Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHO THUÊ TÀI SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.68 KB, 28 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHO THUÊ TÀI SẢN
I. Cho thuê tài sản trong nền kinh tế thị trường.
DẪN NHẬP: Hình thức tài trợ thông qua cho thuê tài sản (hay còn gọi là Leasing) đã có lịch
sử lâu đời và diễn ra trong hầu hết mọi hoạt động kinh doanh, thuộc nhiều khu vực trên thế giới.
Tuy nhiên từ khi xuất hiện phương thức cho thuê tài chính thì loại hình tài trợ này đã có những
bước phát triển vượt bậc về qui mô và phạm vi địa lý. Ngày nay nó đã trở thành một hình thức tài
trợ vốn cho kinh doanh khá phổ biến trên thế giới. Sự phát triển về qui mô tài trợ cũng diễn ra rất
nhanh chóng và ngành cho thuê đã chiếm một phần rất quan trọng trong thụ trường máy móc
thiết bị và thị trường vốn của nền kinh tế thế giới. Song song với sự phát triển về chiều rộng, sự
phát triển về chiều sâu cũng diễn ra rất sôi động ngành cho thuê thế giới đã tạo ra nhiều phương
thức tài trợ khác nhau. Những kiểu tài trợ này đan xen tạo ra những biến thể rất phong phú và
đa dạng. Với mục đích nhận diện các phương thức của cho thuê tài sản chương I sẽ phân tích vào
2 loại hình thông dụng là thuê vận hành và thuê tài chính. Thuê vận hành là hình thức cho thuê có
từ lâu đời và không phức tạp nhiều nên phần phân tích sẽ chủ yếu tập trung vào cho thuê tài
chính, một hình thức mới với Việt Nam, đang có những bước phát triển nhảy vọt.
1.Sơ lược lịch sử tổ chức hoạt động cho thuê tài sản trên thế
giới
Cho thuê tài sản là một công cụ tài chính đã được sáng tạo từ rất sớm trong lịch sử
văn minh nhân loại. Theo các thư tịch cổ, các giao dịch cho thuê tài sản đa xuất hiện từ
năm 2800 trước CN tại thành phố của người Sumerian của người UR. Các thầy tu giữ vai
trò người cho thuê, người thuê là những nông dân tự do. Tài sản được đem ra giao dịch
thường là công cụ sản xuất nông nghiệp. Vào khoảng năm 1700 trước CN, vau Babilon là
Hamnurabi đã ban hành nhiều văn bản quan trọng tạo thành một bộ luật lớn, trong đó có
đưa những qui định về hoạt động cho thuê tài sản. trong các nền văn minh cổ đại khác
như Hy Lạp, Lã Mã hay Ai Cập cũng xuất hiện các hình thức cho thuê để tài trợ cho việc sử
dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất. Có thể nói rằng, rất nhiều vấn đề giao dịch thuê
mua ngày nay gặp phải đã được giải quyết từ nhiều thế kỷ trước. Tuy nhiên các giao dịch
thuê mua thời cổ đại thuộc hình thức thuê mua kiểu truyền thống (Traditional Lease).
Phương thức giao dịch của hình thức này tương tự như hình thức thuê vận hành ngầy
nay và trong lịch sử hàng ngàn năm tồn tại của nó đã không có sự thay đổi lớn nào về tính
chất giao dịch.


Đầu thế kỷ 19, hoạt động thuê mau đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và chủng
loại thiết bị, tài sản cho thuê. Đến đầu thập niên 50 của thế kỷ này, giao dịch thuê mau đã
có những bước phát triển nhảy vọt, nhất là tại Hoa Kỳ. Nguyên nhân của sự phát triển này
là do hoạt động thuê mua đã có những thay đổi về tính chất của gia dịch. Đó là sự xuất
hiên của nghiệp vụ chi thuê tài chính (Finace Leasing). Nó xuất hiện đầu tiên ở Hoa Kỳ, do
công ty tư bản Unitel State Leasing Corporation sáng tạo ra. Sau đó nghiệp vụ Leasing
phát triển sang Châu Âu và đã được ghi vào luật thuê mau của Pháp, năm 1960 với tên
gọi “Crédit Bail”. Cũng năm 1960 hợp đồng thuê mau đầu tiên đã được thảo ra ở Anh.
Từ khi xuất hiện hình thức cho thuê tài chính, các hoạt động giao dịch thuê mua đã
có những bước phát triển hết sức mạnh mẽ cả về chủng loại tài sản, thiết bị và khối lượng
giao dịch. Trong giao dịch chi thuê mua ngày nay, các công ty chi thuê tài chính (Leasing)
có thể thuê những nhà máy hoàn chỉnh theo phương thức chìa khoá trao tay. Đồng thời về
mặt chủng loại, hoạt động thuê mau bao gồm từ các thiết bị, dụng cụ văn phòng cho tới
những toà nhà lớn. Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ tổng số vốn thiết bị cho thuê năm 1987 ước
tính lên tới 107,9 tỷ USD và có tốc độ gia tăng 7% mỗi năm. Ngày nay nghành thuê mua
thiết bị Hoa Kỳ chiếm khoảng 25% - 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán
thiết bị hàng năm. Còn ở Anh theo các số liệu của Hiệp Hội Tín Dụng thuê mua thiết bị, thì
năm 1994, thuê vận hành chiếm khoảng 20% vốn tài trợ cho các hoạt động thuê mua của
nước Anh, tổng giá trị thuê mua đạt khoảng 60 tỷ USD. Đối với các nước Châu Á, thuê tài
chính cũng đã có những bước phát triển đáng kể bắt đầu từ thập niên 70 và không có một
chuẩn mực nào đối với tổ chức hoạt động của công ty Leasing. Chỉ có 2 nước là Hàn Quốc
và Philipin là có luật Leasing, còn các nước khác hoạt động của công ty Leasing do các
luật khác chi phối như luật thuế, luật thương mại, luật đầu tư…Ở các khu vực khác hoạt
động cho thuê tài chính cũng có những bước phát triển mạnh mẽ, nhất là trong những
năm gần đây là do nó là một hình thức tài trợ có tính an toàn cao, tiện lợi và có hiệu quả
đối với các bên tham gia. Theo các số liệu thống kê cho thấy năm 1995 nghành công
nghiệp cho thuê mua thế giới có giá trị trao đổi chiếm khoảng 350 tỷ USD.
2. CHO THUÊ TÀI SẢN VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC CỦA CHO THUÊ TÀI SẢN
Thoả thuận thuê tài sản ( Leasing Agreement ) là một hợp đồng giữa hai hay nhiều
bên liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người cho thuê (chủ tài sản - The Lessor) chuyển

giao tài sản cho người thuê ( người sử dụng tài sản - The Lessee) độc quyền sử dụng trong
một khoảng thời gian nhất định. đổi lại người thuê phải trả một số tiền cho chủ tài sản
tương ứng với quyền sử dụng.
Ngày nay cho thuê tài có những phương thức rất đa dạng. Nhiều phương thức cho
thuê có những mối liên hệ rất phức tạp đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian công sức và trình
độ chuyên môn cao để nghiên cứu phân tích chúng. Những hình thức như vậy rất hiếm khi
xảy ra, do đó trong những phần sau chỉ tập trung phân tích vào 2 loại hình thông dụng,
mang tính phổ biến trong sản xuất kinh doanh.
Các phương thức này bao gồm:
- Thuê vận hành hay thuê truyền thống hoặc thuê dịch vụ ( Operating Lease or
Traditional Lease or Service Lease ).
- Thuê tài chính hay thuê mua thuần hoặc thuê tư bản ( Finance Lease or Net Lease
or Capital Lease ).
3. Thuê vận hành ( Operating Lease )

3.a Định nghĩa về cho thuê vận hành
Cho thuê vận hành không phải là phương thức tài trợ mua sắm máy móc thiết bị.
Người đi thuê ký hợp đồng sử dụng các thiết bị có sẵn của Công ty cho thuê như máy bay,
phương tiện vận tải, máy móc trong thi công cơ giới và cũng có thể là máy móc thiết bị
dùng trong công nghiệp... chi phí mua thiết bị được thu hồi qua các lần thuê và thanh lý
thiết bị.
Thuê vận hành đã có lịch sử rất lâu đời nên còn được gọi là cho thuê truyền thống
(Traditional Lease). Trong nền sản xuất nông nghiệp, các loại tài thường được sử dụng
trong cho thuê vận hành bao gồm: ruộng đất, công cụ lao động, nhà cửa, gia súc kéo...
Ngày nay các loại tài sản được sử dụng rất đa dạng: các loại máy móc công nghiệp, thiết
bị văn phòng, các bất động sản...
Hình thức thuê vận hành có thể coi là một loại hợp đồng để chấp hành, tài sản không
được ghi chép vào sổ sách kế toán của người thuê mà phần tiền trả theo thoả thuận được
ghi như mọi khoản chi phí bình thường khác. Trong hợp đồng này không dự kiến chuyển
giao quyền sở hữu thiết bị khi hết hạn thuê.





3.b Đặc điểm của cho thuê vận hành
- Thời gian thuê ngắn hơn nhiều so với thời gian hữu ích của tài sản hay thiết bị. Bởi
vậy tổng số tiền mà người thuê trả là rất nhỏ so với tổng già trị của tài sản. Trong hình
thức cho thuê này, người chủ sở hữu kỳ vọng vào việc tiếp tục cho thuê hay bán tài sản đó
để bù đắp chi phí bỏ ra ban đầu và thu được lợi nhuận.
- Tiền thuê thường cao hơn trong các thoả thuận cho thuê tài chính do ngoài tiền trả
cho quyền sử dụng tài sản hay hưởng dịch vụ, người thuê còn phải trả thêm các loại chi
phí khác như chi phí bảo trì, sửa chữa, bảo hiểm...
Tuy nhiên trong trường hợp thực tế, do tính chất chuyên môn hoá cao các hoạt động
phục vụ cho việc thuê của các công ty chuyên kinh doanh thuê mua nên giá cả thường
thấp hơn chi phí thuần để mua tài sản cộng với phần dịch vụ, bảo trì, bảo hiểm... mà người
thuê tự cung ứng. Tiền thuê của phương thức này của phương thức này cao hay thấp hơn
thuê tài chính hay mua tài sản không phụ thuộc vào dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng hay các chi
phí vận hành mà chủ yếu phụ thuộc vào tính hiệu quả của việc cung cấp các dịch vụ đó
cộng với giá mua tài sản.
- Người cho thuê phải chịu mọi thiệt hại và rủi ro, đồng thời người cho thuê còn
được hưởng lợi do sự gia tăng giá trị của tài sản cùng những quyền lợi phụ như sự giảm
thuế hay các chính sách khuyến khích khác của Nhà nước. Để tránh mọi thiệt hại rủi ro,
người cho thuê tính trước những chi phí này vào khoản tiền thuê. Do đó tài sản có mức rủi
ro càng cao thì giá cho thuê càng cao.
- Trong thoả thuận thuê vận hành, người thuê có quyền huỷ ngang hợp đồng, trả lại
tài sản thiết bị trước khi hết hạn. Đây là một lợi thế đối với người thuê, bởi trong thời đại
bùng nổ công nghệ ngày nay, các loại máy móc thiết bị có tốc độ lạc hậu rất nhanh chóng.
Song các công ty chuyên doanh cho thuê (Leasing Company) thường có một mạng lưới
chi nhánh rất rộng rãi và có khả năng cải tiến, sửa chữa các loại máy móc. Do đó họ có thể
điều chuyển các loại máy móc thiết bị đến những nơi khách hàng có nhu cầu phù hợp hoặc

cải tiến gia tăng thêm chức năng cho tài sản để phù hợp với trình độ công nghệ đương
thời. Bởi vậy họ có thể khắc phục được yếu tố lạc hậu công nghệ của thiết bị.
Người thuê
Quy n s h u t i s n v d ch ề ở ữ à ả à ị
vụ
Người cho thuê
Trả tiền thuê
- Người cho thuê còn phải đảm nhiệm các nghĩa vụ như bảo hiểm, đóng thuế tài sản,
cung cấp tài sản thay thế cho các tài sản thur bị hỏng.
4. THUÊ TÀI CHÍNH ( FINANCE LEASE)

4.a Định nghĩa về Finance Lease
Điều đầu tiên cần được xem xét là thuật ngữ Finance Lease. Thực chất nên gọi
phương thức finance lease là tài trợ thuê mua, tín dụng thuê mua, thuê mua thuần hay
cho thuê tài chính.
Về cơ bản, vấn đề đang đề cập ở đây được ’’du nhập” từ nước ngoài, từ tiếng Anh là
finance lease (một số tài liệu gọi là Net lease, Capital lease) hay tiếng Pháp là crédit-bail.
Chính từ những chữ tiếng Anh:fiance là tài chính hay tài trợ còn lease là thuê nên các nhà
dịch thuật đã đưa ra nhiều tên gọi như: Cho thuê tài chính, leasing, tài trợ thuê mua, cho
thuê vốn...Trong tiếng Pháp crédit là tín dụng còn bail có nghĩa là thuê nên có thể dịch là
tín dụng thuê mua
Khi dịch từ tiếng nước ngoài thì thuật ngữ không cần bám sát từ mà cần đảm bảo
khái quát được bản chất của sự vật hiện tượng mà thuật ngữ đang mô tả.
Nếu gọi là cho thuê tài chính theo các văn bản chính thức qui định thì liệu phải hiểu
tài chính ở đây là gì, ngay cả khái niệm về tài chính cũng được hiểu theo nhiều các khác
nhau. Điều này dễ dẫn đến khó khăn cho những người muốn tìm hiểu về loại hình nghiệp
vụ mới này. Mặt khác, ở đây đối tượng các công ty cho thuê lại là tài sản.
Nếu dịch là cho thuê theo phương thức thuê mua thì khá chuẩn về mặt bản chất của
nghiệp vụ. Nghĩa là, việc cho thuê tài sản đồng thời bên thuê có thể mua lại tài sản theo
một giá đã thoả thuận nếu bên thuê trả đủ tiền thuê và tuân thủ các điều kiện của hợp

đồng.
Như vậy, nếu dùng chính xác thì nên gọi finance lease hay leasing là cho thuê theo
phương thức thuê mua hay thuê mua.(cho thuê theo phương thức thuê mua khi đứng trên
giác độ bên cho thuê, còn thuê mua trên giác dộ bên thuê). Tuy nhiên vấn đề thuật ngữ
không đóng vai trò quá quan trọng mà ở đây là cần hiểu đúng và chính xác vấn đề, trong
bài sẽ tiếp tục sử dụng thuật ngữ cho thuê tài chính theo như các văn bản chính thức và
đang được sử dụng phổ biến hiện nay.
Khái niệm cho thuê tài chính cũng không được định nghĩa chuẩn. Thuê tài chính là một
phương thức tài trợ tín dụng trung hay dài hạn không thể huỷ ngang. Theo phương thức
này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng
từ trước các điều kiện thuê tài sản đó với nhà cung cấp hoặc người cho thuê cung cấp tài
sản của họ cho thuê. Tuỳ theo qui định của từng quốc gia, được coi là thuê tài chính khi
thời hạn thuê thường chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của
toàn bộ các toàn bộ các khoản tiền cho thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản
tại thời điểm bắt đầu hợp đồng. Mỗi nước trên thế giới định nghĩa khác nhau về cho thuê
tài chính do luật pháp của nước đó chi phối, đặc biệt là luật thuế.
Theo Nghị định 64/CP ngày 9/10/1996 của Chính Phủ “ Quy chế tạm thời về tổ chức và
hoạt động của công ty cho thuê tài chính “ qui định “ Cho thuê tài chính là hoạt động tín
dụng trung dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khắc. Bên
cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê còn bên
thuê thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê được hai bên thoả thuận và không
được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền
sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp
đồng thuê “.
Từ những qui định chung trên đã tạo ra nhiều phương thức cho thuê tài chính khác
nhau nhưng tất cả đều có một qui trình cơ bản như sau ( các loại khác cũng có thể coi là
phái sinh của phương thức này ).
Công ty
cho thuê tài chính
Hợp đồng mua bán Hợp đồng cho thuê

Thanh toán
Thanh toán
tiền thuê

Thoả thuận về lựa chọn máy móc, thiết bị
Nhà cung cấp Bên thuê
Máy móc thiết bị Giao hàng, lắp đặt và bảo dưỡng

Như vậy cho thuê tài chính là một biện pháp tài chính thay thế việc vay vốn ngân
hàng để tài trợ việc mua sắm thiết bị. Tuy nhiên giữa đi thuê tài chính và vay vốn ngân
hàng có những điểm giống và khác nhau. Thông qua bảng dưới đây sẽ giúp chúng ta phân
biệt được 2 loại hình này.

Tiêu thức Thuê tài chính
Vay vốn trung dài hạn của
Ngân Hàng
Hình thức tài trợ Bằng hiện vật Bằng tiền
Đối tượng Các loại động sản Động sản và bất động sản
Quyền sở hữu
Do bên cho thuê chiếm giữ cho
đến khi quyền mua của bên
thuê đươc thực hiện
Bên đi vay chiếm giữ
ngay từ đầu

4.b Đặc điểm của Finance Lease
Thực tế cho thấy việc đưa ra những tiêu chuẩn nhận dạng cụ thể, rõ ràng về giao dịch
cho thuê tài chính là một vấn đề cần được quan tâm. Một hệ thống tiêu chuẩn chính xác sẽ
góp phần. phân định rõ ràng giao dịch cho thuê tài chính với các giao dịch thương mại
cũng như các hoạt động tài chính khác. Từ đây tránh được sự trùng lắp, mâu thuẫn của

những văn bản pháp luật không phù hợp. Thế nhưng, khi nói đến đặc điểm của cho thuê
tài chính thì vẫn chưa có sự thống nhất giữa các quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế. Có
thể liệt kê một số nhóm đặc điểm mà các nước, các tổ chức đưa ra để nhận dạng cho thuê
tài chính như sau:

Thứ nhất, theo IASC, nghiệp vụ nào thoả mãn một trong bốn điều kiện sau thì được
xem là cho thuê tài chính:
+ Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hợp đồng hết hạn
+ Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua.
+ Thời giá của tổng các khoản tiền thuê lớn hơn hoặc bằng giá trị của tài sản.
+ Hiện giá của các khoản tiền thuê gần bằng hoặc lớn hơn giá trị thị trường của tài
sản.
Thứ hai: theo Hiệp định thống nhất luật dân sự về tín dụng thuê mua quốc tế do
Hiệp hội tín dụng thuê mua quốc tế thoả thuận thì giao dịch thuê mua gồm những đặc
điểm sau:
+ Người thuê chỉ rõ thiết bị và lựa chọn nhà cung cấp không phụ thuộc vào những
kỹ năng và ý kiến của người cho thuê.
+ Thiết bị được đề cập trong thoả thuận thuê mua do người cho thuê mua theo thoả
thuận giữa người cho thuê và người thuê, trong tình trạng mà người thuê biết rõ nhà
cung cấp.
+ Những khoản tiền thuê phải trả theo thoả thuận của thuê mua được tính theo
phương thức trả dần hay trả ngay một phần đáng kể chi phí mua thiết bị.
Thứ ba: theo tiêu chuẩn của Uỷ ban kế toán Hoa Kỳ thì giao dịch thuê mua là giao
dịch thoả mãn những điều kiện:
+ Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho người đi thuê khi chấm dứt hợp đồng
thuê.
+ Hợp đồng thuê cho phép người đi thuê được quyền chọn mua tài sản thuê với giá
thấp hơn ở một thời điểm nào đó hay đến khi chấm dứt thời hạn thuê.
+ Thời hạn thuê phải bằng 75% hoặc cao hơn đời sống hoạt động ước tính của tài
sản thuê

+ Giá trị hiện tại của các khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu là 90% so với giá trị tài sản
thuê.
Nhìn chung trong luật của nhiều quốc gia thì tuỳ vào tình hình cụ thể mà những nhà
làm chính sách có một số thay đổi liên quan đến đặc điểm của tín dụng thuê mua. Trên cơ
sở các tiêu chuẩn phân loại của ISAC, mỗi quôc gia đều có những qui định cụ thể trong luật
thuê mua của họ dựa trên những điều kiện cụ thể của mỗi nước. Những qui định này có
những khác biệt nhất định, song về cơ bản chúng không mâu thuẫn và tuỳ theo mức độ
những qui định này có thể chi tiết, cụ thể hơn. Chẳng hạn như quyền chon mua tài sản thuê
khi kết thúc hợp đồng ở Anh, Nhật, Hàn quốc, Thái Lan, Pakistan là không bắt buộc trong
khi đó ở các quốc gia khác như Mỹ, anh Nhật và Việt nam là bắt buộc, nhưng một số quốc
gia khác thì bị cấm như Malaysia, Singapore, ấn Độ. Thời hạn thuê tính theo đời sống hữu
dụng của tài sản thuê thì ở Anh là phần lớn, ở Mỹ là ≥ 75 % tối đa không quá 30 năm, ở
Nhật đối với loại tài sản < 10 năm thì tối đa là 70%, còn với tài sản >10 năm là 60% và
không quá 120%, với Hàn Quốc tài sản nhỏ hơn 5 năm là 70% còn lại là 60%, ở nước ta
qui định chung là lớn hơn 75%. Hiện giá các khoản tiền thuê tối tiểu so với giá trị hợp lý
của tài sản thì ở Indonexia thì là trả đủ tiền thuê, Hàn Quốc thì không qui định, với Việt
Nam và đa số các nước thì qui định ≥ 90%.
Tại Việt nam, Thể lệ tín dụng thuê mua đã quy định 3 tiêu chuẩn làm cơ sở phân biệt
thuê mua tại điều 7 và Hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết dịnh
số 1025 TC/CĐKT ngày 14/12/1995 của Bộ trưởng bộ Tài chính cũng quy định 4 tiêu
chuẩn để phân biệt thuê mua với các hình thức thuê khác.
Cụ thể như sau:
Theo thể lệ tín dụng thuê mua, một giao dịch tín dụng thuê mua phải đáp ứng ít nhất
một trong những yêu cầu sau:
+ Khi kết thúc thời hạn thuê theo hợp đồng tín dụng thuê mua, quyền sở hữu tài
sản thuê được chuyển cho bên thuê hoặch bên thuê có quyền được lựa chọn quyền mua
tài sản thuê theo một mức giá danh nghĩa được thoả thuận từ trước, thấp hơn giá trị
thực tế của tài sản vào ngày mua lại tài sản hay tiếp tục thuê tài sản đó.
+ Thời hạn thuê ít nhất phải bằng 60 % thời gian cần thiết để khấu hao tài sản
thuê.

+ Tổng số tiền thuê do bên thuê thanh toán cho tổ chức tín dụng trong thời hạn
thuê ít nhất phải tương đương với giá trị thị trường của tài sản thuê vào thời điểm ký
hợp đồng.
Hiện nay, Thể lệ tín dụng thuê mua đã được thay thế bằng Quy chế được ban hành
kèm theo Nghị định 64CP về hoạt động của công ty cho thuê tài chính. Những đặc điểm
trong quy chế này đưa ra hoàn toàn trùng hợp với quy định của Bộ tài chính:
Quy chế chỉ ra: Nghiệp vụ cho thuê tài chính phải thoả mãn một trong 4 điều kiện
+ Khi kết thúc thời hạn thuê hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản
thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của 2 bên
+ Nội dung hợp đồng thuê có quy định khi kết thức thời hạn thuê, bên thuê được
quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa hoặc thấp hơn giá trị thực tế của tài
sản tại thời điểm mua lại.
+ Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phảI bằng 60% thời gian cần thiết để
khấu hao tài sản thuê.
+ Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy đinh tại hợp đồng thuê, ít nhất phải tương
đương với giá tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.
Qua các đặc điểm trên, nhìn chung tuy có một số điểm khác nhau nhưng đặc điểm
chung về cho thuê tài chính đều quan tâm đến những điểm chính sau:

Đối tượng cho thuê là những động sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Như vậy
hàng hoá sử dụng cho tiêu dùng cá nhân không được áp dụng ở đây.


Người thuê có quyền lựa chọn tài sản thuê.


Người thuê sử dụng hầu hết thời gian hữu dụng của tài sản ( thường chiếm 60%-
70% )



Người thuê sở hữu tài sản thuê trong suốt thời hạn thuê. Phần lớn các chi phí bảo
trì, bảo hiểm, rủi ro thuế và các lợi ích phát sinh trong quá trình sử dụng tài sản được
chuyển từ người cho thuê sang người thuê.


Hợp đồng cho thuê tài chính là một loại hợp đồng không được huỷ ngang.


Kết thúc hợp đồng thuê bên thuê có quyền mua lại tài sản thuê với giá tượng trưng
đã được dự liệu trước trong hợp đồng hoặc bên cho thuê chuyển giao quyền sở hữu hay
người thuê cũng có thể tiếp tục thuê tài sản hay làm đại lý bán tài sản đó tuỳ theo sự uỷ
quyền của người cho thuê.

5. Phân biệt cho thuê tài chính với cho thuê vận hành
Khi nói đến đặc điểm của một sự vật hiện tượng, ngoài việc nêu được bản chất thì
còn phải chỉ ra được sự khác biệt của sự vật hiện tượng đó với các sự vật hiện tượng gần
tương đồng khác. Đối với cho thuê tài chính thì phải phân biệt được với hoạt động cho
thuê vận hành.
Sự phân loại giữa thuê vận hành và thuê tài chính dựa trên hai căn cứ cơ bản là:
- Những rủi ro và những biện pháp đảm bảo cho giá trị còn lại của tài sản thuê do
bên nào thực hiện.
- Quyền sử dụng và hưởng toàn bộ các lợi ích kinh tế do tài sản thuê mang lại có
được chuyển giao cho người thuê hay không.
Dựa trên những tiêu chuẩn này, uỷ ban Tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đã đề ra 4
tiêu chuẩn làm cơ sở chung để phân loại và nhận diện các loại hợp đồng cho thuê tài sản
thuộc phương thức nào
1* Quyền sở hữu tài sản có được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc hợp đồng
không? Nếu đó thì đó là giao dịch thuê tài chính, nếu không thì là thuê vận hành.
2* Trong hợp đồng có qui định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng với
giá tượng trưng hay không? Nếu có là giao dịch thuê tài chính, còn không thì là thuê vận

hành.
3* Thời gian của hợp đồng thuê có chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản
hay không? Nếu thỏa mãn thì giao dịch thuộc thuê tài chính, các trường hợp còn lại thuộc
thuê vận hành.
4* Hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê tối thiểu do người thuê trả có
tương đương hoặc lón hơn giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng?
Nếu có là giao dịch thuê tài chính và không là thuê vận hành.
Tất cả mọi giao dịch thuê tài sản nếu thoả mãn một trong bốn tiêu chuẩn này đều
thuộc phương diện thuê tài chính. Những giao dịch còn lại thuộc thuê vận hành. Sơ đồ sau
tóm tắt qui trình phân loại này:
Tài sản Quyền sở hữu được chuyển giao Có

×