Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng tòa án ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP VIỆN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI BẰNG TÒA ÁN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Mã số: V2014-39

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Phùng Trọng Quế

Hà Nội, tháng 11 năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP VIỆN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI BẰNG TÒA ÁN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Mã số: V2014-39
Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài



Chủ nhiệm đề tài

(ký, họ tên, đóng dấu)

Hà Nội, tháng 11 năm 2014

(ký, họ tên)


CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI

Chủ nhiệm đề tài:

ThS. Phùng Trọng Quế

Thành viên đề tài:

ThS. Trần Thị Thúy
ThS. Đinh Thị Hằng
CVC. Đỗ Thị Kim Hoa
ThS. Nguyễn Anh Đức

i


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU ................................................................................... iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ..................................................................................v
MỞ ĐẦU .................................................................................................................1

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..........................................................................1
2. Tính cấp thiết .......................................................................................................3
3. Mục tiêu ...............................................................................................................6
4. Cách tiếp cận ........................................................................................................6
4.1. Về cơ sở lý thuyết ..........................................................................................6
4.2. Dự kiến nghiên cứu .......................................................................................8
5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................9
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................10
7. Nội dung nghiên cứu..........................................................................................11
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI BẰNG TÒA ÁN ....................12
1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại có YTNN .................................................12
1.1.1. Định nghĩa tranh chấp thương mại có YTNN ..........................................12
1.1.2. Đặc điểm tranh chấp thương mại có YTNN ............................................16
1.1.3. Phân loại tranh chấp thương mại có YTNN .............................................20
1.2. Bản chất việc GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án. ............................23
1.3. Quy trình giải quyết tranh chấp thương mại có YTNN bằng Tòa án. ............26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI BẰNG TÒA
ÁN ..........................................................................................................................37
2.1. Cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ giải quyết tranh chấp thương mại có YTNN
ngoài bằng Tòa án ở Việt Nam ..............................................................................37
2.1.1. Các quy định của ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên .............................37
2.1.2. Các Tập quán quốc tế ...............................................................................38

ii


2.1.3. Các văn bản pháp luật quốc gia của Việt Nam ........................................39

2.2. Các quy định pháp luật về GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án .........39
2.2.1. Thẩm quyền của Tòa án trong GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án
............................................................................................................................40
2.2.2. Các giai đoạn của tố tụng dân sự GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa
án ........................................................................................................................50
2.3. Một số đánh giá chung quy định pháp luật Việt Nam về GQTC thương mại
có YTNN bằng Tòa án ...........................................................................................61
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM BẰNG
TÒA ÁN ................................................................................................................62
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại có
YTNN ở Việt Nam ................................................................................................62
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại có
YTNN bằng Tòa án................................................................................................63
3.3. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về GQTC thương
mại có YTNN bằng Tòa án ....................................................................................67
3.3.1. Xác định thẩm quyền GQTC của Tòa án .................................................67
3.3.2. Hoàn thiện các quy định về luật áp dụng ..................................................69
3.3.3. Hoàn thiện các quy định về ủy thức tư pháp quốc tế ...............................72
3.3.4. Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài tại
Việt Nam. ............................................................................................................74
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................76
1. Kết luận và kiến nghị .........................................................................................76
2. Những hướng nghiên cứu trong tương lai .........................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... vi

iii


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Mô hình GQTC Thương mại có YTNN bằng Tòa án .................................36

Bảng 2: SỐ LIỆU THỐNG KÊ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ................60

iv


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ
(TIẾNG ANH)

Bộ Luật TTDS 2004
BLDS năm 2005
BLHH 2005
Luật HKDD 2005
BIT
Bilateral investment treaty
BTA

Bilateral trade agreement

CHXHCN Việt Nam
ĐƯQT
GQTC
HĐTT
HNQT
HĐTTTP
KTQT

FTA
ICC
ICSID
LĐT 2005
LTM 2005
NĐT
TMQT
TTTM
TTV
TTTT
UNCITRAL
UNCITAD
YTNN

Dispute Settlement

VIẾT ĐẦY ĐỦ
(TIẾNG VIỆT)
Bộ Luật TTDS năm 2004
Bộ Luật dân sự năm 2005
Bộ Luật hàng hải năm 2005
Luật hàng không năm 2005
Hiệp định đầu tư song phương
Hiệp định thương mại song
phương
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Điều ước quốc tế
GQTC
Hội đồng Trọng tài

Hội nhập quốc tế
Hiệp định tương trợ tư pháp
Kinh tế quốc tế
Hiệp định thương mại tự do

Free Trade Agreement
International
chamber
of
Phòng thương mại quốc tế
commerce
International cetre for Settlement
Trung tâm GQTC đầu tư quốc tế
of investmen disputes
Luật Đầu tư 2005
Luật thương mại 2005
Nhà đầu tư
Thương mại quốc tế
Trọng tài thương mại
Trọng tài viên
Thỏa thuận Trọng tài
Ủy ban luật thương mại quốc tế
của liên hợp quốc
United nations conference on Tổ chức Liên Hợp quốc về
trade and development
thương mại và phát triển
Yếu tố nước ngoài

v



MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
đang là vấn đề thời sự. Điều này xuất phát từ thực tiễn của đất nước khi quan hệ kinh
tế trong nước cũng như các quan hệ thương mại quốc tế ngày càng phong phú và đa
dạng. Điều đó cũng có nghĩa là, tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế tất
yếu nảy sinh và cần phải có cơ chế giải quyết các tranh chấp đó một cách phù hợp và
có hiệu quả, Tòa án là một trong các phương thức đó.
Việc nghiên cứu giải quyết các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài
giúp chúng ta nắm bắt được các quy định của luật thương mại quốc tế và các tập quán
thương mại quốc tế, pháp luật các nước về hoạt động thương mại. Điều này hết sức
cần thiết cho các nhà lập pháp và thực thi pháp luật của chúng ta trong quá trình đổi
mới, cũng như các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào các giao dịch thương
mại quốc tế.
Đến nay cũng đã có một số công trình và các bài viết nghiên cứu liên quan đến
vấn đề này. Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài được một số tác
giả đi sâu nghiên cứu dưới những góc độ và cách tiếp cận khác nhau. Như chúng ta
biết rằng, giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài là một lĩnh vực có
sự giao thoa giữa Luật thương mại và Tư pháp quốc tế. Do đó, những nhóm công
trình nghiên cứu liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại và Tư pháp quốc tế
nói chung cũng thể hiện được những vấn đề mang tính lý luận cơ bản trong giải quyết
tranh chấp thương mại có YTNN. Những công trình tiêu biểu đó có thể kể đến: Bài
viết của PTS. Đinh Ngọc Hiện về giải quyết tranh chấp tại Tòa án Việt Nam; TS.
Hoàng Thế Liên về các phương thức giải quyết tranh chủ yếu tại Việt Nam trong lĩnh
vực chấp kinh tế và đầu tư nước ngoài; Đề tài cấp bộ năm 2003 của Tòa án nhân dân
tối cao về “Thẩm quyền của Tòa kinh tế trong việc thực hiện cải cách tư pháp - những
vấn đề lý luận và thực tiễn”; Các luận án tiến sỹ có liên quan đến thẩm quyền Tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp thương mại như là: Luận án tiến sỹ của Nguyễn Thị
Kim Vinh năm 2002 vè “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Tòa


1


án ở Việt Nam”; Luận án tiến sỹ của Nguyễn Thị Hoài Phương năm 2007 về “Hoàn
thiện pháp luật về tài phán kinh tế ở Việt Nam hiện nay”; TS. Đào Văn Hội về hoàn
thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay; …Trong những công
trình nghiên cứu này đã góp phần xây dựng được cơ sở lý luận và khẳng định được
vai trò của Tòa án trong việc đảm bảo cho quan hệ thương mại được diễn ra một cách
thông xuất, đảm bảo được quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh.
Những công trình nghiên cứu ở gốc độ Tư pháp quốc tế như: Luận văn thạc sỹ
của Nguyễn Văn Năm (2007) về “Giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài
bằng tòa án Việt Nam thực trạng và giải pháp”; Các cuốn sách có liên quan như là:
“Giáo trình luật thương mại quốc tế” năm 2005 của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà
Nội; “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường tòa án” của tác giả
Nguyễn Vũ Hoàng, năm 2004, NXB Thanh niên, Hà Nội; “Kinh nghiệm thực tế giải
quyết tranh chấp hợp đồng thương mại hàng hải” của Luật sư Nguyễn Chúng (2005)
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội; PGS.TS. Nguyễn Trung Tín về “giải quyết tranh chấp
thương mại có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam: Một số vấn đề và thực tiễn” Nxb khoa
học xã hội, Hà Nội, 2009; Cuốn sách “GQTC hợp đồng thương mại quốc tế” của
ThS.GVC. Nguyễn Ngọc Lâm, Nxb chính trị Quốc gia, 2010; Sách chuyên khảo của
tác TS. Đỗ Văn đại – PGS. Mai Hồng Quỳ về “Tư pháp quốc tế Việt Nam: Quan hệ
dân sự, lao động, thương mại có YTNN”, Nxb Chính trị quốc gia... Các công trình
khoa học trên đã đề cập đến nhiều nội dung với những khía cạnh khác nhau về giải
quyết các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay bằng
phương thức Tòa án. Đặc biệt là xây dựng được những cơ sở lý luận về giải quyết
tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài. Trên cơ sở đó, các công trình cũng đưa
ra một số giải pháp và đề xuất nhất định nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải
quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng và tranh chấp thương mại có
yếu tố nước ngoài nói riêng.

Quan hệ thương mại nói chung và quan hệ thương mại quốc tế nói riêng không
phải là một hiện tượng bất biến mà quan hệ này ngày càng phát triển theo hướng đa
dạng và phong phú nếu phát sinh tranh chấp thường rất phức tạp. Trong khi đó hệ
thống pháp luật của chúng ta còn chưa theo kịp với sự thay đổi này và cũng không có

2


khả năng dự liệu tốt. Hay nói cách khác, tính đồng bộ, tính toàn diện, tính hiện đại
của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
có yếu tố nước ngoài còn chưa được thể hiện đầy đủ. Điều này dẫn đến quá trình áp
dụng trong thực tiễn không mang lại hiệu quả cao. Vì vậy, Đề tài này nghiên cứu trên
cơ sở tiếp thu có chọn lọc và kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình đã
đưa ra nhằm nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện vấn đề này trong lý luận và
trong thực tiễn.

2. Tính cấp thiết
Ngày nay xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế theo cả chiều sâu và chiều rộng đã
làm các quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ thương mại có YTNN diễn ra ngày
cành phổ biễn. Sự giao thoa giữa các luồng giao dịch thương mại có YTNN ngày
càng đa dạng, dẫn đến các tranh chấp phát sinh cũng tăng theo tỷ lệ tương ứng.
Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân khi tham gia vào các
quan hệ tố tụng dân sự có YTNN, đồng thời đảm bảo quyền tự do kinh doanh, sự bình
đẳng, công khai, minh bạch cho thương nhân nước ngoài khi tham gia tố tụng tại Tòa
án nước mình, các quốc gia đã ban hành Luật tố tụng dân sự trong đó chứa đựng các
quy phạm xác định địa vị pháp lí của các bên tranh chấp, trình tự thủ tục giải quyết
vụ án, đặc biệt nhứng quy dịnh mang tính đặc thù của loại vụ việc, như: giải quyết
xung đột về thẩm quyền xét xử, xung đột pháp luật, vấn đề tương trợ tư pháp. Đây là
những vấn đề thường xuyên được đặt ra khi GQTC dân sự có YTNN nói chung và
tranh chấp thương mại có YTNN nói riêng. Ngoài ra, các quốc gia còn gia nhập hoặc

kí kết các ĐƯQT để cùng nhâu thống nhất các nội dung này.
Đối với Việt Nam, qua nhiều năm thực hiện Bộ Luật TTDS 2004 đã bộc lộ
những bất cập, trình trạng đó dẫn đến hạn chế các giao dịch thương mại quốc tế hay
trực tiếp ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng dân sự.
Chính vì vậy, có quan điểm cho rằng các tranh chấp thương mại có YTNN, các bên
ít khởi kiện tại Tòa án Việt Nam. Một trong các lí do đó là, sự công bằng, khách quan,
minh bạch trong tố tụng chưa được đảm bảo thực chất, gây tâm lí e ngại cho các bên
khởi kiện tại Tòa án Việt Nam. Bộ Luật TTDS 2004 đã dành phần chín quy định về
thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài và tương trợ tư pháp trong

3


tố tụng dân sự. Tuy nhiên, các quy định về thẩm quyền xét xử vừa bó hẹp, vừa có
nhiều lỗ hổng, chồng chéo với các quy định của pháp luật thương mại; với các quy
định của ĐƯQT mà Việt Nam ký kết. Trong khi dó, thực tiễn đàm phán, ký kết hợp
đồng thương mại quốc tế cho thấy, điều khoản về thỏa thuận chọn luật áp dụng và
chọn cơ quan GQTC là một trong những nội dung quan trọng trong một một hợp
đồng thương mại quốc tế. Cả hai vấn đề này đều được ghi nhận một cách không rõ,
ghi nhận không đầy đủ nên đã làm mất hiệu lực của điều khoản về thỏa thuận chọn
luật áp dụng và chọn cơ quan GQTC trong hợp đồng, cụ thể là quy định pháp luật
chưa làm rõ các nguyên tắc xác định và áp dụng pháp luật, trong việc: Khẳng định
nguyên tắc các bên được lựa chọn pháp luật áp dụng cho các quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài và quan hệ thương mại có YTNN nói riêng; chưa làm rõ việc lựa chọn
pháp luật nước ngoài không đồng nhất với việc pháp luật nước ngoài được đương
nhiên áp dụng trên lãnh thổ Việt Nam bằng các quy định rõ các trường hợp loại trừ
áp dụng pháp luật nước ngoài; chưa làm rõ phạm vi pháp luật được chọn (pháp luật
của một quốc gia, bao gồm tập quán được pháp luật đó thừa nhận) và vấn đề phạm vi
dẫn chiếu (dẫn chiếu đến pháp luật nội dung hay có thể dẫn chiếu đến quy phạm xung
đột) cũng chưa được quy định rõ ràng. Trong lĩnh vực tố tụng, qua số liệu thống kê

của Tòa án nhân dân tối cao, từ năm 2006 đến hết tháng 3 năm 2013, toàn ngành
Tòa án đã giải quyết 514.113 vụ việc dân sự, trong đó 12.473 là vụ việc dân sự có
YTNN (chiếm 2,42%). Tuy nhiên, khi giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế,
thương mại có YTNN, nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng, thì hầu như
Tòa án Việt Nam chỉ áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp mà không
viện dẫn lý do tại sao lại áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết các tranh chấp đó
(tức là dựa trên quy phạm xung đột pháp luật nào để xác định pháp luật áp dụng là
pháp luật Việt Nam)”1. Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng quy định thẩm quyền riêng biệt
của Tòa án Việt Nam đối với các quan hệ hợp đồng vận chuyển là không phù hợp với
quy định của luật chuyên ngành (luật hàng không dân dụng và Bộ luật Hàng hải),
không phù hợp với bản chất của quan hệ thương mại, chưa phù hợp với mục đích bảo

1

Bản thuyết minh "Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) của Bộ Tư Pháp.

4


vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các thương nhân Việt Nam. Một trong các bất cập
nữa chính là các vấn đề tương trợ tư pháp, dẫn đến tình trạng tồn động án thương mại
có YTNN do không thể thực hiện được ủy thức tư pháp hoặc do việc công nhận các
giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp của các nước tại Việt Nam. Vấn đề công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định về thương mại của Tòa án nước ngoài theo nguyên
tắc có đi có lại vẫn có nhiều vướng mắc.
Ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến
lược cải cách Tư Pháp đến năm 2020, mục tiêu chung là “Xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Để đạt

được mục tiêu này, một trong những nhiệm vụ chính được đặt ra là “Nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên
tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp; từng bước xã hội hóa một
số hoạt động tư pháp”; và “Hoàn thành việc tăng thẩm quyền xét xử của tòa án cấp
huyện, chuẩn bị điều kiện thành lập tòa án khu vực ở cấp này; từng bước đổi mới tổ
chức hệ thống tòa án nhân dân các cấp”. Để đáp ứng được nhu cầu cải cách tư pháp
này, Bộ TTDS 2004 được sửa đổi bổ sung năm 2011 có hiệu lực thi hành từ ngày
01//01/2012 cũng đã thể hiện được phần nào. Nhưng đáng tiếc các quy định của Bộ
luật về phần giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN lại không có sự sửa đổi hay bổ
sung gì. Trong khi đó thực tiễn cho thấy vấn đề này đang ngày gây ra những rào cản
không thiết để cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung và các quan
hệ thương mại có yếu tố nước ngoài nói riêng. Do đó, nhu cầu nghiên cứu để tiếp tục
hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại có YTNN có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ yêu cầu nêu trên mà các tác giả đã chọn đề tài: “Giải quyết tranh
chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng Tòa án ở Việt Nam hiện nay” để làm
đề tài nghiên cứu khoa học cấp viện.

5


3. Mục tiêu
 Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về tranh chấp thương mại có yếu tố
nước ngoài, phân loại các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài và phương
thức giải quyết các tranh chấp đó bằng Tòa án Việt Nam.
 Phân tích các quy định hiện hành của pháp luật quốc tế và Việt Nam về thẩm
quyền và luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài
bằng Tòa án.
 Phân tích thực trạng giải quyết, xét xử các tranh chấp thương mại có yếu tố nước
ngoài ở Tòa án Việt Nam, có số liệu thống kê minh hoạ.

 Trên cơ sở thực tiễn của việc giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước
ngoài ở Tòa án Việt Nam để có những kiến nghị về những giải pháp hoàn thiện pháp
luật cũng như nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc tranh chấp thương mại có
yếu tố nước ngoài của Tòa án.

4. Cách tiếp cận
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu và phương pháp nghiên
cứu, Đề tài được tiếp cần trên các phương diện sau đây:
4.1. Về cơ sở lý thuyết
4.1.1. Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài “GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án ở Việt Nam hiện nay” được
tiến hành xuất phát từ những câu hỏi nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất: Các tiêu chí để nhận diện một tranh chấp và GQTC thương mại có
YTNN bằng Tòa án là gì? Các dấu hiệu xác định việc GQTC thương mại có YTNN
bằng Tòa án có những khác biệt gì so với việc GQTC thương mại không có YTNN?
Thứ hai: Các tranh chấp thương mại có YTNN là những tranh chấp mang tính
đặc thù mà việc áp dụng các thủ tục thông thường như các tranh chấp thương mại
không có YTNN là không phù hợp? Khi một tranh chấp thương mại có YTNN xảy
ra mà nguyên đơn khởi kiện đến Tòa án Việt Nam thì có cần thiết lập một cơ chế
GQTC riêng hay không? Nếu có thì cơ chế GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa
án ở Tòa án khác với các thủ tục GQTC thương mại không có YTNN hay không?

6


Thứ ba: Cơ chế GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án vận hành trên những
nguyên tắc; quy trình, thủ tục nào để đảm bảo được lợi ích của các chủ thể có liên
quan?
4.1.2. Lý thuyết nghiên cứu
Đề tài được cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và Tư tưởng

Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Các quan điểm của đảng và Nhà nước về
phát triển nền kinh tế thị trường, về hội nhập quốc tế, về thống nhất toàn diện pháp
luật, về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và về cải cách tư pháp pháp trong giai
đoạn hiện nay.
Các lý thuyết liên quan đến Tư pháp quốc tế (xung đột thẩm quyền xét xử, xung
đột pháp luật, tương trợ tư pháp quốc tế...), pháp luật thương mại, pháp luật về GQTC
thương mại có YTNN Tòa án ở Việt Nam và một số nước trên thế giới là những lí
thuyết quan trọng cho nghiên cứu đề tài.
4.1.3. Các giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở nền tảng nghiên cứu về quy định của ĐƯQT, BLDS, Bộ luật TTDS,
pháp luật thương mại, quy định về GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án tại Tòa
án, tác giả xác định đề tài cần dựa vào các giả thuyết khoa học sau đây:
Thứ nhất: Tranh chấp thương mại có YTNN cũng là một tranh chấp thương mại,
phát sinh trong hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của các thương nhân vì thế có thể được
yêu cầu giải quyết tại Tòa án Việt Nam.
Thứ hai: Vì tranh chấp thương mại có YTNN có đặc thù, GQTC này có liên
quan đến nhiều quốc gia có liên quan, sự ký kết hoặc gia nhập các ĐƯQT về GQTC
thương mại là cần thiết. Vì vậy, cần thiết nghiên cứu phương pháp giải quyết xung
đột thẩm quyền xét xử đối với các tranh chấp thương mại có YTNN.
Thứ ba: Hiện nay theo quan điểm hiện đại, đối tượng tranh chấp thương mại có
YTNN rất đa dạng và phong phú, liên quan đến: hàng hóa, dịch vụ, quyền sở hữu trí
tuệ và đầu tư quốc tế và khi xảy ra tranh chấp thường có tính chất phức phạp. Vì vậy,
Tòa án cấp huyện, Tòa kinh tế chuyên trách (cấp tỉnh, tối cao) như hiện nay giải quyết
có mang lại hiệu quả không?

7


Thứ tư: Trên cơ sở các quan điểm và định hướng chung về cải cách tư pháp theo
tinh thần Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị, nên tiếp tục hoàn thiện thiết

chế Tòa án kinh tế.
Thứ năm: Hiện nay có ý kiến cho rằng, khi giải quyết các tranh chấp dân sự,
kinh tế, thương mại có YTNN, nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng, thì
hầu như Tòa án Việt Nam chỉ áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp
mà không viện dẫn lý do tại sao lại áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết các
tranh chấp đó (tức là dựa trên quy phạm xung đột pháp luật nào để xác định pháp luật
áp dụng là pháp luật Việt Nam)2. Như vậy, cần xây dựng phương pháp giải quyết
xung đột pháp luật để Tòa án áp dụng cho phù hợp.
Thứ sáu: Các quốc gia phát triển đã có hệ thống GQTC thương mại nói chung
và GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án tại Tòa án nói riêng phát triển, có kinh
nghiệm lập pháp và thực tiễn GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án, những kinh
nghiệm này cần tham khảo để hoàn thiện pháp luật về GQTC thương mại có YTNN
bằng Tòa án ở Việt Nam.
Thứ bẩy: Quốc hội Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam đã nhận biết
và ban hành các quy định về giải quyết vụ việc dân sự có YTNN nói chung và tranh
chấp thương mại có YTNN nói riêng để nâng cao năng lực của các chủ thể tham gia
GQTC với ý nghĩa là bộ phận có tính chất quyết định trong việc áp dụng các phương
thức GQTC trong tư pháp quốc tế nói chung và trong các quan hệ thương mại có
YTNN nói riêng. Trực tiếp thực thi các quy định pháp luật nhằm GQTC phát sinh,
bảo đảm quyền tự định đoạt các đương sự, việc thỏa thuận đúng pháp luật. Góp phần
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tranh
chấp thương mại có YTNN, góp phần duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, thúc đẩy
sự phát triển quan hệ giao lưu, hợp tác giữa các cá nhân, pháp nhân và nhà nước trong
lĩnh vực Tư pháp quốc tế nói chung và trong lĩnh vực thương mại có YTNN nói riêng.
4.2. Dự kiến nghiên cứu
Việc nghiên cứu Đề tài này sẽ đạt được các kết quả sau:

2

Bản thuyết minh "Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) của Bộ Tư Pháp.


8


Thứ nhất: Hệ thống hóa những luận điểm khoa học mang tính lý luận về tranh
chấp thương mại có YTNN và GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án.
Thứ hai: Phân tích kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở một số quốc
gia về GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án, từ đó rút ra những nguyên tắc phổ
quát khi xây dựng pháp luật GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án cho Việt Nam.
Thứ ba: Phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến GQTC
thương mại có YTNN bằng Tòa án, chỉ rõ các điểm hạn chế trong pháp luật Việt Nam
nếu áp dụng GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án trên thực tế.
Thứ tư: Xác định luận cứ khoa học, đề xuất giải pháp cụ thể để hoàn thiện các
quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến GQTC thương mại có YTNN bằng
Tòa án nhằm tạo ra khung pháp lý thuận lợi cho việc GQTC loại này ở Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ vấn đề nghiên cứu, Đề tài được xử lý trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật; những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Đây là phương thức
luận mang tính cơ sở của đề tài trong quá trình nghiên cứu. Trên cơ sở đó, đề tài làm
sáng tỏ về phương diện lí luận và chính trị của việc GQTC thương mại có YTNN
bằng Tòa án ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu đề tài,
một số phương pháp nghieê cứu cụ thể được sử dụng để thu thập, xử lý, đánh giá các
thông tin lí luận và thực tiễn liên quan đến từng nội dung và chỉ ra mối liên hệ biện
chứng giữa các thông tin này trong tổng thể các vấn đề GQTC thương mại có YTNN
bằng Tòa án ở Việt Nam hiện nay.
Phương pháp hệ thống được sử dụng để xâu chuỗi các thông tin liên quan đến
từng nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu của Để tài trong một chỉnh thể thống nhất.

Qua đó, Đề tài đánh giá, kiến nghị nhằm bảo đảm tính thống nhất giữa luật chung và
luật chuyên ngành; giữa phạm vi tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;
giữ việc khởi kiện tại Tòa án Việt Nam và Tòa án nước ngoài.
Các phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa các thông tin liên
quan đến khái niệm tranh chấp thương mại có YTNN; phân loại tranh chấp thương

9


mại có YTNN; khái niệm, ưu điểm, nhược điểm việc GQTC thương mại có YTNN
bằng Tòa án; thực trạng quy định về các tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án
Việt Nam.
Phương pháp thống kê được dụng để xác định nhu cầu GQTC thương mại có
YTNN bằng Tòa án, số lượng các tranh chấp thương mại có YTNN được thụ lí và
giải quyết tại Tòa án Việt Nam.
Phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ nội dung, ý nghĩa của các quan
điểm lí luận, quy định của pháp luật, thông tin thực tiễn về GQTC thương mại có
YTNN bằng Tòa án ở Việt Nam.
Phương pháp so sánh được sử dụng để chỉ ra những điểm tương đồng hay khác
biệt giữa các quan điểm để lập pháp về tranh chấp thương mại có YTNN, về thẩm
quyền của tòa án, về trình tự thủ tục giải quyết các tranh chấp này bằng Tòa án ở Việt
Nam hiện nay. Đồng thời chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa việc GQTC
thương mại có YTNN bằng Tòa án với phương thức tài phán Trọng tài để làm rõ vai
trò vị trí của Tòa án; những điểm tương đồng và khác biệt giữa việc GQTC thương
mại có YTNN bằng Tòa án theo các văn bản pháp luật Việt Nam và các ĐƯQT mà
Việt Nam là thành viên, ĐƯQT quan trọng trong lĩnh vực mà Việt Nam chưa có điều
kiện gia nhập.
Phương pháp lịch sử cụ thể được sử dụng để đánh giá mức độ phù hợp của các
quan điểm lập pháp; nội dung, phương pháp quy định và tổ chức thực hiện pháp luật
liên quan đến việc thống nhất pháp luật, cải cách tư pháp, đặc biệt là việc xây dựng

và thành lập Tòa án khu vực chuyên trách về thương mại quốc tế với điều kiện, hoàn
cảnh của Việt Nam.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng kết quả đều tra xã hội học của một số công trình
nghiên cứu trước đây để nhận định, đánh giá về ý thức pháp luật, tâm lí của các doanh
nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài trong việc GQTC thương mại có YTNN
bằng Tòa án ở Việt Nam để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.

6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về
GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án ở Việt Nam hiện nay, xu hướng vận động

10


trong thời gian tới; những vấn đề đặt ra trong xây dựng pháp luật về GQTC thương
mại có YTNN bằng Tòa án nhằm xử lý nhanh những mâu thuẫn, rào cản trong hoạt
động thương mại nói chung và hoạt động thương mại có YTNN nói riêng.
 Phạm vi nghiên cứu: Tranh chấp thương mại có YTNN là loại tranh chấp có
phạm vi rộng, bao gồm: tranh chấp thương mại có YTNN thuộc phạm vi nghiên cứu
của Công pháp quốc tế và tranh chấp thương mại có YTNN thuộc phạm vi nghiên
cứu của tư pháp quốc tế. Vì vậy, việc GQTC thương mại có YTNN bằng Tòa án là
loại tranh chấp thuộc lĩnh vực “tư” có YTNN và thuộc phạm vi điều chỉnh của tư
pháp quốc tế.

7. Nội dung nghiên cứu.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về tranh chấp thương mại có YTNN và GQTC
thương mại có YTNN bằng Tòa án
Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về GQTC thương mại có YTNN
bằng Tòa án

Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật GQTC thương mại có
YTNN bằng Tòa án ở Việt Nam.

11


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI VÀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI BẰNG TÒA ÁN
1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại có YTNN
1.1.1. Định nghĩa tranh chấp thương mại có YTNN
Tranh chấp thương mại có YTNN là một khái niệm mang nội hàm thương mại
- pháp lý quốc tế. Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông “tranh chấp là sự giành nhau
một cách giằng co cái không rõ về bên nào” hoặc “đấu tranh giằng co khi có ý kiến
bất đồng, thường là vấn đề quyền lợi của hai bên” hoặc Thuật ngữ “tranh chấp” theo
từ điển luật học Black’ law dictionary do West Pub Co xuất bản năm 1999 thì, “tranh
chấp chính là mâu thuẫn, bất đồng; sự mâu thuẫn về các yêu cầu hay quyền; sự đòi hỏi
về quyền, yêu cầu hay đòi hỏi từ một bên được đáp lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái
ngược của bên kia” [58, tr.17]. Như vậy, theo tác giả“tranh chấp là sự mâu thuẫn, bất
đồng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm giữa các chủ thể có liên quan khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật”.
Quá trình hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng ngày
càng được mở rộng và đi vào thực chất, khả năng phát sinh tranh chấp thương mại
quốc tế ngày càng nhiều. Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế,
cho thấy nền kinh tế các quốc gia chịu sự ảnh hưởng và bị tác động mạnh bởi quá
trình này. Đặc biệt đối với các nước đã là thành viên của WTO, việc áp dụng các quy
định của WTO về thương mại phải được áp dụng là bắt buộc và cần thiết. Ngoài ra,
đối tượng điều chỉnh theo Hiệp định BTA được hiểu theo một nghĩa rất rộng, theo
quan điểm hiện đại như quan điểm của WTO. Đó là các quan hệ thương mại giữa

Việt Nam và Hoa Kỳ xoay quan bốn lĩnh vực thương mại được quy định trong bốn
chương thuộc nội dung của Hiệp định [65, tr43]. Cụ thể là: Chương I quy định về
thương mại hàng hóa; Chương II quy định về quyền SHTT; Chương III quy định về
thương mại dịch vụ và Chương IV quy định về phát triển quan hệ đầu tư. Điều này
cho thấy quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa kỳ nói riêng và quan hệ thương mại

12


toàn cầu nói chung đã bước sang một gia đoạn phát triển mới và điều này cho thấy
đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của LTM quốc tế. Hay nói cách khác, để điều
chỉnh từng nhóm quan hệ thương mại trong bốn nhóm trên, khi xây dựng các quy
phạm pháp luật, quốc gia cần phải chú ý đến đặc điểm của từng nhóm quan hệ thương
mại cụ thể này để đưa ra những nguyên tắc và phương thức điều chỉnh thích hợp.
UNCITRAL là một thiết chế pháp lí quốc tế, có vai trò đáng kể với sự phát
triển của các hoạt động thương mại quốc tế “tư”, cụ thể: UNCITRAL đã hướng đến
việc soạn thảo luật mẫu, nhằm cung cấp khung pháp lí cho các nước phê chuẩn và
xây dựng pháp luật nước mình tương thích với luật mẫu sao cho phù hợp với nhu cầu
các nước. Tại Điều 1 Luật Mẫu của UNCITRAL về TTTM quốc tế cũng đưa ra khái
niệm hoạt động thương mại với nội hàm rất rộng liên quan đến tất cả các quan hệ
mang bản chất thương mại, dù phát sinh từ hợp đồng hoặc không từ hợp đồng, như
sau: “Mọi giao dịch thương mại về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thỏa
thuận phân phối sản phẩm; đại diện thương mại; ủy thác thu nợ; các dịch vụ cho thuê
tài chính; xây dựng nhà máy; dịch vụ tư vấn; dịch vụ thiết kế; cho thuê bằng phát
minh sáng chế; đầu tư; tài trợ; giao dịch ngân hàng; bảo hiểm; hợp đồng khai thác
hoặc đấu thầu; liên doanh, liên kết và các phương thức hợp tác công nghiệp, thương
mại khác; vận tải hàng hóa, hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt,
hoặc đường bộ”.
Từ những phân tích ở trên, tác giả cho rằng hoạt động thương mại quốc tế “tư”
gồm bốn lĩnh vực: thương mại hàng hóa, thương mại dịc vụ, thương mại liên quan

đến quyền SHTT và đầu tư. Do vậy, các tranh chấp thương mại có YTNN cũng sẽ
phát sinh từ bốn lĩnh vực này.
Khi nói đến tính chất quốc tế trong một quan hệ thương mại, các nhà kinh tế
học trên thế giới đã đưa ra nhiều định nghĩa, cụ thể: Giáo sư, nhà kinh tế học Michael
R Czinkota của trường Đại học Georgetown, Hoa kỳ cho rằng “Kinh doanh quốc tế
bao gồm trao đổi được đặt ra và tiến hành vượt qua biên giới quốc gia để thỏa mãn
các đối tượng là cá nhân và tổ chức”. Còn Tiến sĩ Charles W.L.hill, Giáo sư tại Đại
học Washington, Hoa Kỳ lại đưa ra một khái niệm khác. Theo ông, “hành vi kinh
doanh quốc tế là việc một doanh nghiệp tiến hành một hoạt động thương mại quốc tế

13


hay đầu tư quốc tế”. Thương mại quốc tế xuất hiện khi một doanh nghiệp xuất khẩu
hàng hóa hoặc dịch vụ cho người tiêu dùng ở một quốc gia khác, còn đầu tư quốc tế
là việc doanh nghiệp đầu tư vào nguồn lực vào các hoạt động kinh doanh bên ngoài
nước mình. Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu đưa ra quan điểm: “Kinh doanh quốc
tế là tổng hợp toàn bộ các giao dịch kinh doanh vượt ra các biên giới của hai hay
nhiều quốc gia [56, tr17-18]. Như vậy, tính chất quốc tế trong các giao dịch kinh
doanh quốc tế được hiểu là các hành vi vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia.
Xét dưới góc độ của một quan hệ pháp luật, quan hệ thương mại có YTNN là
quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của luật “tư” có YTNN và cũng được cấu thành từ
những yếu tố về: chủ thể, khách thể, nội dung, và sự kiện pháp lý. Trong khoa học
pháp lí, khái niệm YTNN là một khái niệm cơ bản và là dấu hiệu để phân biệt với các
quan hệ khác thuộc đối tượng điều chỉnh của luật “tư”. Ở các nước có hệ thống luật
“tư” phát triển, đặc biệt là những nước đã xây dựng được Luật Tư pháp quốc tế (Thụy
Sỹ, Bỉ, Ý), cho thấy cả 3 Bộ luật này đều không có khái niệm về YTNN. Đối với
nước Nga và Việt Nam lại có định nghĩa này trong BLDS, theo đó: “Quan hệ dân sự
có YTNN là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức,
cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân

sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài
hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài” [80, Điều 758]. Trong đó “Quan
hệ dân sự có YTNN” là: a) Các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại và lao động có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá
nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; b) Các quan hệ dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động mà các bên tham gia là công
dân, tổ chức Việt Nam, nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt theo pháp luật
nước ngoài, phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước
ngoài [21, Khoản 1, Điều 3]. Bên cạnh đó cũng có quy định về: “Vụ việc dân sự có
YTNN là vụ việc dân sự có ít nhất một trong các đương sự là người nước ngoài, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc các quan hệ dân sự giữa các đương sự là công
dân, cơ quan , tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan

14


hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài” [85, Khoản 2 Điều 405]. Điều này cho thấy, pháp luật Việt
Nam quy định về quan hệ kinh doanh, thương mại có “YTNN” là một quan hệ dân
sự có YTNN. Quan hệ này khác với các quan hệ kinh doanh, thương mại không có
YTNN ở một trong ba dấu hiệu sau đây:
(i) Về chủ thể: quan hệ thương mại có YTNN là quan hệ có ít nhất một trong
các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài. Chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại gọi là thương nhân, thương
nhân nước ngoài cũng có thể là tổ chức, có thể là cá nhân.
Nếu thương nhân là cá nhân thì được hiểu bao gồm cả cá nhân nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Theo Điều 3 Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày
15 tháng 11 năm 2006, quy định chi tiết thi hành các quy định của BLDS về quan hệ
dân sự có YTNN thì: “Người nước ngoài” là người không có quốc tịch Việt Nam,

bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch (khoản 2); còn
“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” là người có quốc tịch Việt Nam và người
gốc Việt Nam đang cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài (khoản 3).
Nếu thương nhân nước ngoài không phải là cá nhân, thì theo Điều 3 Nghị định
138/2006/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2006, quy định chi tiết thi hành các quy định
của BLDS về quan hệ dân sự có YTNN cũng có hai trường hợp: “Cơ quan, tổ chức
nước ngoài” là các cơ quan, tổ chức không phải là cơ quan, tổ chức Việt Nam được
thành lập theo pháp luật nước ngoài, bao gồm cả cơ quan, tổ chức quốc tế được thành
lập theo pháp luật quốc tế (khoản 4) và “Pháp nhân nước ngoài” là pháp nhân được
thành lập theo pháp luật nước ngoài (khoản 5).
Sự phong phú của các chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại có YTNN,
cho thấy các quốc gia ngày cũng tham gia nhiều vào các quan hệ thương mại với các
pháp nhân và công dân nước ngoài. Điều này cũng dễ hiểu vì sao quốc gia lại có thể
trở thành một bên chủ thể trong một tranh chấp thương mại “tư” có YTNN.
(ii) Về khách thể của quan hệ thương mại có YTNN: một quan hệ thương mại
ở nước ngoài là quan hệ mà khách thể của quan hệ này tồn tại ở nước ngoài. Khách
thể của quan hệ thương mại này có thể là tài sản hoặc lợi ích khác. Khách thể trong

15


hoạt động thương mại này, thể hiện ở việc có sự di chuyển của hàng hóa, dịch vụ,
vốn… từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại. Từ việc phân tích nội hàm của hoạt
động thương mại, tác giả cũng cho rằng khách thể trong một quan hệ thương mại có
YTNN cũng bao gồm: hàng hóa, dịch vụ, quyền SHTT, hoạt động đầu tư được đưa
từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại. Còn các chủ thể tham gia quan hệ thương
mại trong trường hợp này đều là các thương nhân Việt Nam.
(iii) Về sự kiện pháp lý: là căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ thương
mại có YTNN xảy ra ở nước ngoài hoặc theo pháp luật nước ngoài. Quan hệ thương
mại phát sinh giữa các chủ thể đều là các thương nhân Việt Nam nhưng sự kiện pháp

lý xảy ra ở nước ngoài (nơi ký kết, thực hiện hợp đồng…).
Tóm lại, qua những phân tích nói trên, có thể thấy, tranh chấp thương mại có
YTNN là tranh chấp không chỉ xảy ra trong phạm vi một quốc gia mà được diễn ra
tại hai hay nhiều quốc gia (tức là vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia). Tranh
chấp thương mại có YTNN có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, riêng tác giả
cho rằng: “tranh chấp thương mại có YTNN là sự mâu thuẫn, bất đồng về quyền, nghĩa
vụ và trách nhiệm giữa các chủ thể có liên quan khi tham gia vào các quan hệ thương
mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến quyền SHTT và thương
mại đầu tư có mục đích sinh lời. YTNN được xác định một trong ba dấu hiệu: Chủ thể
trong tranh chấp quan hệ thương mại là các thương nhân có quốc tịch, nơi cư trú,
nơi có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau; hoặc tranh chấp phát sinh từ các
quan hệ thương mại giữa các bên tham gia là thương nhân Việt Nam nhưng căn cứ
để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại
nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
1.1.2. Đặc điểm tranh chấp thương mại có YTNN
Từ những sự phân tích ở trên, cho thấy tranh chấp thương mại có YTNN trước
hết có các đặc điểm của một tranh chấp thương mại trong nước. Do đó, các tranh chấp
thương mại có YTNN cũng đều phát sinh từ hoạt động nhằm mục đích sinh lời. So
với các tranh chấp thương mại trong nước, tranh chấp thương mại có YTNN có những
đặc điểm khác biệt. Cụ thể là:

16


Thứ nhất, Tranh chấp thương mại có YTNN là tranh chấp phát sinh chủ yếu
giữa các thương nhân có quốc tịch, trụ sở hoặc nơi cư trú ở các nước khác nhau.
Các dấu hiệu “quốc tịch, trụ sở hoặc nơi cư trú” của các thương nhân ở các nước
khác nhau sẽ làm cho địa vị pháp lý của các bên tranh chấp luôn chịu sự điều chỉnh
ít nhất hai hệ thống pháp luật. Thông thường pháp luật của nước mà thương nhân
mang quốc tịch sẽ điều chỉnh những vấn đề pháp lý riêng của thương nhân, như: điều

kiện trở thành thương nhân, đại diện thương nhân, chấm dứt tư cách thương nhân,
giải quyết vấn đề tài sản khi thương nhân chấm dứt hoạt động. Khi thương nhân tiến
hành hoạt động thương mại tại nước nào thì hệ thống pháp luật nước đó sẽ điều chỉnh
những vấn đề như: cho phép thương nhân được hoạt động trong những lĩnh vực
thương mại nào; quyền và nghĩa vụ khi tham gia vào những hoạt động thương mại
đó. Như vậy, việc xác định địa vị pháp lý của các bên tranh chấp sẽ phức tạp hơn rất
nhiều so với tranh chấp chỉ phát sinh từ một quan hệ thương mại trong nước.
Thứ hai, Tranh chấp thương mại có YTNN là tranh chấp phát sinh từ những
giao dịch kinh doanh thương mại có giá trị lớn.
Các giao dịch liên quan đến hoạt động thương mại có YTNN thường có giá trị
rất cao so với các giao dịch thương mại không có YTNN. Vì vậy, giá trị tranh chấp
trong hoạt động thương mại có YTNN cũng thường cao hoặc liên quan đến trách
nhiệm của nhiều chủ thể (bên vận chuyển, bên bảo hiểm, người tiêu dùng, người sản
suất: người nông dân có thể bị giảm hoặc ứ đọng sản phẩm do không tiêu thụ được...).
Các bên tranh chấp thường có tâm lý rất thận trọng trong quá trình GQTC để tránh
mất đi những khoản lợi nhuận cao hay tránh bị thua thiệt. Vì vậy, việc GQTC cũng
sẽ rất phức tạp và quyết liệt, vì khi tranh chấp phát sinh không được giải quyết kịp
thời có thể làm gián đoạn hoạt động kinh doanh khác và tác động đến lợi ích của
nhiều đối tượng.
Thứ ba, Tranh chấp thương mại có YTNN là tranh chấp thường được xử lý
trong một khoảng thời gian kéo dài.
Các bên tranh chấp trong hoạt động thương mại có YTNN thường có quốc
tịch, nơi cư trú hoặc có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau nên ngôn ngữ, tập
quán, văn hóa kinh doanh của các bên tranh chấp cũng rất xa lạ với nhau. Do vậy,

17


một trong những thách thức đặt ra trong quá trình GQTC, đó là các bên phải đối mặt
với những vấn đề pháp lý rất phức tạp và đa dạng. Chẳng hạn như: phải biên dịch hồ

sơ vụ kiện, tìm hiểu phong tục tập quán, đặc biệt phải nghiên cứu và nắm bắt những
hệ thống pháp luật nước ngoài có liên quan đến tranh chấp. Chính vì vậy, thời gian
giải quyết một tranh chấp thương mại có YTNN sẽ bị kéo dài hơn so với việc giải
quyết một tranh chấp thương mại không có YTNN.
Thứ tư, Tranh chấp thương mại có YTNN được giải quyết rất khó khăn.
Tòa án thương mại là cơ quan tài phán nước ngoài đối với một hoặc cả hai bên
tranh chấp, cơ quan tài phán này có thể là của nước mà nguyên đơn hoặc bị đơn có
quốc tịch, có nơi cư trú, có trụ sở hoặc một nước thứ ba nào đó có mối liên hệ với
tranh chấp. Tuy nhiên, khi có sự xuất hiện của cơ quan tài phán ở các quốc gia khác
nhau sẽ gặp phải các vần đề khó khăn và phức tạp ở chỗ:
Một là, xuất phát từ nguyên lí một quốc gia có chủ quyền đều có quyền ban
hành pháp luật để xác định thẩm quyền cho cơ quan tài phán mình ngay cả đối với
các quan hệ thương mại có YTNN và ngược lại, quốc gia nước ngoài cũng có quyền
ban hành pháp luật để xác định thẩm quyền cho cơ quan tài phán mình đối với tranh
đó. Chính vì vậy, một tranh chấp thương mại có YTNN sẽ thuộc thâm quyền giải
quyết của ít nhất hai cơ quan tài phán của hai quốc gia. Hay nói cách khác, Tòa án
của một quốc gia không có thẩm quyền đương nhiên để GQTC thương mại có YTNN.
Vì vậy, nếu các bên không thỏa thuận thống nhất để trao thẩm quyền cho Tòa án một
quốc gia GQTC, thì khi xảy ra tranh chấp các bên sẽ bị động và lung túng bởi không
biết cơ quan tài phán của quốc gia nào sẽ có thẩm quyền. Như vậy, nếu khi tham gia
vào hoạt động thương mại có YTNN, nếu không hiểu được điều này và không thỏa
thuận về điều khoản GQTC thì khi tranh chấp xảy ra sẽ gặp phải khó khăn vì các bên
không biết kiện ra cơ quan tài phán của nước nào.
Hai là, việc lựa chọn Tòa án của nước nào giải quyết cũng rất khó khăn. Mỗi
bên đều muốn lựa chọn cơ quan Tòa án của nước mình, thông thường mỗi bên tranh
chấp chỉ hiểu rõ pháp luật của nước mình, hiểu rõ quy trình GQTC theo hệ thống
pháp luật nước mình đó. Cho nên, lo sợ việc GQTC tại Tòa án của phía bên tranh
chấp kia sẽ không đảm bảo sự khách quan, không bảo vệ được lợi ích của mình. Đặc

18



×