Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Một số giải pháp huy động vốn FDI đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.94 KB, 16 trang )

Một số giải pháp huy động vốn FDI đáp ứng yêu cầu phát triển của nền
kinh tế
I. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC VÀ YẾU KÉM TRONG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG
VỐN FDI THỜI GIAN VỪA QUA
Hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã thực sự có
tác động tích cực, có vị trí quan trọng, góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt
Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ảnh hưởng tích cực của loại hình
hoạt động kinh tế này đang ngày càng rõ nét và lan rộng trên nhiều mặt của đời
sống kinh tế xã hội nước ta. Tuy vậy, không thể bất cứ ở đâu, thời gian nào hoạt
động đầu tư nước ngoài cũng đưa lại những kết quả như mong muốn và nếu so với
mục tiêu mà chúng ta đề ra cho đầu tư trực tiếp nước thì đâu phải dự án nào cũng
đạt được. Điều này là khó tránh khỏi đối với chúng ta trong giai đoạn đầu của lĩnh
vực hoàn toàn mới mẻ, vừa làm vừa học này. Giai đoạn từ nay đến năm 2010 là thời
kỳ mà nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho tăng trưởng và phát triển kinh tế
còn rất lớn. Do đó chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận thực trạng hiện nay của đầu
tư trực tiếp nước ngoài, đánh giá đúng những mặt được và chưa được trong quá
trình thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam, từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm cho giai đoạn tiếp theo.
Những hạn chế của môi trường đầu tư đã được đề cập trong phần xem xét sự
sụt giảm của dòng vốn FDI vào Việt Nam. Ở đây ta chỉ khái quát lại một số vướng
mắc và yếu kém còn tồn tại để làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp thu hút và sử
dụng hiệu quả nguồn vốn FDI trong thời gian sắp tới.
1. Những vướng mắc về mặt cơ chế, chính sách
Trên nhiều vấn đề cụ thể liên quan tới FDI còn sự khác nhau về đánh giá và cách
xử lý: hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, tỷ lệ góp vốn của doanh nghiệp Việt Nam, quy
mô phát triển các khu công nghiệp, v.v...Điều đó, trong một số trường hợp dẫn tới
lúng túng và chậm chễ trong cách xử lý, điều hành, làm bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu
tư, góp phần làm xấu thêm môi trường đầu tư .
Hệ thống luật pháp, chính sách chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán trước
được. Việc thực thi luật pháp, chính sách không nhất quán, tuỳ tiện. Tính ổn định
của luật pháp, chính sách chưa cao, nhiều trường hợp làm đảo lộn các phương án


kinh doanh của nhà đầu tư. Việc áp dụng một số chính sách thuế gần đây làm tăng
chi phí sản xuất của một số ngành hàng, tăng giá bán sản phẩm dẫn đến tiêu thụ
giảm đi và thị trường bị co hẹp.
Công tác quản lý Nhà nước đối với FDI còn nhiều bất cập, vừa buông lỏng, vừa
gây phiền hà, can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Trong lĩnh vực này
phải nói rằng kiểm tra thì nhiều nhưng chất lượng không đạt yêu cầu vì cán bộ kiểm
tra chưa đủ trình độ phát hiện những vi phạm của đơn vị, đặc biệt về lĩnh vực tài
chính, về giá xuất nhập khẩu nguyên liệu, giá xuất khẩu thành phẩm đích thực.
Trong một thời gian dài các cơ quan quản lý Nhà nước qua tập trung vào khâu cấp
phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau giấy phép; chưa quan tâm đúng mức đến
việc giải quyết dứt điểm và nhanh chóng các vấn dề phát sinh, tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp. Việc quản lý giá đầu vào và đầu ra còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng
tới lợi ích của doanh nghiệp cũng như của Nhà nước Việt Nam.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước còn chưa chặt chẽ, việc quản lý
sau cấp phép chậm được cải tiến, nhất là đất đai, hải quan, xuất nhập khẩu, thủ tục
hành chính còn phiền hà, cấp dưới thực thi pháp luật và các chính sách, chủ trương
của Nhà nước thiếu nghiêm túc đã làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài.
2. Yếu kém về công trình kết cấu hạ tầng
Kinh nghiệm của các nước trong khu vực cho thấy, cơ sở hạ tầng có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc thu hút FDI nhất là ở những nơi ít có lợi thế về vị trí địa
lý, tài nguyên thiên nhiên, lao động. Đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi
nguồn vốn lớn. Đảng và Nhà nước ta đã giành 50-60% tổng vốn đầu tư và hầu hết
nguồn vốn ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, cơ sở hạ tầng
kinh tế- kỹ thuật-xã hội và môi trường của Việt Nam còn thấp kém và lạc hậu. Mặc
dù áp dụng chính sách ưu đãi về tiền thuê đất và thuế lợi tức nhưng do phải bỏ
nhiều chi phí cho các công trình ngoài hàng rào, hoặc chi phí vận chuyển hàng xuất
khẩu bằng container đến cảng cửa khẩu khá xa...nên vô hình trung đã triệt tiêu các
ưu đãi này. Cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ không tạo được sự hấp dẫn thu hút FDI trong
thời gian tới.
3. Yếu kém về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch ngành kinh tế - kỹ

thuật
Hiện nay đã có nhiều KCN được thành lập. Tuy nhiên cả các KCN đã đi vào hoạt
động hoặc đang tiến hành xây dựng, việc quy hoạch chi tiết rất chậm, khiến các nhà
đầu tư nước ngoài rất bị động trong việc chọn địa điểm đầu tư.
Cả nước cũng như từng ngành, từng địa phương thực sự chưa có quy hoạch cụ
thể về hợp tác đầu tư nước ngoài trên cơ sở và trong khuôn khổ quy hoạch tổng thể.
Do phạm vi lĩnh vực được khuyến khích đầu tư rộng nên có nơi có lúc cơ cấu đầu tư
thiếu sự phù hợp với cơ cấu sản xuất và thị trường. Cơ cấu đầu tư còn thể hiện một
mặt là sự manh mún, dàn trải của một số ngành trên nhiều địa phương với mục tiêu
thúc đẩy CNH, mặt khác lại quá tập trung nhiều ngành, lĩnh vực vào một số địa
phương. Các ngành, các địa phương, các cơ sở kinh doanh chưa có sự phối hợp chặt
chẽ trong công tác vận động đầu tư dẫn tới tranh giành dự án hoặc triển khai quá
nhiều dự án không có nhu cầu nhiều về số lượng, làm thị trường các sản phẩm này
nhanh chóng bị bão hòa. Do quy hoạch và dự báo thiếu chuẩn xác nên đã cấp phép
đầu tư sản xuất một số sản phẩm vượt quá nhu cầu như ô tô, khách sạn, bia, nước
ngọt có ga..Việc cấp phép trong những năm đầu thiên về dự án thay thế nhập khẩu,
tiêu thụ sản phẩm trong nước nên dẫn tới tình trạng cạnh tranh mạnh với sản phẩm
của doanh nghiệp trong nước.
4. Yếu kém về cung ứng lao động cho các doanh nghiệp FDI
Mặc dù Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào và có thể cung ứng cho các
doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp khác đến 1,5 triệu người mỗi năm, nhưng
đến nay, lực lượng lao động của ta vẫn bộc lộ nhiều yếu kém. Số công nhân lành
nghề rất hiếm. Việc tuyển một công nhân có tay nghề cao tại địa bàn Hà Nội khó
khăn hơn nhiều việc tuyển một sinh viên tốt nghiệp đại học. Có những doanh nghiệp
FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi 1 công nhân kỹ thuật dưới 30 tuổi có tay
nghề bậc 5. Hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp FDI đều tuyển từ các
vùng nông thôn, chưa qua đào tạo. Các nhà quản lý nước ngoài đều có đánh giá
chung là lao động Việt Nam tuy chịu khó và cần cù nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp
ít, không có tác phong công nghiệp cho nên năng suất lao động rất thấp.
5. Khó khăn về cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI

Ngân hàng Nhà nước chỉ cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI hoạt động
trong lĩnh vực xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng hoặc sản xuất
hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu. Trong điều kiện Nhà nước và doanh nghiệp
đều thiếu ngoại tệ thì quy định trên là phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên,
điều đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp FDI cân đối ngoại tệ để nhập khẩu
nguyên vật liệu, trả nợ gốc, lãi vay nước ngoài...không đảm bảo cho các doanh
nghiệp hoạt động bình thường và cản trở việc tiếp tục huy động nguồn vốn FDI.
Đi đôi với việc xem xét những mặt tồn tại, trong ta cũng cần phải chú ý học hỏi
kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn FDI của các nước khác, đặc biệt là các nước
trong khu vực. Trong xu thế liên kết và hòa nhập nền kinh tế thế giới thành một
chỉnh thể thống nhất, hầu hết các nước trên thế giới đều tham gia ngày càng tích
cực vào quá trình phân công lao động quốc tế. Trong số các hoạt động kinh tế đối
ngoại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động có vị trí và vai trò ngày càng
lớn và được nhiều quốc gia sử dụng như một chính sách kinh tế quan trọng và lâu
dài. Bằng các biện pháp và chính sách thích hợp, nhiều nước đang phát triển đã thu
được những thành công to lớn trong việc khai thác và sử dụng đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Nghiên cứu những kinh nghiệm thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp
nước ngoài của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước ở Đông Nam Á và Nam Á
có ý nghĩa quan trọng đối với chúng ta. Tuy nhiên, kinh nghiệm thu hút và sử dụng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất phát từ đặc thù của mỗi nước. Mỗi một hình
thức sử dụng vốn bên ngoài có tác dụng hiệu quả đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế
và phù hợp với cách lựa chọn của mỗi nước. Không thể có sự sao chép và áp dụng
máy móc phương pháp của một nước này cho một nước khác.
Chúng ta phải bằng mọi cách khắc phục triệt để những tồn tại và hạn chế nêu
trên thì mới có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
II. XÁC ĐỊNH NHU CẦU VỐN FDI CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2005
1. Hiệu quả đầu tư và thực trạng hệ số ICOR ở nước ta
ICOR là chỉ tiêu tổng hợp cho phép đánh giá hiệu quả đầu tư của một nền kinh

tế, được tính toán trên cơ sở so sánh đầu tư với mức tăng trưởng kinh tế hàng năm.
Theo cách tính thông thường và đơn giản nhất, ICOR bằng tỷ lệ đầu tư toàn xã hội
so với GDP chia cho tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Về phương diện lý thuyết,
khi hệ số ICOR càng thấp, chứng tỏ nền kinh tế càng có hiệu quả, vốn đầu tư bỏ ra
tuy ít nhưng tăng trưởng kinh tế đã đạt mức cao theo mong muốn. Tuy nhiên, trên
thực tế, ICOR còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như nền kinh tế đang ở giai đoạn
phát triển nào, đã công nghiệp hóa chưa, đó là nền kinh tế “mở” hay “đóng”, mức độ
tác động của bối cảnh quốc tế ra sao, chất lượng quản lý Nhà nướctrong đầu tư cao
hay thấp, thực trạng tham nhũng trong đầu tư nhiều hay ít...
Đối với những nền kinh tế đang ở giai đoạn CNH-HĐH, thông thường, một hệ số
ICOR ở mức cao nhưng thấp hơn 10 phản ánh thực tế đã có sự tùy tiện trong khâu
lựa chọn dự án và quyết định đầu tư, thiếu những tính toán cụ thể về khả năng sinh
lời hoặc khả năng hoàn vốn của dự án, vấp phải các vấn đề về thị trường tiêu thụ
sản phẩm đầu ra, nguyên vật liệu đầu vào, giá cả, sức cạnh tranh...Khi phê duyệt còn
nặng về quy mô hình thức, thiên về lợi ích trước mắt, chưa quan tâm thực sự đến
hiệu quả và lợi ích lâu dài của các dự án đầu tư.
Khai thác hệ quả công thức tính ICOR, người ta có thể dự báo được tiềm năng
tăng trưởng kinh tế và dự báo tổng mức vốn đầu tư cần thiết cho một giai đoạn
phát triển. Tuy nhiên, khi dự báo tổng nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế thông qua
hệ số ICOR cần tôn trọng phép biện chứng và nguyên tắc thận trọng. Trong giai đoạn
2001-2005, với giả định hệ số ICOR bình quân từ 4 đến 4,5; để thực hiện được mục
tiêu tăng trưởng kinh tế trên 7% năm, tổng vốn đầu tư cần thiết được tính bằng tích
giữa ICOR (4 hoặc 4,5) với tốc độ tăng trưởng kinh tế (7%), đưa tỷ suất đầu tư bình
quân đạt từ 28% đến 31,5% GDP. Tính ra, nhu cầu vốn đầu tư cần thiết cho cả 5 năm
2001-2005 dao động trong khoảng từ 765 nghìn tỷ đồng đến 860 nghìn tỷ đồng,
tương đương khảng 55 đến 61 tỷ USD theo giá cố định năm 2000. Về mặt toán học,
các tính toán này không sai nhưng xét về kinh tế học, dự báo tổng nhu cầu vốn đầu
tư nói trên dựa trên cơ sở 2 số liệu dự báo sẽ chỉ cho ra kết quả đáng tin cậy khi các
số liệu dự báo đó (ICOR và tăng trưởng kinh tế) có độ tin cậy cao.
Hệ số ICOR của Việt Nam thời gian qua

Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
ICOR 3.0 2.6 3.7 3.4 3.1 3.1 3.8 4.7 5.5 4
Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam 2000-2001
Tình hình đầu tư những năm qua cho thấy có một sự phù hợp khá chặt chẽ giữa
đầu tư và kết quả tăng trưởng theo mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng, thiên
về số lượng. Khi lựa chọn và quyết định đầu tư, hầu như ta chỉ tập trung vào các dự
án lớn, vốn nhiều, ít chú ý đến khả năng sinh lời và khả năng hoàn trả vốn đầu tư
của từng dự án, chưa coi trọng mức độ hiện đại của công nghệ, chưa quan tâm tới
kết cấu ngành và kết cấu kỹ thuật của vốn đầu tư.
Phân tích tác động của các yếu tố tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời
gian qua cho thấy nguồn vốn đóng vai trò chủ yếu, yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ
đóng góp vào tăng trưởng khoảng 1,1%-1,2%, bằng mức của Nhật Bản những năm
1960-1970, và giống như mức của Malaixia (1,1%), Singapore (1,2%), và Inđônêxia
(1,25%) trong thập kỷ 80 và những năm đầu thập kỷ 90.
Năm
Tốc độ tăng trưởng (%)
GDP Lao động Vốn Năng suất
1987 2.4 2.1 3.1 -0.1
1988 6.0 1.8 2.5 3.9
1989 8.0 1.6 5.2 5.0
1990 5.1 4.7 3.5 0.9
1991 6.0 2.2 4.8 2.7
1992 8.7 2.7 8.0 3.8
1993 8.1 2.8 10.4 2.2
1994 8.9 2.9 16.3 0.5
1995 9.5 2.7 15.4 1.6
Bảng trên là số liệu về tốc độ tăng trưởng các yếu tố của kinh tế Việt Nam giai
đoạn 1987-1995 do tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) tính toán
năm 1996. Đối với các nước khác nhau và ở các giai đoạn phát triển khác nhau, việc
tăng trưởng của các yếu tố vốn, lao động, tiến bộ khoa học công nghệ có tác động

đến tăng trưởng chung của nền kinh tế không giống nhau. Mô hình hóa mối quan hệ
giữa tăng trưởng các yếu tố với tăng trưởng của nền kinh tế nước ta giai đoạn
1987-1995 ta được kết quả dưới đây:
Gr(G) = - 0,003 + 0,593× Gr(L) + 0,41×Gr(C) + 0,996 × Gr(P)
Trong đó: Gr(G), Gr(L), Gr(C), Gr(P) lần lượt là tốc độ tăng trưởng GDP, lao
động, vốn và năng suất lao động.

×