng mức quy định thì đã là hành vi vi phạm pháp luật về BHXH và sẽ bị xử lý.
Theo Điều 26 khoản 1 của Nghị định 95/2013/NĐ-CP và Nghị định
88/2015/NĐ-CP, NLĐ có hành vi nêu trên sẽ bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Ngoài ra còn phải buộc truy nộp số tiền BHXH
bắt buộc chƣa đóng hoặc không đóng.
* NSDLĐ đóng BHXH không đúng thời gian quy định
Mọi mối quan hệ trong xã hội đều có khởi nguồn và kết thúc theo một quy
trình vốn có của riêng nó với thời gian đƣợc ấn định đặc trƣng, và quan hệ pháp lý
cũng không phải là một ngoại lệ. Nắm bắt đƣợc quy luật ấy, Luật BHXH đã có quy
định cụ thể để điều chỉnh quan hệ đóng góp BHXH, theo đó trong thời hạn ba mƣơi
ngày, kể từ ngày giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc tuyển dụng,
NSDLĐ nộp hồ sơ tham gia BHXH cho tổ chức BHXH. Hồ sơ tham gia BHXH bắt
buộc bao gồm: Tờ khai tham gia bảo hiểm xã hội của ngƣời sử dụng lao động kèm
theo danh sách ngƣời lao động tham gia bảo hiểm xã hội; Hồ sơ cấp lại sổ bảo hiểm
xã hội trong trƣờng hợp hỏng hoặc mất bao gồm: Đơn đề nghị cấp lại sổ bảo hiểm
xã hội của ngƣời lao động; Sổ bảo hiểm xã hội trong trƣờng hợp bị hỏng.

17



×