Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

ĐIỂM NHẤN TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.4 KB, 10 trang )

ĐIỂM NHẤN TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
VIỆT NAM 2019

Theo Bảng xếp hạng phát triển tài chính do Diễn đàn Kinh tế thế giới
(WEF) công bố ngày 8/10/2019 (dựa trên khoảng 120 tiêu chí, từ mức độ ổn định
tới quy mô của các thị trường vốn), với điểm số 3,00/7, Việt Nam được xếp ở vị trí
thứ 45 trong xếp hạng chung. So với năm 2018, điểm số của Việt Nam đã giảm
0,03 điểm, nhưng do các nước khác có điểm số giảm mạnh hơn, Việt Nam vẫn lên
4 hạng từ vị trí thứ 49 của năm ngoái.
Năm 2019 là năm thứ 2 liên tiếp cả nước đạt toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch chủ
yếu, trong đó 5 chỉ tiêu vượt kế hoạch, với ước GDP cả năm tăng 6,8 - 6,9%. Việt
Nam thuộc tốp có mức GDP năm 2019 tăng trưởng cao dẫn đầu khu vực và thế
giới, được coi là quốc gia có nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh, thế và lực
không ngừng được củng cố; uy tín quốc tế được nâng lên, bất chấp những khó
khăn chung về kinh tế thế giới trong năm 2019. Việt Nam được xếp thứ 8 trong số
các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với năm
20184; năng lực cạnh tranh của Việt Nam được Diễn đàn Kinh tế Thế giới xếp thứ
67/141 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 10 bậc so với năm 2018; Chỉ số năng lực cạnh
tranh ngành du lịch cũng tăng 2 bậc so với năm trước; Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn
cầu (GII) của Việt Nam tăng 3 bậc, xếp thứ 42/129 quốc gia, vùng lãnh thổ; đứng
thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và thứ 3 trong ASEAN.
Chỉ số xếp hạng về an toàn thông tin mạng của Việt Nam tăng 50 bậc, xếp thứ
50/175 quốc gia, vùng lãnh thổ. Theo Báo cáo môi trường kinh doanh - Doing
business 2020 (DB 2020) toàn cầu vừa được Ngân hàng Thế giới công bố, chỉ số
1


nộp thuế (Paying Taxes, với các tiêu chí như: số giờ nộp thuế; số lần nộp thuế
trong năm; tổng mức thuế suất trên lợi nhuận; chỉ số sau kê khai (hoàn thuế giá trị
gia tăng, thanh/kiểm tra thuế thu nhập doanh nghiệp) đã tăng 22 bậc, đưa Việt Nam
từ vị trí thứ 131 lên xếp thứ 109 trong tổng số 190 quốc gia được đánh giá. Nhờ kết


quả này, ngành thuế đã vượt chỉ tiêu của Chính phủ đã đề ra tại Nghị quyết số
02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định
hướng đến năm 2021. Theo đó, mục tiêu chỉ số nộp thuế năm 2019 tăng lên 7 - 10
bậc, tiệm cận mục tiêu đến năm 2021 lên 30 - 40 bậc. Theo báo cáo DB 2020 của
Ngân hàng Thế giới, phần lớn các chỉ số này đều có sự cải thiện so với năm trước
đó và được ghi nhận nhờ những nỗ lực của Việt Nam. Cụ thể, thời gian nộp thuế
giảm 114 giờ (từ 498 xuống 384 giờ); trong đó, 94 giờ giảm là do cải cách, đơn
giản hóa tại các thủ tục về khai thuế giá trị gia tăng và 20 giờ giảm là do những cải
cách, đơn giản hóa các thủ tục về nộp và quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp.
Số lần nộp thuế giảm từ 10 lần năm 2019 xuống còn 6 lần năm 2020. Tổng mức
thuế suất (tỷ lệ tổng thuế và đóng góp) giảm 0,2%, từ mức 37,8% năm 2019 xuống
còn 37,6% năm 2020. Thời gian doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị nộp thuế giá trị
gia tăng, bao gồm lập bảng kê hóa đơn hàng hóa, dịch vụ mua vào, bán ra theo Tờ
khai thuế giá trị gia tăng đã giảm khoảng 90 giờ (từ 212 còn 122 giờ). Thời gian kê
khai thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 5 lần xuống 1 lần…
Động lực và chất lượng tăng trưởng có bước phát triển, với tổng vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội cả năm ước khoảng 33,8% GDP; Tỷ trọng đầu tư của khu
vực ngoài nhà nước tăng lên 45,3%; Đầu tư tư nhân với nhiều dự án lớn được triển
khai mạnh mẽ, theo đúng định hướng tăng cường thu hút các nguồn lực xã hội.
Năng suất lao động tăng 5,9%; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
đạt 42,7%5.

2


Thị trường tài chính và nền tảng kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định vững chắc
trong điều kiện thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế biến động mạnh. Chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) dưới 3%, thấp hơn mục tiêu đề ra. Thị trường tài chính, tiền tệ và tỷ giá
được điều hành chủ động, linh hoạt và duy trì ổn định phù hợp; dự trữ ngoại hối

đạt khoảng 73 tỷ USD. Hệ số tín nhiệm quốc gia được nâng hạng từ BB- lên BB
với triển vọng “tích cực”. Năm 2019, tổng thu NSNN vượt 3,3% dự toán và là năm
thứ hai liên tiếp thu ngân sách trung ương vượt dự toán. Các chỉ tiêu tổng thu, huy
động vào ngân sách, thu nội địa... đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm. Bội chi được kiểm
soát cả số tuyệt đối và tương đối, với mức bội chi năm 2019 NSNN khoảng 3,4%
GDP và năm 2020 ước 3,44% GDP, vượt mục tiêu dưới 3,5% GDP. Tỷ trọng chi
đầu tư phát triển tăng, đạt 26,6%. Nhờ kiểm soát tốt, nợ công đã giảm một nửa so
với giai đoạn trước và tăng thấp hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa (năm 2019, nợ
công giảm còn 56,1% GDP so với mức 64,6% GDP năm 2016).
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong 9 tháng đầu năm 2019, thị trường tài
chính và dịch vụ tài chính có sự tăng trưởng về cả quy mô và chất lượng.
Trước hết, có thể thấy, thị trường chứng khoán được nhận thêm xung lực tích
cực mới nhờ Quốc hội thông qua Luật chứng khoán sửa đổi và Bộ Tài chính trình
Đề án thành lập Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam được thiết kế theo mô hình
“một Sở GDCK, hai sàn GDCK”, với các giải pháp tái cấu trúc thị trường chứng
khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025; Theo
đó, Sở GDCK sẽ được đặt tại Hà Nội để phù hợp quản lý, điều hành, giám sát, ứng
phó với tình hình bất bình thường. Sàn GDCK TP Hồ Chí Minh là nơi tập hợp các
DN cổ phần lớn, còn sàn GDCK Hà Nội sẽ là nơi giao dịch cổ phiếu, trái phiếu
Chính phủ... UBCKNN vẫn thuộc Bộ Tài chính như hiện tại, nhưng có bổ sung
thêm một số quyền cho UBCKNN; phát triển các sản phẩm phái sinh mới, đồng
thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đảm bảo sự phát triển ổn định của thị
trường. Tính đến ngày 25/9/2019, quy mô thị trường chứng khoán đã đạt khoảng
3


81% GDP, tăng 13% so với cuối năm 2018, vượt mục tiêu 70% GDP vào năm
2020 đề ra trong Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020. Thị trường bảo hiểm đạt tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 112,7
nghìn tỷ đồng, tăng 20,2% so cùng kỳ năm 2018; tổng giá trị tài sản đạt 441,2

nghìn tỷ đồng, tăng 19,2%; đầu tư trở lại nền kinh tế 370 nghìn tỷ đồng, tăng
26,1% so cùng kỳ năm 2018.
Đặc biệt, theo Báo cáo Giám sát trái phiếu châu Á của Ngân hàng Phát triển
châu Á (ADB), thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của khu vực Đông Á mới nổi
(bao gồm Trung Quốc, Hong Kong (Trung Quốc); Indonesia; Hàn Quốc; Malaysia;
Philippines; Singapore; Thái Lan và Việt Nam) cho thấy mức tăng trưởng đều đặn
trong quý III/2019 bất chấp tình trạng bất ổn thương mại vẫn còn dai dẳng và sự
suy giảm kinh tế toàn cầu. Tổng giá trị trái phiếu bằng đồng nội tệ đang lưu hành
trên thị trường Đông Á mới nổi đạt 15,2 nghìn tỉ USD vào cuối tháng 9, cao hơn
3,1% so với thời điểm cuối tháng 6-2019. Tổng số trái phiếu chính phủ bằng đồng
nội tệ đang lưu hành trị giá 9,4 nghìn tỉ USD, chiếm 61,8% tổng giá trị trái phiếu
đang lưu hành, trong khi tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp là 5,8 nghìn tỉ USD.
Đã có tổng cộng 1,5 nghìn tỉ USD trái phiếu bằng đồng nội tệ được phát hành
trong quý III/2019, tăng 0,9% so với quý trước. Sự cải thiện rõ rệt cũng được ghi
nhận về tính thanh khoản của thị trường và khối lượng giao dịch tại hầu hết các thị
trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của khu vực trong năm 2019 so với năm 2018.
Đồng thời, thị trường cũng đòi hỏi nhu cầu phải có một cơ chế phòng ngừa rủi ro
hoạt động hiệu quả và mạng lưới nhà đầu tư đa dạng cho cả trái phiếu chính phủ và
trái phiếu doanh nghiệp.Trong đó, thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của Việt
Nam đã gia tăng trong quý III/2019. Tính tới cuối tháng 9, Việt Nam có 55,1 tỉ
USD trái phiếu đang lưu hành, cao hơn 3,4% so với quý trước và tăng 1,9% so với
cùng kỳ năm ngoái xét theo giá trị đồng nội tệ. Sự gia tăng này chủ yếu là nhờ mức
tăng 4% so với quý trước của thị trường trái phiếu chính phủ - lên tới 51 tỉ USD 4


do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
Tỉ lệ tăng trưởng chung của thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ tại Việt Nam bị
kiềm chế đôi chút bởi mức sụt giảm 2,8% của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
so với quý trước, xuống còn 5 tỉ USD. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm ngoái, thị
trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn đạt mức tăng trưởng 4,2%.

Tính chung 9 tháng đầu năm 2019, tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp phát
hành là 155.306 tỷ đồng (số liệu không bao gồm các đợt phát hành riêng lẻ trong 3
tháng đầu năm do HNX không công bố). Trong đó, các ngân hàng thương mại vẫn
là tổ chức phát hành lớn nhất với tổng lượng phát hành hơn 75.936 tỷ đồng (chiếm
49%), đứng sau là các doanh nghiệp bất động sản (47.372 tỷ đồng - chiếm 26,4%),
còn lại là các công ty phát triển hạ tầng, công ty chứng khoán và các doanh nghiệp
khác. Tính toàn thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong 9 tháng 2019, lãi suất bình
quân là 8,4%/năm và kỳ hạn bình quân là 3,68 năm, trong đó, lãi suất và kỳ hạn
bình quân của nhóm ngân hàng là 6,82%/năm và 3,82 năm; của nhóm bất động sản
là 10,17%/năm và 3,42 năm.
Ngày 24/9/2019 là cột mốc quan trọng đối với thị trường trái phiếu Chính
phủ chuyên biệt, đánh dấu 10 năm xây dựng và phát triển của thị trường. Trải qua
quá trình 10 năm hoạt động, thị trường TPCP đã có bước phát triển ấn tượng về
quy mô và độ sâu, khẳng định vai trò quan trọng là kênh huy động vốn hiệu quả
cho Ngân sách Nhà nước, đóng góp không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế của đất
nước. Trên thị trường sơ cấp, trong vòng 10 năm, hơn 1,8 triệu tỷ đồng vốn đã
được huy động cho Ngân sách Nhà nước để phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển
kinh tế đất nước. Con số này tương ứng với mức huy động bình quân năm đạt hơn
180 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,6% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội năm 2018, 31%
tổng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước năm 2018. Để huy động được lượng vốn
hơn 1,8 triệu tỷ đồng này, đã có 1.872 phiên đấu thầu được tổ chức với tỷ lệ huy
động thành công bình quân đạt 60-70% trên tổng khối lượng gọi thầu. Lãi suất huy
5


động vốn trên thị trường TPCP đã giảm đáng kể, giúp tiết kiệm cho ngân sách Nhà
nước hàng nghìn tỷ đồng tiền trả lãi và hỗ trợ tích cực trong điều tiết kinh tế vĩ mô
của Nhà nước. Theo đó, lãi suất huy động vốn trung bình đã giảm từ 4 đến 6%/năm
trên tất cả các kỳ hạn. Trong đó, đặc biệt giảm mạnh tại các kỳ hạn 5 năm (giảm từ
10,49%/năm trong 2009 xuống còn 3,55%/năm trong 2019; kỳ hạn 10 năm (giảm

từ mức 9,7%/năm trong 2009 xuống còn 4,35%/năm trong năm 2019). Ngược
chiều giảm lãi suất, kỳ hạn của các trái phiếu ngày càng tăng. Đến nay, Kho bạc
Nhà nước đã phát hành thành công các trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn lên tới 30
năm. Nhờ sự đa dạng kỳ hạn, nhà đầu tư có nhiều lựa chọn hơn trên thị trường này
và ở góc độ quản lý điều này cũng giúp giảm áp lực trả nợ trong thời gian ngắn và
làm tăng hiệu quả cho đầu tư phát triển của toàn xã hội. Nếu như năm 2009, TPCP
phát hành chỉ có 4 kỳ hạn 2, 3, 5 và dài nhất là 10 năm, trong đó, kỳ hạn 5 năm trở
lên chỉ chiếm 15% tổng khối lượng phát hành, thì đến năm 2019, đã có thêm các
kỳ hạn dài 15 năm, 20 năm và 30 năm, trong đó, kỳ hạn dài từ 10 năm trở lên đã
chiếm đến 90% tổng khối lượng phát hành. Trên thị trường thứ cấp, giao dịch
TPCP không ngừng tăng về quy mô và độ sâu, tiệm cận với các nước có thị trường
TPCP phát triển trong khu vực và trên thế giới. Thanh khoản trái phiếu năm 2019
đạt mức hơn 9 nghìn tỷ đồng/phiên, gấp gần 24 lần so với năm 2009. Giá trị giao
dịch Repos theo đó cũng tăng trưởng mạnh mẽ từ quy mô khiêm tốn với tỷ trọng
6,5% trên tổng giá trị giao dịch năm 2009 lên mức 55% tổng giá trị giao dịch toàn
thị trường năm 2019. Thị trường TPCP liên tục được bổ sung các sản phẩm trên cả
thị trường sơ cấp và thứ cấp, đáp ứng được nhu cầu đầu tư đa dạng của thị trường.
Trên thị trường sơ cấp, không chỉ có sản phẩm cơ bản là trái phiếu trả lãi định kỳ,
mà còn có các sản phẩm trái phiếu không trả lãi, trái phiếu có kỳ trả lãi dài. Trên
thị trường thứ cấp, ngoài hai sản phẩm cơ bản là Outright và Repos, trước xu thế
phát triển mạnh của giao dịch Repos, vào cuối năm 2018, đã có thêm 3 sản phẩm
Repos nữa gồm Vay trái phiếu, Bán kết hợp mua lại, Vay để bán được giới thiệu ra
6


thị trường với kỳ vọng thanh khoản của thị trường sẽ ngày càng bứt phá, thu hút
thêm nguồn vốn từ nhà đầu tư nước ngoài. Hạ tầng công nghệ phục vụ thị trường
như hệ thống đấu thầu, hệ thống giao dịch cũng liên tục được HNX đầu tư, nâng
cấp theo hướng bám sát nhu cầu và hỗ trợ tốt cho các hoạt động đa dạng của thị
trường trên một nền tảng công nghệ hiện đại. Hệ thống đấu thầu điện tử trực tuyến

(E.ABS), hệ thống giao dịch từ xa, hệ thống giao dịch trực tuyến TPCP (E-BTS)
trên nền internet đã đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin và giao dịch ngày càng hiện
đại của các thành viên thị trường và nhà đầu tư, giúp họ ra quyết định đầu tư hiệu
quả hơn, tiết kiệm đáng kể chi phí và thời gian giao dịch. Hệ thống chỉ báo thị
trường TPCP cũng được chú trọng phát triển. Khởi đầu với đường cong lợi suất ra
mắt tháng 3/2013, tháng 01/2015, bộ chỉ số trái phiếu (Bond indices) với nhiều kỳ
hạn khác nhau tiếp tục được đưa vào sử dụng. Đến nay, 2 hệ thống chỉ báo này đều
phát huy vai trò tích cực trong việc định lãi suất tham chiếu và định giá trái phiếu,
giúp cho nhà đầu tư và thành viên thị trường thuận lợi hơn trong việc giao dịch trái
phiếu trên thị trường. Hai hãng thông tin quốc tế Bloomberg và Reuters đều đã
cung cấp thông tin về hệ thống chỉ báo này dưới tên gọi “VN Bond Yield Curve”
và “VN Bond Index” cho các nhà đầu tư quốc tế. Liên tục trong các năm 2013,
2014, 2018, 2019, thị trường TPCP Việt Nam được Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB) đánh giá là một trong các thị trường có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất khu
vực Đông Á.
Năm 2019, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động, linh hoạt trong điều hành
chính sách tiền tệ phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, góp phần
quan trọng vào việc ổn định kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, đảm bảo thanh
khoản cho hệ thống tổ chức tín dụng và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu.
Việt Nam hiện đang được đưa vào danh sách giám sát Chính sách kinh tế vĩ
mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Hoa Kỳ theo quy định của Hoa
Kỳ, với 3 tiêu chí: Thứ nhất, có thặng dư thương mại với phía Hoa Kỳ trên 20 tỷ
7


USD; thứ hai, có thặng dư cán cân vãng lai trên 2% GDP; thứ ba, có can thiệp một
chiều và kéo dài trên thị trường ngoại tệ, thể hiện qua việc mua ròng ngoại tệ trong
ít nhất 6 tháng trên giai đoạn 12 tháng với tổng lượng ngoại tệ mua ròng tương
đương ít nhất 2% GDP trong giai đoạn 12 tháng. Việt Nam thỏa mãn 2 tiêu chí đầu
của Hoa Kỳ, còn về tiêu chí thứ ba, Việt Nam đạt thấp hơn ngưỡng phía Hoa Kỳ

đưa ra. Việt Nam cũng được Hoa Kỳ khẳng định không thực hiện việc thao túng
tiền tệ, không dùng chính sách tiền tệ, tỷ giá để tạo cạnh tranh, tạo lợi thế thương
mại một cách không công bằng. Những khuyến nghị chính sách của Bộ Tài chính
Hoa Kỳ đưa ra cho Việt Nam cũng nằm trong lộ trình mà Chính phủ đang chỉ đạo
các Bộ, ngành, trong đó có Ngân hàng Nhà nước, triển khai và hoàn thiện các
chính sách và các cơ chế điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
Trên cơ sở đánh giá diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ trong nước
và quốc tế, từ ngày 16/9/2019, NHNN điều chỉnh giảm 0,25% các mức lãi suất
điều hành; theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6,25%/năm xuống 6%/năm; Lãi
suất tái chiết khấu từ 4,25%/năm xuống 4%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong
thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiết hụt vốn trong thanh toán
bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng từ 2,25%/năm xuống 7%/năm; lãi suất
chào mua giấy tờ có giá quy nghiệp vụ OMO từ 4,75%/năm xuống 4,59%/năm.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ về phấn đấu giảm lãi suất cho vay, trên cơ sở
diễn biến kinh tế vĩ mô thị trường tiền tệ, ngoại hối ngày 18/11/2019, NHNN đã
tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất. Theo đó, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi
không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1%/năm xuống 0,8%/năm; lãi
suất tối đa áp dụng đối với tỷ giá có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ
5,5%/năm xuống 5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1
tháng đến dưới 6 tháng tại QTDND… tổ chức tài chính vi mô giảm từ 6%/năm
xuống 5,59%/năm; lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do TCTD ấn định
8


trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường; lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND
đối với các nhu cầu vốn phục vụ nông nghiệp, nông thôn, xuống… công nghiệp hỗ
trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao giảm từ
6,59%/năm xuống 6%/năm; Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND của QTDND và
tổ chức tài chính vi mô đối với các nhu cầu vốn này giảm từ 7,5%/năm xuống
7%/năm.

Việc giảm lãi suất là những thông điệp tốt đối với nền kinh tế, góp phần hỗ
trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn rẻ hơn, đẩy mạnh huy động sản xuất kinh doanh, từ
đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tết tốt hơn trong thời gian tới.
Về triển vọng, để phát triển TTTC Việt Nam theo hướng hiện đại, lành
mạnh, với cơ cấu hợp lý, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô
cho tới năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, cần tiếp tục tập trung hiện đại hóa,
nâng cao năng lực tài chính và hoạt động của khu vực ngân hàng; đa dạng hóa các
công cụ và phương thức giao dịch trên thị trường tiền tệ, nhất là các công cụ phái
sinh; đa dạng hóa các thành viên tham gia thị trường và bảo đảm các TCTD có đủ
vốn tự có theo chuẩn mực vốn của Basel II; nâng cao năng lực quản trị rủi ro tại
các NHTM, phù hợp chuẩn mực và thông lệ quốc tế; nâng cao chất lượng cơ sở hạ
tầng về thông tin và thanh toán của hệ thống ngân hàng thông qua áp dụng công
nghệ số, công nghệ tài chính (Fintech); hình thành thị trường mua bán nợ; Đồng
thời, mở rộng và phát triển thị trường vốn theo chiều sâu; phát triển cơ sở nhà đầu
tư có tổ chức; tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý các quy định hướng dẫn việc triển
khai các loại hình quỹ đầu tư chuyên biệt; Thúc đẩy thị trường trái phiếu DN và đa
dạng hóa cấu trúc sản phẩm trên thị trường phái sinh. Đặc biệt, nâng cao năng lực
giám sát TTTC, tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý,
giám sát tài chính, như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ủy ban
Giám sát tài chính quốc gia…, ưu tiên thiết lập các cơ chế giám sát, cảnh báo sớm,
đảm bảo TTTC hoạt động ổn định và lành mạnh; trong đó có cơ chế giám sát hoạt
9


động của NHTM thông qua các công cụ giám sát an toàn vĩ mô và cách thức quản
lý dựa trên rủi ro. Coi trọng bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa hệ thống tín
dụng và thị trường vốn.

10




×