Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.31 KB, 28 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH
I. CHO THUÊ TÀI CHÍNH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.Sơ lược lịch sử tổ chức hoạt động cho thuê tài chính trên thế giới
Cho thuê tài sản là một công cụ tài chính đã được sáng tạo từ rất sớm
trong lịch sử văn minh nhân loại. Theo các thư tịch cổ, các giao dịch cho thuê
tài sản đa xuất hiện từ năm 2800 trước CN tại thành phố của người Sumerian
của người UR. Các thầy tu giữ vai trò người cho thuê, người thuê là những
nông dân tự do. Tài sản được đem ra giao dịch thường là công cụ sản xuất
nông nghiệp. Vào khoảng năm 1700 trước CN, vau Babilon là Hamnurabi đã
ban hnàh nhiều văn bản quan trọng tạo thành một bộ luật lớn, trong đó có
đưa những qui định về hoạt động cho thuê tài sản. trong các nền văn minh cổ
đại khác như Hy Lạp, Lã Mã hay Ai Cập cũng xuất hiện các hình thức cho thuê
để tài trợ cho việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất. Có thể nói rằng,
rất nhiều vấn đề giao dịch thuê mua ngày nay gặp phải đã được giải quyết từ
nhiều thế kỷ trước. Tuy nhiên các giao dịch thuê mua thời cổ đại thuộc hình
thức thuê mua kiểu truyền thống (Traditional Lease). Phương thức giao dịch
của hình thức này tương tự như hình thức thuê vận hành ngầy nay và trong
lịch sử hàng ngàn năm tồn tại của nó đã không có sự thay đổi lớn nào về tính
chất giao dịch.
Đầu thế kỷ 19, hoạt động thuê mau đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng
và chủng loại thiết bị, tài sản cho thuê. Đến đầu thập niên 50 của thế kỷ này,
giao dịch thuê mau đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhất là tại Hoa Kỳ.
Nguyên nhân của sự phát triển này là do hoạt động thuê mua đã có những
thay đổi về tính chất của gia dịch. Đó là sự xuất hiên của nghiệp vụ chi thuê tài
chính (Finace Leasing). Nó xuất hiện đầu tiên ở Hoa Kỳ, do công ty tư bản
Unitel State Leasing Corporation sáng tạo ra. Sau đó nghiệp vụ Leasing phát
triển sang Châu Âu và đã được ghi vào luật thuê mau của Pháp, năm 1960 với
tên gọi “Crédit Bail”. Cũng năm 1960 hợp đồng thuê mau đầu tiên đã được
thảo ra ở Anh.
Từ khi xuất hiện hình thức cho thuê tài chính, các hoạt động giao dịch
thuê mua đã có những bước phát triển hết sức mạnh mẽ cả về chủng loại tài


sản, thiết bị và khối lượng giao dịch. Trong giao dịch chi thuê mua ngày nay,
các công ty chi thuê tài chính (Leasing) có thể thuê những nhà máy hoàn chỉnh
theo phương thức chìa khoá trao tay. Đồng thời về mặt chủng loại, hoạt động
thuê mau bao gồm từ các thiết bị, dụng cụ văn phòng cho tới những toà nhà
lớn. Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ tổng số vốn thiết bị cho thuê năm 1987 ước tính
lên tới 107,9 tỷ USD và có tốc độ gia tăng 7% mỗi năm. Ngày nay nghành thuê
mua thiết bị Hoa Kỳ chiếm khoảng 25% - 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao
dịch mua bán thiết bị hàng năm. Còn ở Anh theo các số liệu của Hiệp Hội Tín
Dụng thuê mua thiết bị, thì năm 1993, thuê vận hành chiếm khoảng 20% vốn
tài trợ cho các hoạt động thuê mua của nước Anh, tổng giá trị thuê mua đạt
khoảng 60 tỷ USD. Đối với các nước Châu Á, thuê tài chính cũng đã có những
bước phát triển đáng kể bắt đầu từ thập niên 70 và không có một chuẩn mực
nào đối với tổ chức hoạt động của công ty Leasing. Chỉ có 2 nước là Hàn Quốc
và Philipin là có luật Leasing, còn các nước khác hoạt động của công ty
Leasing do các luật khác chi phối như luật thuế, luật thương mại, luật đầu tư…
Ở các khu vực khác hoạt động cho thuê tài chính cũng có những bước phát
triển mạnh mẽ, nhất là trong những năm gần đây là do nó là một hình thức tài
trợ có tính an toàn cao, tiện lợi và có hiệu quả đối với các bên tham gia. Theo
các số liệu thống kê cho thấy năm 1994 nghành công nghiệp cho thuê mua thế
giới có giá trị trao đổi chiếm khoảng 350 tỷ USD.
2. Định nghĩa về Leasing.
Điều đầu tiên cần được xem xét là thuật ngữ Leasing. Thực chất nên gọi
phương thức finance leases là tài trợ thuê mua, tín dụng thuê mua hay cho
thuê tài chính.
Về cơ bản, vấn đề đang đề cập ở đây được ’’du nhập” từ nước ngoài, từ
tiếng Anh là finance lease (một số tài liệu gọi là leasing, capital lease) hay
tiếng Pháp là crédit-bail. Chính từ những chữ tiếng Anh :fiance là tài chính hay
tài trợ còn lease là thuê nên các nhà dịch thuật đã đưa ra nhiều tên gọi như :
Cho thuê tài chính, leasing, tài trợ thuê mua, cho thuê vốn...Trong tiếng Pháp
crédit là tín dụng còn bail có nghĩa là thuê nên có thể dịch là tín dụng thuê

mua
Khi dịch từ tiếng nước ngoài thì thuật ngữ không cần bám sát từ mà cần
đảm bảo khái quát được bản chất của sự vật hiện tượng mà thuật ngữ đang
mô tả.
Nếu gọi là cho thuê tài chính theo các văn bản chính thức qui định thì
liệu phải hiểu tài chính ở đây là gì, ngay cả khái niệm về tài chính cũng được
hiểu theo nhiều các khác nhau. Điều này dễ dẫn đến khó khăn cho những
người muốn tìm hiểu về loại hình nghiệp vụ mới này. Mặt khác, ở đây đối
tượng các công ty cho thuê lại là tài sản.
Nếu dịch là cho thuê theo phương thức thuê mua thì khá chuẩn về mặt
bản chất của nghiệp vụ. Nghĩa là, việc cho thuê tài sản đồng thời bên thuê có
thể mua lại tài sản theo một giá đã thoả thuận nếu bên thuê trả đủ tiền thuê
và tuân thủ các điều kiện của hợp đồng.
Như vậy, nếu dùng chính xác thì nên gọi finance lease hay leasing là cho
thuê theo phương thức thuê mua hay thuê mua.(cho thuê theo phương thức
thuê mua khi đứng trên giác độ bên cho thuê, còn thuê mua trên giác dộ bên
thuê). Tuy nhiên vấn đề thuật ngữ không đóng vai trò quá quan trọng mà ở
đây là cần hiểu đúng và chính xác vấn đề, trong bài sẽ tiếp tục sử dụng thuật
ngữ cho thuê tài chính theo như các văn bản chính thức và đang được sử dụng
phổ biến hiện nay.
Khái niệm cho thuê tài chính cũng không được định nghĩa chuẩn. Thuê tài
chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hay dài hạn không thể huỷ
ngang. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị mà
người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện thuê tài sản đó với
nhà cung cấp hoặc người cho thuê cung cấp tài sản của họ cho thuê. Tuỳ theo
qui định của từng quốc gia, được coi là thuê tài chính khi thời hạn thuê
thường chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của
toàn bộ các toàn bộ các khoản tiền cho thuê phải đủ để bù đắp những chi phí
mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng. Mỗi nước trên thế giới định nghĩa
khác nhau về cho thuê tài chính do luật pháp của nước đó chi phối, đặc biệt là

luật thuế.
Theo Nghị định 64/CP ngày 9/10/1995 của Chính Phủ “ Quy chế tạm thời
về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính “ qui định “ Cho thuê tài
chính là hoạt động tín dụng trung dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc
thiết bị và các động sản khắc. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và
động sản theo yêu cầu của bên thuê còn bên thuê thanh toán tiền thuê trong
suốt thời hạn thuê được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng
trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu,
mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong
hợp đồng thuê “.
Từ những qui định chung trên đã tạo ra nhiều phương thức cho thuê tài
chính khác nhau nhưng tất cả đều có một qui trình cơ bản như sau ( các loại
khác cũng có thể coi là phái sinh của phương thức này ).
Công ty
cho thuê tài chính
Hợp đồng mua bán Hợp
đồng cho thuê
Thanh toán
Thanh toán
tiền thuê

Thoả thuận về lựa chọn máy móc, thiết bị
Nhà cung cấp Bên thuê
Máy móc thiết bị Giao hàng, lắp đặt và bảo dưỡng
3. Đặc điểm của Leasing
Thực tế cho thấy việc đưa ra những tiêu chuẩn nhận dạng cụ thể, rõ ràng
về giao dịch cho thuê tài chính là một vấn đề cần được quan tâm. Một hệ thống
tiêu chuẩn chính xác sẽ góp phần. phân định rõ ràng giao dịch cho thuê tài
chính với các giao dịch thương mại cũng như các hoạt động tài chính khác. Từ
đây tránh được sự trùng lắp, mâu thuẫn của những văn bản pháp luật không

phù hợp. Thế nhưng, khi nói đến đặc điểm của cho thuê tài chính thì vẫn chưa
có sự thống nhất giữa các quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế. Có thể liệt kê
một số nhóm đặc điểm mà các nước, các tổ chức đưa ra để nhận dạng cho
thuê tài chính như sau :

Thứ nhất, theo IASC, nghiệp vụ nào thoả mãn một trong bốn điều kiện
sau thì được xem là cho thuê tài chính:
+ Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hợp đồng hết hạn
+ Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua.
+ Thời giá của tổng các khoản tiền thuê lớn hơn hoặc bằng giá trị của
tài sản.
+ Hiện giá của các khoản tiền thuê gần bằng hoặc lớn hơn giá trị thị
trường của tài sản.
Thứ hai: theo Hiệp định thống nhất luật dân sự về tín dụng thuê mua
quốc tế do Hiệp hội tín dụng thuê mua quốc tế thoả thuận thì giao dịch thuê
mua gồm những đặc điểm sau :
+ Người thuê chỉ rõ thiết bị và lựa chọn nhà cung cấp không phụ thuộc
vào những kỹ năng và ý kiến của người cho thuê.
+ Thiết bị được đề cập trong thoả thuận thuê mua do người cho thuê
mua theo thoả thuận giữa người cho thuê và người thuê, trong tình trạng
mà người thuê biết rõ nhà cung cấp.
+ Những khoản tiền thuê phải trả theo thoả thuận của thuê mua được
tính theo phương thức trả dần hay trả ngay một phần đáng kể chi phí mua
thiết bị.
Thứ ba: theo tiêu chuẩn của Uỷ ban kế toán Hoa Kỳ thì giao dịch thuê
mua là giao dịch thoả mãn những điều kiện :
+ Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho người đi thuê khi chấm
dứt hợp đồng thuê.
+ Hợp đồng thuê cho phép người đi thuê được quyền chọn mua tài sản
thuê với giá thấp hơn ở một thời điểm nào đó hay đến khi chấm dứt thời

hạn thuê.
+ Thời hạn thuê phải bằng 75% hoặc cao hơn đời sống hoạt động ước
tính của tài sản thuê
+ Giá trị hiện tại của các khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu là 90% so với giá
trị tài sản thuê.
Nhìn chung trong luật của nhiều quốc gia thì tuỳ vào tình hình cụ thể mà
những nhà làm chính sách có một số thay đổi liên quan đến đặc điểm của tín
dụng thuê mua. Trên cơ sở các tiêu chuẩn phân loại của ISAC, mỗi quôc gia
đều có những qui định cụ thể trong luật thuê mua của họ dựa trên những điều
kiện cụ thể của mỗi nước. Những qui định này có những khác biệt nhất định,
song về cơ bản chúng không mâu thuẫn và tuỳ theo mức độ những qui định
này có thể chi tiết, cụ thể hơn. Chẳng hạn như quyền chon mua tài sản thuê khi
kết thúc hợp đồng ở Anh, Nhật, Hàn quốc, Thái Lan, Pakistan là không bắt
buộc trong khi đó ở các quốc gia khác như Mỹ, anh Nhật và Việt nam là bắt
buộc, nhưng một số quốc gia khác thì bị cấm như Malaysia, Singapore, ấn Độ.
Thời hạn thuê tính theo đời sống hữu dụng của tài sản thuê thì ở Anh là phần
lớn, ở Mỹ là ≥ 75 % tối đa không quá 30 năm, ở Nhật đối với loại tài sản < 10
năm thì tối đa là 70%, còn với tài sản >10 năm là 60% và không quá 120%, với
Hàn Quốc tài sản nhỏ hơn 5 năm là 70% còn lại là 60%, ở nước ta qui định
chung là lớn hơn 75%. Hiện giá các khoản tiền thuê tối tiểu so với giá trị hợp
lý của tài sản thì ở Indonexia thì là trả đủ tiền thuê, Hàn Quốc thì không qui
định, với Việt Nam và đa số các nước thì qui định ≥ 90%.
Tại Việt nam, Thể lệ tín dụng thuê mua đã quy định 3 tiêu chuẩn làm cơ
sở phân biệt thuê mua tại điều 7 và Hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp
ban hành theo quyết dịnh số 1025 TC/CĐKT ngày 14/12/1994 của Bộ trưởng
bộ Tài chính cũng quy định 4 tiêu chuẩn để phân biệt thuê mua với các hình
thức thuê khác.
Cụ thể như sau :
Theo thể lệ tín dụng thuê mua, một giao dịch tín dụng thuê mua phải đáp
ứng ít nhất một trong những yêu cầu sau :

+ Khi kết thúc thời hạn thuê theo hợp đồng tín dụng thuê mua, quyền
sở hữu tài sản thuê được chuyển cho bên thuê hoặch bên thuê có quyền
được lựa chọn quyền mua tài sản thuê theo một mức giá danh nghĩa được
thoả thuận từ trước, thấp hơn giá trị thực tế của tài sản vào ngày mua lại
tài sản hay tiếp tục thuê tài sản đó.
+ Thời hạn thuê ít nhất phải bằng 60 % thời gian cần thiết để khấu
hao tài sản thuê.
+ Tổng số tiền thuê do bên thuê thanh toán cho tổ chức tín dụng trong
thời hạn thuê ít nhất phải tương đương với giá trị thị trường của tài sản
thuê vào thời điểm ký hợp đồng.
Hiện nay, Thể lệ tín dụng thuê mua đã được thay thế bằng Quy chế được
ban hành kèm theo Nghị định 64CP về hoạt động của công ty cho thuê tài
chính. Những đặc điểm trong quy chế này đưa ra hoàn toàn trùng hợp với quy
định của Bộ tài chính :
Quy chế chỉ ra: Nghiệp vụ cho thuê tài chính phải thoả mãn một trong 4
điều kiện sau:
+ Khi kết thúc thời hạn thuê hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở
hữu tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của 2 bên
+ Nội dung hợp đồng thuê có quy định khi kết thức thời hạn thuê, bên
thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa hoặc thấp
hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại.
+ Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phảI bằng 60% thời gian cần
thiết để khấu hao tài sản thuê.
+ Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy đinh tại hợp đồng thuê, ít nhất
phải tương đương với giá tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp
đồng.
Qua các đặc điểm trên, nhìn chung tuy có một số điểm khác nhau nhưng
đặc điểm chung về cho thuê tài chính đều quan tâm đến những điểm chính
sau :


Đối tượng cho thuê là những động sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Như vậy hàng hoá sử dụng cho tiêu dùng cá nhân không được áp dụng ở đây.


Người thuê có quyền lựa chọn tài sản thuê.


Người thuê sử dụng hầu hết thời gian hữu dụng của tài sản ( thường
chiếm 60%-70% )


Người thuê sở hữu tài sản thuê trong suốt thời hạn thuê. Phần lớn các
chi phí bảo trì, bảo hiểm, rủi ro thuế và các lợi ích phát sinh trong quá trình sử
dụng tài sản được chuyển từ người cho thuê sang người thuê.


Hợp đồng cho thuê tài chính là một loại hợp đồng không được huỷ
ngang.


Kết thúc hợp đồng thuê bên thuê có quyền mua lại tài sản thuê với giá
tượng trưng đã được dự liệu trước trong hợp đồng hoặc bên cho thuê chuyển
giao quyền sở hữu hay người thuê cũng có thể tiếp tục thuê tài sản hay làm
đại lý bán tài sản đó tuỳ theo sự uỷ quyền của người cho thuê.
4. Phân biệt Leasing với các hoạt động khác
Khi nói đến đặc điểm của một sự vật hiện tượng, ngoài việc nêu được
bản chất thì còn phải chỉ ra được sự khác biệt của sự vật hiện tượng đó với
các sự vật hiện tượng gần tương đồng khác. Đối với cho thuê tài chính thì phải
phân biệt được các hoạt động: vay vốn ngân hàng mua sắm trang thiết bị hay
thuê vận hành.

a. Vay vốn Ngân Hàng mua sắm trang thiết bị.
Cho thuê tài chính là một biện pháp tài chính thay thế việc vay vốn ngân
hàng để tài trợ việc mua sắm thiết bị. Tuy nhiên giữa đi thuê tài chính và vay
vốn ngân hàng có những điểm giống và khác nhau

Tiêu thức Thuê tài chính
Vay vốn trung dài hạn của
Ngân Hàng
Hình thức tài trợ Bằng hiện vật Bằng tiền
Đối tượng Các loại động sản Động sản và bất động sản
Quyền sở hữu
Do bên cho thuê chiếm giữ cho
đến khi quyền mua của bên
thuê đươc thực hiện
Bên đi vay chiếm giữ
ngay từ đầu
b. Thuê vận hành
Thuê vận hành đã có lịch sử rất lâu đời nên còn được gọi là tuê mua kiểu
truyền thống (Traditional Lease). Hình thức thuê vận hành có thể coi là một
loại hợp đồng để chấp hành, tài sản không được ghi chép vào sổ sách kế toán
của người thuê mà phần tiền trả theo thoả thuận được ghi như mọi khoản chi
phí bình thường khác. Trong hợp đồng này không dự kiến chuyển giao quyền
sở hữu thiết bị khi hết hạn thuê.




Sự phân loại giữa thuê vận hành và thuê tài chính dựa trên hai căn cứ cơ
bản là:
- Những rủi

×