Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.25 KB, 30 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu được tốt hơn, cần hiểu rõ những khái niệm cơ
bản liên quan đến vấn đề phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.1 Khái niệm và tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh
nghiệp
1.1.1. Khái niệm:
a. Tài chính doanh nghiệp:
- Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh
nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế trong quá trình phân phối các nguồn tài
chính gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp.
+ Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước
+ Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường khác
+ Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải chú
trọng đến hoạt động tài chính doanh nghiệp. Hoạt động này dựa trên mối quan hệ
giữa dòng tài chính và dự trữ tài chính nhằm thực hiện những mục tiêu mà doanh
nghiệp hướng tới.
Hoạt động tài chính doanh nghiệp trả lời các câu hỏi chính sau:
+ Đầu tư vào đâu và như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã
chọn, nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào với một cơ cấu
vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất.
+ Quản lý vốn và tài sản như thế nào để tiết kiệm và nâng cao hiệu quả vốn
kinh doanh.
+ Phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính như thế nào để
thường xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính.
+ Quản lý các hoạt động tài chính ngắn và dài hạn như thế nào để đưa ra các
quyết định thu chi phù hợp.
Để hoạt động tài chính có hiệu quả doanh nghiệp cần đưa ra những quyết


định tài chính và thực hiện những quyết định đó phù hợp với mục tiêu tài chính
doanh nghiệp. Những quyết định tài chính muốn chính xác, tối ưu cần phải dựa trên
nguồn thông tin trung thực, liên tục, nhất quán, công khai... Phân tích tài chính nhằm
cung cấp những thông tin như vậy và là bộ phận quan trọng trong hoạt động tài
chính doanh nghiệp.
b. Phân tích tài chính doanh nghiệp:
Theo Josetle Payrard :
“Phân tích tài chính có thể được định nghĩa như một tổng thể các phương
pháp cho phép đánh giá tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, giúp cho việc
quyết định quản trị và đánh giá doanh nghiệp một cách chính xác
1
”.
Ngày nay phân tích tài chính có xu hướng trở thành hệ thống xử lý thông tin nhằm
cung cấp dữ liệu cho những người ra quyết định tài chính. Phân tích tài chính là cơ
sở dự báo ngắn trung và dài hạn. Phân tích tài chính giúp ta đánh giá tình hình tài
chính doanh nghiệp thông qua việc phân tích các báo cáo tài chính .
Tóm lại, phân tích tài chính có thể được hiểu là một tập hợp các khái niệm
,phương pháp và công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các
thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả
năng và tiềm lực doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định
tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
1.1.2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp:
Cũng giống như con người, mỗi doanh nghiệp đều có cuộc đời riêng của mình,
đều phải trải qua các giai đoạn ra đời, phát triển, trưởng thành và suy thoái. Nội lực
của mỗi doanh nghiệp, cùng với sự tác động mạnh mẽ của môi trường xung quanh,
có nhiều doanh nghiệp vẫn tồn tại và phát triển không ngừng, bên cạnh đó có nhiều
doanh nghiệp không tránh khỏi giải thể, phá sản. Trong sự phát triển không ngừng
của nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế thị trường chịu sự chi phối bởi các quy luật
giá trị, quy luật cạnh tranh... và chịu sự quản lý của Nhà nước các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế không chỉ phát triển lên bằng chính nội lực của mình

1
mà còn phụ thuộc vào các yếu tố xung quanh, làm thế nào để doanh nghiệp có thể
đưa ra định hướng phát triển của mình và thực
hiện được những mục tiêu đề ra là câu hỏi mà các doanh nghiệp luôn đặt ra. Công
tác phân tích tài chính giúp trả lời câu hỏi đó, mức độ chính xác, hiệu quả trong
sản xuất kinh doanh và quản trị doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào thông tin đưa
ra từ phân tích tài chính. Bên cạnh đó, những kết luận được đưa ra từ quy trình phân
tích tài chính còn cung cấp cho các cơ quan quản lý cấp trên, nhà đầu tư, ngân hàng,
người lao động nắm bắt được những thông tin phục vụ cho mục tiêu của mình. Chính
vì thế, phân tích tài chính tỏ ra là thực sự có ích và vô cùng cần thiết đặc biệt với sự
phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng, của thị trường vốn như hiện
nay. Nó không chỉ phục vụ cho doanh nghiệp mà còn cho tất cả các đối tượng quan
tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.1.2.1. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp
Nhà quản lý luôn đứng trước nhiều quyết định khác nhau, do đó mà quan tâm
đến kết quả phân tích thông qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp dưới nhiều
góc độ khác nhau phù hợp với lĩnh vực và cương vị đưa ra quyết định để một khi
quyết định được đưa ra là tối ưu hơn cả. Đối với nhà quản trị phân tích tài chính
nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm
yếu của doanh nghiệp, đó là cơ sở định hướng các quyết định của Ban tổng giám đốc,
giám đốc tài chính, dự báo tài chính về kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các
hoạt động quản lý. Phân tích tài chính đối với nhà quản lý có phần thuận lợi được gọi
là phân tích tài chính nội bộ chứ không phải là phân tích tài chính ngoài doanh
nghiệp. Do vậy, các nhà quản lý dễ dàng nắm bắt, hiểu rõ về tình hình tài chính của
doanh nghiệp cũng như các hoạt động khác từ đó có quyết định đúng đắn. Khi đó,
phân tích tài chính phục vụ các mục tiêu sau:
- Tạo ra những chu kỳ đều đặn để đánh giá hoạt động quản lý trong giai đoạn
đã qua, việc thực hiện cân bằng tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, rủi
ro tài chính trong doanh nghiệp...
- Hướng các quyết định của Ban giám đốc theo chiều hướng phù hợp với tình

hình thực tế của doanh nghiệp như quyết định về đầu tư, tài trợ, phân phối lợi
nhuận.
- Là cơ sở cho những dự đoán tài chính ngắn, trung và dài hạn.
- Phân tích tài chính đối với nhà quản lý là một công cụ để kiểm tra, kiểm soát
hoạt động, quản lý trong doanh nghiệp
Tóm lại, phân tích tài chính làm nổi bật điều quan trọng của dự đoán tài
chính, mà dự đoán là nền tảng của hoạt động quản lý, làm sáng tỏ không chỉ chính
sách tài chính mà còn làm rõ các chính sách chung trong doanh nghiệp.
1.1.2.2. Đối với các nhà đầu tư
Với tư cách là nhà đầu tư: Nhà đầu tư là những người giao vốn của mình cho
người khác quản lý và như vậy có những rủi ro. Thu nhập của các nhà đầu tư là tiền
lời được chia và thặng dư giá trị của vốn. Hai yếu tố này phần lớn ảnh hưởng của lợi
nhuận thu được ở đơn vị mình giao vốn. Vì vậy, cần đánh giá khả năng hoạt động và
khả năng sinh lời của doanh nghiệp mình có ý định đầu tư. Câu hỏi chủ yếu được đặt
ra là tiền lời bình quân cho một suất đầu tư là bao nhiêu? Phải mất bao lâu mới thu
hồi đủ vốn? Tuy nhiên, những dự đoán đặt ra có khoảng cách khá xa so với tiền lời
thực sự bởi chính sách phân phối lợi nhuận của nơi nhận đầu tư và các ảnh hưởng
của thị trường về các yếu tố như lạm phát, chính trị, văn hoá, chính sách Nhà nước
nhiều khi không thể dự đoán chính xác được. Khi đó, phân tích tài chính doanh
nghiệp là để đánh giá doanh nghiệp, các nhà đầu tư quan tâm đến việc nghiên cứu
các báo biểu tài chính, khả năng sinh lời, chính sách phân phối lợi nhuận, phân tích
rủi ro tài chính trong kinh doanh... để lựa chọn hướng đầu tư, cơ cấu đầu tư, nơi đầu
tư...
1.1.2.3. Đối với các chủ nợ
Với tư cách là các chủ nợ bao gồm ngân hàng, các chủ nợ trong quan hệ mua
bán trả chậm, trả trước, mua bán chịu hay trả góp là những đối tượng có quan hệ
khăng khít với doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển trong hoạt động sản xuất kinh
doanh không có bất kỳ doanh nghiệp nào có thể tiến hành công việc kinh doanh của
mình chỉ bằng vốn chủ sở hữu mà phải gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân
hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn hoặc tín dụng

thương mại. Vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh, đảm bảo đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu. Tài trợ
bằng tín dụng thương mại là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong
kinh doanh, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh
một cách lâu bền. Song việc tài trợ bằng hình thức đi nữa thì các chủ nợ đều quan
tâm rằng doanh nghiệp có đủ điều kiện để vay vốn không thông qua việc đáp ứng yêu
cầu bảo đảm an toàn tín dụng, có tài
sản thế chấp, lãi suất vay và mức độ rủi ro mà các chủ nợ có thể chấp nhận được từ
tình hình tài chính thực tế của công ty thông qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
nhanh, khả năng thanh toán hiện hành đối với việc cho vay ngắn hạn.Việc hoàn trả
cả vốn lẫn lãi có đúng thời hạn không, khả năng sinh lời của doanh nghiệp, khả vay
nợ từ những người cung cấp nào và khả năng trả nợ trong hiện tại và trong tương
lai. Từ đó, các chủ nợ mới quyết định có nên cho doanh nghiệp vay với cơ cấu vốn
như thế nào, thời hạn trong bao lâu...
1.1.2.4. Đối với người lao động
Với những người lao động là những người trực tiếp hưởng lương, lương là
nguồn thu nhập chính thể hiện giá trị sức lao động mà những người lao động bỏ ra,
là nguồn tiền giúp cho họ có thể tái sản xuất và nuôi sống gia đình. Bên cạnh đó, đối
với những doanh nghiệp cổ phần những người lao động cũng có thể trở thành
những cổ đông nếu họ có tiền mua và nắm giữ cổ phiếu. Do đó, họ quan tâm đến tình
hình tài chính doanh nghiệp thông qua chính sách phân phối thu nhập, các khoản
đóng góp của họ đối với doanh nghiệp, quỹ phúc lợi, quỹ trợ cấp ốm đau, thất nghiệp,
chính sách cổ tức, khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Từ đó, người lao động có thể
yên tâm lao động và sáng tạo, sử dụng đồng vốn nhàn rỗi của mình để tăng thêm thu
nhập.
1.1.2.5. Đối với các cơ quan nhà nước
Với tư cách là các cơ quan nhà nước có liên quan bao gồm công ty kiểm toán,
cơ quan thuế, cơ quan thống kê... là những cơ quan trực tiếp quản lý và giám sát tình
hình hoạt động của doanh nghiệp qua các báo cáo tài chính gửi lên. Đây là một trong
những đối tượng rất quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp, vì các cơ quan

này đại diện cho Nhà nước thực hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô . Bất cứ doanh nghiệp
nào tiến hành một hoạt động kinh doanh phải đăng ký và phải tuân thủ theo pháp
luật hiện hành để trở thành một đơn vị làm ăn lành mạnh, hiệu quả. Do đó, các cơ
quan nhà nước có liên quan bằng cách đọc những kết quả đạt được, những mặt còn
yếu kém qua các phần trong báo cáo tài chính có cái nhìn vừa tổng quan, vừa cụ thể
về hoạt động của doanh nghiệp xem xét doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả không, có
tuân thủ pháp luật không,có những quyết định ưu đãi về thuế nếu có kinh doanh
ngành nghề đặc biệt, quyết định hỗ trợ về vốn ngân sách cấp làm tăng tính hiệu quả
của doanh nghiệp, đưa ra quyết
định quản lý phù hợp.
Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy: phân tích tài chính là công cụ hữu ích
được dùng để xác định giá trị kinh tế, để đánh giá các mặt của doanh nghiệp, cung
cấp đầy đủ, kịp thời chính xác những thông tin phục vụ cho nhiều mục tiêu
khác nhau của các đối tượng khác nhau như Nhà quản lý doanh nghiệp, các chủ nợ,
các nhà đầu tư, người lao động, các cơ quan Nhà nước có liên quan, tìm ra những
nguyên nhân chủ quan và khách quan, giúp cho các đối tượng lựa chọn và đưa ra
những quyết định tài chính phù hợp với mục tiêu của mình đề ra.
1.2. Tài liệu, phương pháp và nội dung phân tích tài chính doanh
nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài
chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng qua một hệ thống các công cụ, phương pháp
và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau, vừa
đánh giá toàn diện, tổng hợp, khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động
tài chính doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài
chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
1.2.1. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Tài liệu quan trọng và cần thiết cho phân tích tài chính là tìm ra được những
nguồn thông tin trung thực, chính xác. Doanh nghiệp hoạt động sản xuất trong môi
trường kinh doanh bị tác động bởi những yếu tố bởi chính bản thân doanh nghiệp và
các nhân tố bên ngoài đòi hỏi thông tin phục vụ cho phân tích tài chính cũng phải thu

thập đầy đủ, không chỉ qua các báo cáo tài chính mà còn qua nguồn thông tin được
cung cấp từ bên ngoài.
1.2.1.1. Thông tin nội bộ doanh nghiệp
Các nguồn thông tin liên quan đến doanh nghiệp rất đa dạng một số thông tin
là bắt buộc và công khai, một số khác chỉ dành cho cổ đông. Trong số các nguồn
thông tin nội bộ thông tin kế toán là nguồn thông tin cơ bản nhất, được nhà phân
tích phân thu thập trước tiên. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đều được phản ánh trên các báo cáo tài chính một cách toàn diện và tổng hợp tình
hình tài sản, nguồn vốn qua bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, những luồng tiền vào ra coi như tiền, tình hình đầu tư, tài
trợ bằng tiền trong từng thời kỳ qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đó là những cơ sở
quan trọng để tiến hành phân tích hoạt động tài chính. Các chỉ
tiêu trên báo cáo tài chính được thể hiện dưới hình thức giá trị nên nhà phân tích có
thể định lượng tính toán kết hợp só liệu với nhau từ đó đưa ra dự đoán, dự báo và
đưa ra quyết định.
Các báo cáo tài chính bao gồm: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh
doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính.
a. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tổng hợp, phản ánh toàn bộ tài sản của
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định theo kết cấu: vốn kinh doanh và nguồn
hình thành vốn kinh doanh. Kết cấu của bảng được chia thành 2 phần: Tài sản
và nguồn vốn.
Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại
thời điểm lập báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Phần tài sản được phân thành: Tài sản lưu động
và đầu tư ngắn hạn; Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành tài sản hiện có của doanh
nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các chỉ tiêu này thể hiện trách nhiệm pháp lý đối
với tài sản doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng ở doanh nghiệp. Phần nguồn vốn
được chia thành: Nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu

Bảng cân đối kế toán do vậy là nguồn thông tin quan trọng cho công tác phân
tích tài chính, nó giúp đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh
toán, năng lực hoạt động, tài sản hiện có và nguồn hình thành nó, cơ cấu vốn của
doanh nghiệp.
b. Báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình
tài chính doanh nghiệp tại những thời kỳ nhất định. Đó là kết quả hoạt động sản
xuất , kinh doanh của toàn doanh nghiệp, kết quả hoạt động theo từng loại hoạt
động kinh doanh(Sản xuất kinh doanh, Đầu tư tài chính, Hoạt động bất thường).
Ngoài ra, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh còn cho biết tình hình thực hiện
nghĩa vụ với Nhà nước của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh đó
Báo cáo kết quả kinh doanh cho ta biết mức lãi, lỗ của doanh nghiệp bằng
cách lấy tất cả các khoản tạo nên doanh thu trừ đi chi phí kinh doanh tương ứng nó
có ý nghĩa quan trọng đến chính sách cổ tức, trích lập các quỹ như khen thưởng, quỹ
phúc lợi, quỹ trợ cấp, quỹ đầu tư phát triển. Các chỉ tiêu trong
báo cáo còn là tiền đề để dự đoán và xác định được quy mô dòng tiền trong tương
lai, làm căn cứ tính toán thời gian thu hồi vốn đầu tư, giá trị hiện tại ròng... để ra
quyết định đầu tư dài hạn trong doanh nghiệp.
c. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính mà
doanh nghiệp cần lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp về
những vấn đề liên quan đến các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài
trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Những luồng tiền vào ra
của tiền và các khoản coi như là tiền được tổng hợp và chia thành 3 nhóm:
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính
Trên cơ sở đó, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ
đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó, có thể thiết lập mức dự phòng tối
thiểu cho doanh nghiệp đảm bảo khả năng chi trả.

Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có mối liên hệ chặt chẽ với bảng cân đối kế
toán và bảng kết quả kinh doanh trong phân tích tài chính. Đây là cơ sở quan trọng
để nhà quản lý xây dựng kế hoạch quản lý tiền mặt.
d. Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là báo cáo tài chính tổng hợp được sử
dụng để giải thích và bổ sung các thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh, tình
hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo khác không thể
trình bày rõ ràng, cụ thể và chi tiết được.
Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động
của doanh nghiệp; Nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp áp dụng; Giải
thích và thuyết minh tình hình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phương
hướng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới; Các kiến nghị của doanh nghiệp.
* Nói tóm lại, các báo cáo trên là nguồn tư liệu được dùng trong phân tích tài
chính doanh nghiệp vì các báo cáo trên quan hệ mật thiết với nhau, báo cáo này bổ
sung cho báo cáo kia, sự thay đổi chỉ tiêu của báo cáo này dẫn đến thay đổi chỉ tiêu
của các báo cáo khác, mỗi báo cáo là tiền đề, căn cứ tạo thành một
khối thông tin đầy đủ vừa khái quát vừa cụ thể .
1.2.1.2. Các thông tin bên ngoài doanh nghiệp
Việc phân tích tài chính không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu những báo biểu
tài chính mà phải tập hợp đầy đủ các thông tin liên quan đến tình hình tài chính
doanh nghiệp, như các thông tin về kinh tế, tiền tệ, thuế khoá của quốc gia và quốc
tế, các thông tin về kinh tế, các thông tin về pháp lý, về kinh tế đối với doanh nghiệp.
Việc quyết định đều gắn với môi trường xung quanh. Có thể kể tới một số yếu tố
khách quan tác động tới doanh nghiệp và những thông tin liên quan đến các yếu tố
này cũng phải luôn được thường xuyên cập nhật:
- Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ. Sự phát triển của công nghệ
góp phần làm thay đổi phương thức sản xuất, góp phần làm thay đổi trong quản lý
doanh nghiệp dẫn tới các quyết định tài chính cũng phải thay đổi theo.
- Là chủ thể được tự do kinh doanh bình đẳng nhưng doanh nghiệp luôn là đối
tượng quản lý của các cơ quan nhà nước. Mọi hoạt động của doanh nghiệp bị điều

tiết và chi phối bởi cơ chế quản lý tài chính, hệ thống luật, các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến ngành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một sự thay
đổi nhỏ về chính sách, chuẩn mực đều có thể dẫn đến quyết định tài chính là đúng
đắn hay sai lầm.
- Kinh doanh luôn gắn liền với rủi ro đặc biệt trong nền kinh tế thị trường rủi
ro, rủi ro tài chính luôn tiềm ẩn, đòi hỏi các doanh nghiệp dự tính mức rủi ro có thể
chịu đựng được qua các quyết định tài chính để có biện pháp phòng ngừa để mức độ
an toàn là cao nhất vì rủi ro rất đa dạng và phức tạp nó có thể làm cho doanh nghiệp
phá sản, giải thể.
- Doanh nghiệp với sức ép của thị trường cạnh tranh, những đòi hỏi về chất
lượng, mẫu mã, chủng loại, giá cả hàng hoá, chất lượng dịch vụ ngày càng cao hơn,
tinh tế hơn của khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp cần có những thông tin nắm bắt thị
hiếu của khách hàng để thay đổi chính sách sản phẩm, đảm bảo sản xuất kinh doanh
có hiệu quả và chất lượng cao.
- Doanh nghiệp phải đáp ứng được đòi hỏi của các đối tác về mức vốn sở hữu
trong cơ cấu vốn. Sự tăng, giảm vốn chủ sở hữu có tác động đáng kể tới hoạt động
doanh nghiệp, đặc biệt trong các điều kiện kinh tế khác nhau.
- Doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh tốt phải luôn đặt các hoạt động
của mình trong mối liên hệ chung của ngành.Đặc điểm ngành kinh doanh liên quan
đến :
+ Tính chất của các sản phẩm.
+ Quy trình kỹ thuật áp dụng .
+ Cơ cấu sản xuất công nghiệp nặng hoặc công nghiệp nhẹ những cơ cấu
sản xuất này có tác động tới khả năng sinh lời, vòng quay vốn dự trữ phương tiện
tiền tệ vv.
1.2.2. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện
pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong
và bên ngoài, các luồng tiền dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính
tổng hợp và chi tiế, nhằm đánh giá tài chính doanh nghiệp ở quá khứ, hiện tài và dự

đoán tài chính doanh nghiệp trong tương lai, giúp các đối tượng đưa ra quyết định
kinh tế phù hợp với mục tiêu mong muốn.
1.2.2.1. Phương pháp đánh giá
a. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong phân tích
kinh tế nói chung và phân tích tài chính nói riêng, được áp dụng từ khâu đầu đến
khâu cuối của quá trình phân tích: từ khi sưu tầm tài liệu đến khi kết thúc phân tích.
Khi sử dụng phương pháp so sánh cần chú ý đến điều kiện so sánh, tiêu thức so sánh
và kỹ thuật so sánh.
Về điều kiện so sánh:
- Phải tồn tại ít nhất 2 đại lượng hoặc hai chỉ tiêu
- Các đại lượng, chỉ tiêu phải thống nhất về nội dung và phương pháp
tính toán, thống nhất về thời gian và đơn vị đo lường.
Tuy nhiên, người ta có thể so sánh giữa các đại lượng có quan hệ chặt chẽ với
nhau để hình thành chỉ tiêu nghiên cứu về một vấn đề nào đó.
Về tiêu thức so sánh: Tuỳ thuộc mục đích của cuộc phân tích, người ta
có thể lựa chọn một trong các tiêu thức sau đây:
- Để đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu đặt ra: tiến hành so sánh tài
liệu thực tế đạt được với tài liệu kế hoạch, dự đoán hoặc định mức.
- Để xác định xu hướng cũng như tốc độ phát triển: tiến hành so sánh
giữa số liệu thực tế kỳ này với thực tế kỳ trước.
- Để xác định vị trí cũng như sức mạnh của doanh nghiệp: tiến hành so sánh
giữa số liệu của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác cùng loại hình kinh
doanh hoặc giá trị trung bình của ngành kinh doanh.
Số liệu của một kỳ được chọn làm căn cứ so sánh được gọi là gốc so
sánh.
Về kỹ thuật so sánh: thường sử dụng các kỹ thuật so sánh sau đây:
- So sánh về số tuyệt đối: là việc xác định chênh lệch giữa trị số của chỉ
tiêu kỳ phân tích với trị số của chỉ tiêu kỳ gốc( trị số của chỉ tiêu có thể đơn lẻ, có thể
là số bình quân, có thể là số điều chỉnh theo một tỷ lệ hay một hệ số nào đó). Kết quả

so sánh cho thấy sự biến động về số tuyệt đối của hiện tượng đang nghiên cứu.
- So sánh bằng số tương đối: là xác định số % tăng giảm giữa thực tế
so với kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích, cũng có khi là tỷ trọng của một hiện tượng kinh
tế trong tổng thể quy mô chung được xác định. Kết quả cho biết tốc độ phát triển
hoặc kết cấu, mức phổ biến của hiện tượng kinh tế
b. Phương pháp phân chia
Là việc chia các hiện tượng kinh tế thành các bộ phận cấu thành trong mối
quan hệ biện chứng hữu cơ với các bộ phận khác và hiện tượng khác. Tuỳ theo mục
đích phân tích có thể phân tích theo các tiêu thức khác nhau:
- Phân chia hiện tượng và sự kiện kinh tế theo thời gian là việc phân chia
theo trình tự thời gian phát sinh và phát triển của hiện tượng và sự kiện kinh tế đó
như năm, tháng, tuần, kỳ... Việc phân chia này cho phép đánh giá được tiến độ phát
triển của chỉ tiêu kinh tế đang nghiên cứu.
- Phân chia theo không gian: là việc phân chia hiện tượng kinh tế theo địa
điểm phát sinh của hiện tượng đang nghiên cứu như doanh nghiệp con A,B; bộ phận
X,Y... Việc phân chia này cho phép cho phép đánh giá vị trí và sức mạnh của từng bộ
phận trong doanh nghiệp.

×