Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Thực trạng về phương pháp nghiên cứu và các thiếu hụt về bằng chứng của các nghiên cứu kiểm soát bệnh tim mạch tại việt nam từ 2013 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.42 KB, 96 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ ĐỨC TÙNG

THỰC TRẠNG VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC THIẾU
HỤT VỀ BẰNG CHỨNG CỦA CÁC NGHIÊN CỨU KIỂM SOÁT
BỆNH TIM MẠCH TẠI VIỆT NAM TỪ 2013 - 2017

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

Hà Nội – Năm 2019

1


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ ĐỨC TÙNG


THỰC TRẠNG VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC THIẾU
HỤT VỀ BẰNG CHỨNG CỦA CÁC NGHIÊN CỨU KIỂM SOÁT
BỆNH TIM MẠCH TẠI VIỆT NAM TỪ 2013 - 2017

Chuyên ngành: Dịch tễ học
Mã số : 60720117

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Đào Thị Minh An

Hà Nội - Năm 2019

2


LỜI CẢM ƠN
Với tất cả tấm lòng trân trọng, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới:
-

Ban Giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội, Ban Lãnh đạo Viện Đào tạo Y học
dự phòng và Y tế công cộng, Phòng quản lý Đào tạo Sau đại học, Bộ môn
Dịch tễ học - Trường Đại học Y Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp

-

đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
PGS.TS. Đào Thị Minh An – Trường Đại học Y Hà Nội đã tận tình dạy dỗ,
truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm, hướng dẫn phương pháp nghiên cứu khoa


-

học và tạo điều kiện về mọi mặt để tôi hoàn thành luận văn.
Các cán bộ của thư viện trường Đại học Y Hà Nội và các ban biên tập tạp chí
trong nước đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thu thập số liệu làm nghiên

-

cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Ban Giám Hiệu - Trường Đại học
Y Dược Thái Nguyên – nơi tôi công tác, xin cảm ơn cha mẹ, những người
thân trong gia đình và những người bạn đã dành cho tôi mọi sự động viên chia
sẻ về tinh thần, thời gian và công sức giúp tôi vượt qua mọi khó khăn trong
quá trình học tập và nghiên cứu.

Lê Đức Tùng

3


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lê Đức Tùng, học viên cao học khóa 26 Trường Đại học Y Hà
Nội, chuyên ngành Dịch tễ học, xin cam đoan:
1.

Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của

2.


PGS.TS. Đào Thị Minh An.
Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được công

3.

bố tại Việt Nam.
Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là chính xác, trung thực và khách
quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 6 tháng 6 năm 2019
Người viết cam đoan

Lê Đức Tùng

4


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BKLN

Bệnh không lây nhiễm

BTM

Bệnh tim mạch

COPD

Chronic Obstructive Pulmonary Disease

(Bệnh đường hô hấp mạn tính)

DALY

Disability-Adjusted Life Year
(Năm sống tàn tật được hiệu chỉnh)

ĐTĐ

Đái tháo đường

GMF

Global Monitoring Framework
(Khung giám sát toàn cầu)

HCCH

Hội chứng chuyển hóa

HMU

Hanoi Medical University
(Đại học Y Hà Nội)

ICD

International Statistical Classification of Diseases and Related
Health Problems
(Phân loại thống kê quốc tế về bệnh và các vấn đề sức khoẻ liên

quan)

THA

Tăng Huyết áp

WHO

World Health Organization
(Tổ chức Y tế thế giới)

5


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU& HÌNH

6


7

ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hiện mỗi năm có hơn 41
triệu người tử vong do bệnh không lây nhiễm (BKLN), tương đương với 71%
tổng số ca tử vong toàn cầu, với hơn 85% các trường hợp tử vong sớm này
xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Mặc dù Việt Nam là một
nền kinh tế mới nổi ở khu vực Tây – Thái Bình Dương, nhưng dân số vẫn
phải đối mặt với gánh nặng gấp đôi về bệnh truyền nhiễm và bệnh không lây

nhiễm [1].Một mối quan hệ nghịch đảo có thể được quan sát thấy tỷ lệ mắc
các bệnh truyền nhiễm có xu hướng giảm trong khi tỷ lệ mắc các BKLN có
xu hướng tăng cao [2]. Năm 2012, BKLN đóng góp tới 66,2% số năm sống
tàn tật được hiệu chỉnh (DALYs) tại Việt Nam và năm 2016, 31% số ca tử
vong là do bệnh tim mạch (BTM) [3]. Bệnh tim mạch hiện đang là nguyên
nhân gây tử vong hàng đầu ở trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Theo thống
kê của WHO, trong 17 triệu ca tử vong sớm (< 70 tuổi) do các bệnh không lây
nhiễm năm 2015 có 37% là tử vong do bệnh tim mạch [4]. Tại Việt Nam, mỗi
năm có hơn 70,000 ca tử vong do bệnh tim mạch, trong số những trường hợp
tử vong này, chủ yếu 85% là do đau tim và đột quỵ [5].
Tại Hội nghị Y tế Thế giới lần thứ 66 năm 2013, 25 chỉ số đã được thành
lập để giúp các quốc gia thành viên xây dựng kế hoạch hành động toàn cầu để
kiểm soát BKLN [4]. Để phân tích kiểm soát sức khỏe cộng đồng bệnh tim
mạch, chúng tôi đã trích xuất 20 chỉ số liên quan chặt chẽ trong số 25 chỉ số
kiểm soát BKLN và phân loại chúng thành 4 nhóm chính gồm: Tỷ lệ tử vong,
bệnh và các yếu tố chuyển hóa, hành vi nguy cơ và đáp ứng của hệ thống. Tỷ
lệ tử vong liên quan đến tỷ lệ lưu hành hoặc xác suất tử vong liên quan đến
bệnh tim mạch. Các yếu tố bệnh và chuyển hóa bao gồm các bệnh về tim
mạch, tăng huyết áp và bệnh đái tháo đường. Hành vi nguy cơ bao gồm sử
dụng thuốc lá, uống rượu, ít hoạt động thể chất và chế độ dinh dưỡng. Đáp


8

ứng của hệ thống liên quan đến năng lực của hệ thống y tế bao gồm quyền
tiếp cận chăm sóc và hiệu quả của các can thiệp [2-6].
Như vậy việc cung cấp bằng chứng cho 4 nhóm trên rất quan trọng cho
việc đưa ra chính sách quản lý BKLN nói chung và bệnh tim mạch nói riêng.
Hiện nay ở Việt nam chưa có nghiên cứu nào tổng quan được về các nghiên
cứu triển khai trong lĩnh vực bệnh tim mạch cung cấp bằng chứng về 4 nhóm

này dù là các bài báo nghiên cứu trong và ngoài nước hay các luận văn nghiên
cứu từ các trường Đại học Y Dược lớn trong cả nước. Đại học Y Hà Nội
(HMU), là một trong những trường Đại học Y hàng đầu tại Việt Nam có tiếng
là đào tạo sinh viên y khoa tốt nghiệp và tạo điều kiện cho việc xuất bản nhiều
nghiên cứu.[7] Trung bình mỗi năm, có gần một ngàn luận văn tốt nghiệp
được hoàn thành. Vậy nên câu hỏi đặt ra rằng việc cung cấp bằng chứng và
thực trạng của các nghiên cứu bệnh tim mạch tại Đại học Y Hà Nội và các
nghiên cứu bệnh tim mạch khác tại Việt Nam hiện nay có đáp ứng được các
bằng chứng cho 4 nhóm kiểm soát bệnh tim mạch trên theo khung kiểm soát
toàn cầu?
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng về phương
pháp nghiên cứu và các thiếu hụt về bằng chứng của các nghiên cứu kiểm
soát bệnh tim mạch tại Việt Nam từ 2013 – 2017.” với 2 mục tiêu như sau:
1. Mô tả các thiết kế nghiên cứu đã được áp dụng với các nghiên cứu
kiểm soát bệnh tim mạch tại Việt Nam từ 2013 - 2017.
2. Mô tả thực trạng và sự thiếu hụt về bằng chứng của các nghiên cứu
kiểm soát bệnh tim mạch tại Việt Nam từ 2013 – 2017..


9

Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Gánh nặng và xu hướng BKLN và bệnh tim mạch hiện nay

Hiện nay, hoạt động phòng chống bệnh không lây nhiễm (BKLN) của Việt
Nam và các nước trên thế giới đang tập trung vào các nhóm bệnh chính gồm:
bệnh tim mạch (đột quỵ, suy tim, bệnh mạch vành…), tăng huyết áp (THA), đái
tháo đường, các bệnh ung thư và COPD. Đây là những BKLN có tỷ lệ mắc cao
và là nguyên nhân chủ yếu gây tàn tật và tử vong ở người trưởng thành. Bên
cạnh đó, những bệnh này có chung một số yếu tố nguy cơ có thể phòng, tránh

được, vì vậy kiểm soát những yếu tố nguy cơ chung có thể phòng ngừa được
đồng thời các bệnh. Bệnh không lây còn được gọi là “bệnh mạn tính” bởi vì quá
trình hình thành bệnh diễn ra trong nhiều năm, thường là bắt đầu từ tuổi trẻ,
bệnh tiến triển kéo dài, đòi hỏi việc điều trị có hệ thống và lâu dài, thậm chí cả
cuộc đời. Đối với các BKLN thường không xác định được nguyên nhân cụ thể
mà chỉ có một nhóm yếu tố nguy cơ góp phần làm bệnh phát triển gồm: Yếu tố
về hành vi lối sống như hút thuốc lá, lạm dụng rượu, bia, dinh dưỡng không
hợp lý và ít hoạt động thể lực.
Tổ chức Y tế thế giới dự báo trên toàn cầu, tỷ lệ tử vong do BKLN sẽ tăng
15% trong giai đoạn 2010-2020 (khoảng 44 triệu trường hợp tửC vong). Khu
vực có số tử vong do BKLN cao nhất vào năm 2020 là Đông Nam Á (10,4 triệu
ca) [8]. Tổn thất tích lũy về kinh tế toàn cầu do BKLN trong giai đoạn 20112025 có thể lên tới 7 ngàn tỷ USD, trung bình mỗi năm là 500 tỷ USD tương
ứng với 4% thu nhập quốc nội năm 2010 của các nước đang phát triển. Tại Việt
Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây, số người mắc mới bệnh tim mạch và ung
thư được phát hiện tăng 50%. Mỗi ngày có 350 trường hợp mắc mới ung thu
được phát hiện và có 190 người tử vong do ung thư. Sau 10 năm, từ 2002 đến
2012, tỷ lệ bệnh ĐTĐ tăng trên 2 lần, từ 2,7% lên 5,4%. Trong suốt 50 năm
qua, tỷ lệ người bị THA ở người trưởng thành Việt Nam luôn tăng nhanh: tăng
từ 1% (năm 1960); 1,9% (năm1976), 11,7% (năm 1992), 16,3% (năm 2002)


10

tăng lên 25,1% (năm 2008) Trong thời gian 5 năm, tỷ lệ thừa cân-béo phì và
béo phì tăng gấp 2 lần tương ứng từ 3,5% và 0,2% (2000) lên 6,6% và 0,4%
(2005) Với tốc độ già hóa dân số, tiến trình đô thị hóa ngày càng nhanh, môi
trường sống bị ô nhiễm, các yếu tố nguy cơ gây BKLN vẫn chưa được kiểm
soát thì số người mắc và tử vong do BKLN được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng,
nhất là nhóm bệnh tim mạch với tốc độ gia tăng nhanh chóng về số lượng người
mắc, nhiều biến chứng nặng nề, điều trị tốn kém và tiên lượng tử vong cao sẽ

vẫn là gánh nặng bệnh tật chủ yếu trong giai đoạn tới. [9]
1.1.1. Trên Thế giới

Gần 80% số tử vong của các BKLN (29 triệu) xảy ra ở các nước thu nhập
thấp và trung bình thấp [10] .Trong số tử vong do BKLN, tử vong chủ yếu là do
các bệnh tim mạch (17 triệu người, tương ứng với 48% tử vong của các
BKLN); sau đó đến ung thư (7,6 triệu người, tương ứng với 21%); và bệnh phổi
mạn tính (4,2 triệu người), bao gồm hen phế quản và bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính (COPD). Đái tháo đường gây ra 1,3 triệu tử vong [10]. Tử vong do các
BKLN đang ngày càng ở độ tuổi trẻ hơn. Theo số liệu của WHO năm 2011, đa
số trường hợp tử vong sớm do BKLN trong độ tuổi từ 30 -70 xảy ra ở các nước
đang phát triển (chiếm 85%, tương đương khoảng 11,8 triệu người). Xác suất tử
vong sớm từ 30 - 70 tuổi do các BKLN chính giao động từ 10% ở các nước
phát triển đến 60% ở các nước đang phát triển [11]. Trước sự đe dọa sức khỏe
trên toàn cầu, trong tháng 9 năm 2011 Hội nghị cấp cao Đại Hội đồng Liên hợp
quốc đã ra Tuyên bố chính trị khẳng định các BKLN chủ yếu gồm bệnh tim
mạch, ung thư, đái tháo đường và COPD là một thách thức lớn của thế kỷ XXI,
làm suy giảm sự phát triển kinh tế toàn cầu và đe dọa thành tựu thực hiện các
Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ [12].
1.1.2. Tại Việt Nam

Việt Nam cũng đang phải đối mặt với sự gia tăng ngày càng trầm trọng
của các BKLN. Cùng với sự thay đổi cấu trúc dân số, toàn cầu hóa, đô thị hóa
và di dân, thay đổi môi trường, biến đổi khí hậu và thói quen sống, mô hình


11

bệnh tật cũng có nhiều sự thay đổi. Trong khi tỷ lệ mắc các bệnh do nguyên
nhân nhiễm trùng đang giảm thì tỷ lệ mắc BKLN lại gia tăng đến mức báo

động. Theo thống kê tại bệnh viện, trong khi tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm giảm
từ 55,5% (năm 1976) xuống còn 19,8% (năm 2010) thì tỷ lệ mắc BKLN đang
tăng nhanh từ 42,6% trong năm 1976 lên tới 71,6% trong năm 2010 [13].
WHO ước tính trong năm 2012 cả nước có 520.000 trường hợp tử vong
do tất cả các nguyên nhân, trong đó tử vong do các BKLN chiếm tới 73%
(379,600 ca). Trong số này các bệnh tim mạch chiếm nhiều nhất là 33%, ung
thư chiếm 18%, COPD chiếm 7% và ĐTĐ chiếm 3% [14]. Ước tính năm 2012,
gánh nặng (DALYs) của BKLN chiếm 66,2% tổng gánh nặng bệnh tật do tất cả
các nguyên nhân tại Việt Nam [15].
Trong năm 2012, gánh nặng bệnh tật (DALYs) do các bệnh tim mạch
(BTM) chiếm tỷ lệ lớn nhất (13,4%) trong tổng gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam.
Các bệnh tim mạch cũng chiếm tỷ lệ tử vong lớn nhất (33%) trong tổng số tử
vong. Đột quỵ, nhồi máu cơ tim và bệnh tim do tăng huyết áp là 3 trong số 20
nguyên nhân gây tử vong hàng đầu [15]. Theo kết quả nghiên cứu từ giám sát tử
vong dựa trên chọn mẫu điểm toàn quốc năm 2009, tử vong do các bệnh mạch
máu não chiếm hàng đầu (ở nam và nữ tương đương là 16,6% và 18% tổng số
tử vong do mọi nguyên nhân); tử vong do thiếu máu cơ tim ở nam và nữ tương
ứng là 3,7% và 3,5% trong tổng số tử vong [16]. Tăng huyết áp là một yếu tố
nguy cơ chính dẫn đến các biến cố tim mạch nặng nề như đột quỵ, nhồi máu cơ
tim, suy tim, suy thận và mù lòa…Trong một nghiên cứu của Nguyễn Văn
Đăng và cộng sự năm 1996 cho thấy THA là nguyên nhân chính (chiếm 59,3%
các nguyên nhân) gây ra tai biến mạch máu não [17]. Ước tính có khoảng
15,990 người bị liệt, tàn phế, mất sức lao động do tai biến mạch máu não hàng
năm. Điều tra dịch tễ học suy tim và một số nguyên nhân chính tại các tỉnh phía
bắc Việt Nam năm 2003 do Viện Tim mạch phối hợp với WHO thực hiện cho
thấy nguyên nhân hàng đầu gây suy tim tại cộng đồng là do tăng huyết áp
(chiếm 10,2%), sau đó là do bệnh van tim do thấp (0,8%).


12


1.2.

Các nhóm bằng chứng kiểm soát bệnh không lây nhiễm
Gánh nặng về bệnh không lây nhiễm đang là một trong những thách thức

lớn với sức khỏe cộng đồng đối với tất cả các quốc gia, bất kể tình trạng kinh tế
của họ. BKLN đe dọa sự phát triển kinh tế và xã hội và, nếu không có nỗ lực
phối hợp ở cấp quốc gia, được dự đoán sẽ tăng mạnh trong thập kỷ tới. Việc
theo dõi và giám sát cung cấp thông tin về BKLN kịp thời rất quan trọng giúp
các quốc gia có thông tin cần thiết để chống lại BKLN ngay từ bây giờ hoặc
lập kế hoạch cho tương lai. Chúng là những công cụ cơ bản cho sức khỏe cộng
đồng. Các hoạt động giám sát BKLN bao gồm việc thu thập thông tin y tế
thường xuyên về các nhóm chỉ số tử vong, chỉ số về bệnh và các yếu tố chuyển
hoá, hành vi nguy cơ và các đáp ứng của hệ thống quốc gia. Phân tích thường
xuyên các chỉ số theo thời gian, địa điểm và giữa các nhóm dân cư, chia sẻ kiến
thức khoa học có sẵn cũng như phổ biến kết quả thường xuyên nhằm cung cấp
những bằng chứng quan trọng giúp nắm rõ tình hình và kiểm soát BKLN.[18]
1.2.1. Giám sát tử vong

Tỷ lệ tử vong do BKLN và tổng số ca tử vong do BKLN được báo cáo
cho năm 2015 cho tất cả các quốc gia có dân số lớn hơn 90,000 người. Những
số liệu này được lấy từ tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân gây ra năm 2015
được ước tính từ các bảng tuổi thọ trung bình được sửa đổi và được công bố
trên số liệu thống kê sức khỏe thế giới năm 2017 [9]. Tổng số người tử vong
theo độ tuổi và giới tính được ước tính cho mỗi quốc gia bằng cách áp dụng tỷ
suất tử vong này cho các quần thể cư trú ước tính do Ban Dân số Liên Hợp
Quốc chuẩn bị trong bản sửa đổi năm 2015 [5]. Hệ thống đăng ký hộ tịch ghi lại
các trường hợp tử vong với đầy đủ số lượng và chất lượng nguyên nhân của
thông tin về các ca tử vong đã được sử dụng làm nguồn dữ liệu ưu tiên. Thông

tin chi tiết về tình trạng tử vong và nguyên nhân tử vong được công bố trước đó
[8].
Mặc dù dữ liệu đáng tin cậy cho tỷ lệ tử vong do nguyên nhân cụ thể rất
hiếm, bệnh không lây nhiễm được ước tính có trách nhiệm cho 64% tổng số tử


13

vong ở 23 quốc gia, với 47% xảy ra ở những người trẻ hơn 70 tuổi [19]. Gánh
nặng của bốn BKLN chính là bệnh tim mạch, ung thư, đái tháo đường và bệnh
phổi mạn tính đang gia tăng không cân xứng ở các nước có thu nhập thấp và
dân số, trong đó bệnh tim mạch chiếm tỷ lệ tử vong cao nhất với 17 triệu người
mỗi năm, tiếp theo là ung thư (7,6 triệu), bệnh hô hấp (4,2 triệu) và đái tháo
đường (1,3 triệu). Bốn nhóm bệnh này chiếm khoảng 80% số ca tử vong do
BKLN và chia sẻ bốn yếu tố nguy cơ phổ biến [20]. Khoảng 30% số người tử
vong do BKLN ở các nước có thu nhập thấp và trung bình ở độ tuổi dưới 60 và
đang trong giai đoạn sinh sản hiệu quả nhất. Những ca tử vong sớm này càng bi
thảm hơn vì chúng có thể phòng tránh được.
Tỷ lệ tử vong chuẩn do bệnh không lây nhiễm theo tuổi cho mọi lứa tuổi
ở các nước thu nhập thấp và trung bình là 756 trên 100,000 cho nam và 565 trên
100,000 đối với nữ - cao hơn 65% và 85% so với nam và nữ ở các nước có thu
nhập cao [21].
Tại Việt Nam hiện nay, các số liệu mắc và tử vong do các bệnh không
lây nhiễm hiện nay còn rất hạn chế, chủ yếu dựa vào báo cáo bệnh viện, ghi
nhận ung thư và qua một số điều tra quy mô nhỏ tại cộng đồng. Vì vậy Việt
nam còn thiếu các số liệu định kỳ về tình hình mắc và tử vong do các bệnh
tim mạch đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính...
Đối với hoạt động giám sát tại bệnh viện: Hệ thống báo cáo thống kê
bệnh viện phân loại bệnh tật theo ICD 10 định kỳ cung cấp các thông tin về
tình hình mắc, tử vong của một số bệnh không lây nhiễm tại các bệnh

viện trong toàn quốc. Các trung tâm ghi nhận ung thư được thiết lập và triển
khai tại 9 tỉnh/thành phố (Dự án phòng chống ung thư) cung cấp các số liệu
ước tính về mắc mới do một số loại ung thư, tuy nhiên quy mô bao phủ của
ghi nhận còn nhỏ (khoảng 20%).


14

Hiện tại chưa giám sát tử vong tại cộng đồng do chưa triển khai thu
thập thông qua thống kê tại trạm y tế xã và qua sổ chứng tử của xã. Mới
chỉ có một số nghiên cứu quy mô nhỏ để ước tính gánh nặng và tử vong do
một số bệnh không lây nhiễm. Chính vì vậy Việt Nam còn thiếu các số liệu
một cách hệ thống về mô hình bệnh tật và tử vong do bệnh không lây nhiễm.
[22]
1.2.2. Giám sát bệnh và các yếu tố chuyển hoá

Các bệnh không lây nhiễm đại diện cho một phần lớn gánh nặng sức
khỏe toàn cầu về bệnh tật và tỷ lệ tử vong, và tỷ lệ hiện mắc của nó đang gia
tăng trên toàn thế giới. Khi ngày càng có nhiều người chung sống cùng với
bệnh không lây nhiễm, phòng ngừa cấp 1 và phòng ngừa cấp 2 trở thành một
công cụ quan trọng để ngăn chặn dịch bệnh sắp xảy ra này. 4 Nhóm chính của
BKLN bao gồm bệnh tim mạch, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
và ung thư, với bệnh tim mạch đóng góp vào phần lớn các ca tử vong do bệnh
không lây nhiễm. Kiểm soát tăng huyết áp là can thiệp quan trọng có thể làm
giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh tim mạch, có thể đạt được bằng cách tiếp cận
ba hướng như bao gồm chế độ ăn uống, tập luyện thể chất và can thiệp dược lý.
Giám sát là một phần không thể tách rời của phương pháp này, trong đó ghi lại
huyết áp và các điều tra khác nhau được yêu cầu phải được thực hiện trong các
khoảng thời gian khác nhau. Đái tháo đường là một bệnh không lây nhiễm quan
trọng trong đó các phòng ngừa cấp 1 và cấp 2 có tầm quan trọng tối thượng.

Tương tự như vậy, các BKLN khác như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và ung
thư cũng yêu cầu các giao thức giám sát khác nhau.[23]
Bệnh tim mạch, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não và bệnh động
mạch ngoại biên hiện đang chiếm 15% trong 92 triệu năm sống được điều
chỉnh do khuyết tật trên toàn thế giới, qua đó chứng minh tầm quan trọng của
nó trong gánh nặng bệnh tật toàn cầu [24]. Tăng huyết áp là kẻ giết người
thầm lặng, làm tăng gấp đôi nguy cơ mắc bệnh tim mạch bao gồm suy tim,


15

bệnh động mạch vành và tai biến mạch máu não. Các yếu tố môi trường và di
truyền góp phần vào sự biến đổi của khu vực và chủng tộc trong tỷ lệ nhiễm
tăng huyết áp. Căng thẳng tâm lý xã hội, lối sống ít vận động và tiêu thụ rượu
có thể góp phần vào sự phát triển của tăng huyết áp. Bằng chứng cho thấy 15
– 35% tăng huyết áp là có thể di truyền, thậm chí còn cao hơn ở cặp song sinh
lên đến 60%. Hơn nữa, tăng huyết áp xảy ra phổ biến gấp 3,8 lần ở nam giới
trên 55 tuổi có tiền sử gia đình liên quan đến bệnh [24]. Vì vậy, cả hai biện
pháp dự phòng cấp 1 và cấp 2 đều đóng một vai trò then chốt trong phòng
ngừa và kiểm soát bệnh này. [25] [26]
Việc kiểm soát hiệu quả tăng huyết áp liên quan đến một số thay đổi chế
độ ăn uống và lối sống, đã có hiệu quả ở cấp độ cá nhân và xã hội [27] [28].
Những nghiên cứu trước đây có liên quan đến các chất dinh dưỡng và vi chất
dinh dưỡng riêng lẻ hiện đã mở đường cho toàn bộ mô hình ăn kiêng, thay vì
tập trung vào các thành phần riêng lẻ. Dự phòng cấp 1 và cấp 2 của tăng huyết
áp cũng dựa trên những thay đổi lối sống nhất định, bao gồm hạn chế lượng
natri và kali, ngừng hút thuốc và tập thể dục aerobic. [27] [28] [29] [30]
Đái tháo đường là một bệnh không lây ảnh hưởng đến hàng triệu người
trên toàn thế giới với chi phí y tế hàng năm gần 763 tỷ đô, phản ánh 12% chi
phí y tế toàn cầu. (15%). Nên tiến hành giám sát sàng lọc đái tháo đường type

2 ở người trưởng thành thừa cân hoặc béo phì, và có một hoặc nhiều yếu tố
nguy cơ đái tháo đường sử dụng A1C, glucose huyết tương lúc đói hoặc 2 giờ
sau khi uống 75g tiêu chuẩn xét nghiệm dung nạp glucose. Nếu xét nghiệm
ban đầu là bình thường, nó nên được lặp lại mỗi 3 năm. Mặt khác, sàng lọc
đái tháo đường loại 1 thường được thực hiện trong bối cảnh nghiên cứu lâm
sàng và glucose máu được ưu tiên hơn A1C để chẩn đoán sự khởi phát cấp
tính của đái tháo đường type 1 với các triệu chứng tăng đường huyết. [31]
Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế đã ban hành các hướng dẫn gồm
kiểm soát tăng đường huyết và phòng ngừa biến chứng vi mạch và mạch máu
vĩ mô, do đó tạo điều kiện cho cuộc sống bình thường cho bệnh nhân [32].


16

Nền tảng của quản lý đái tháo đường là sửa đổi lối sống cùng với các liệu
pháp dược lý. Tuy nhiên, chăm sóc bệnh đái tháo đường toàn diện bao gồm
một nhóm đa ngành bao gồm một nhà nghiên cứu bệnh đái tháo đường,
chuyên gia dinh dưỡng, bác sĩ chuyên điều trị về chân, và nhà tâm lý học. Các
thành viên khác bao gồm các chuyên gia khác như các nhà thần kinh học, bác
sĩ chuyên khoa, bác sĩ phẫu thuật mạch máu, bác sĩ chuyên khoa tim mạch,
bác sĩ nhãn khoa, chuyên gia tiêu hóa và chuyên gia phẫu thuật [23]. Một
phần lớn của tử vong và tỷ lệ biến chứng do bệnh đái tháo đường có thể được
ngăn chặn bằng cách sử dụng một số biện pháp giám sát nghiêm ngặt. Tự
giám sát đường huyết là phương pháp được ưu tiên cho các cá nhân nhận
nhiều liều insulin hoặc liệu pháp bơm insulin. Nó thường được thực hiện
trước bữa ăn, trước khi đi ngủ, trước khi tập thể dục, khi bị hạ đường huyết
nghi ngờ, và trước các hoạt động nguy cơ cao như lái xe. Giám sát đường
huyết liên tục là một biện pháp hữu ích cho những bệnh nhân có liệu pháp
insulin chuyên sâu hoặc không nhận thức được hạ đường huyết. [31]
Quản lý đái tháo đường liên quan đến sàng lọc các bệnh kèm theo và biến

chứng liên quan trong khoảng thời gian đều đặn. Xét nghiệm tăng huyết áp yêu
cầu đo huyết áp ở mỗi lần khám. Chỉ số mỡ máu cần phải được kiểm tra ban
đầu tại thời điểm chẩn đoán và cứ 5 năm một lần sau đó. Cân nhắc điều tra cho
bệnh động mạch vành trong sự hiện diện của các tính năng lâm sàng gợi ý của
bệnh mạch máu, bao gồm cả động mạch cảnh và bất thường về điện tim. Ngoài
việc kiểm tra chân hàng năm ở trên để xác định các yếu tố nguy cơ, nên dự
đoán các vết loét và cắt cụt. Sàng lọc các bệnh tự miễn ở trẻ em và thanh thiếu
niên mắc bệnh đái tháo đường loại 1 cũng đã được khuyến cáo. Sàng lọc bệnh
celiac ngay sau khi chẩn đoán bệnh đái tháo đường loại 1 bằng cách đo mô
transglutaminase hoặc kháng thể gliadin deamidated, với tài liệu tổng mức IgA
huyết thanh bình thường được thực hiện. Tất cả bệnh nhân đái tháo đường type
1 nên được sàng lọc viêm tuyến giáp tự miễn bằng cách đo kháng thể
peroxidase tuyến giáp. [33]


17

Các yếu tố sinh chuyển hóa là 1 nhóm yếu tố nguy cơ gồm:
-

Tình trạng béo bụng.

-

Rối loạn lipid máu (là tình trạng rối loạn các chất béo trong máu như
triglycerid máu cao, HDL-C máu thấp, LDL-C cao, tạo nên mảng xơ vữa ở
thành động mạch).

-


Tăng huyết áp.

-

Tình trạng kháng insulin hoặc không dung nạp đường (là tình trạng cơ thể
không thể sử dụng insulin và đường một cách hiệu quả).

-

Tình trạng tiền đông máu (tăng fibrinogen và chất ức chế plasminogen
hoạt hóa PAI-1 cao trong máu).

-

Tình trạng tiền viêm (CRP tăng cao trong máu).
Các yếu tố nguy cơ này khi tập hợp lại trên một người bệnh thì gọi là hội

chứng chuyển hóa (HCCH), có liên quan đến tình trạng đề kháng insulin. Khi
nồng độ insulin máu tăng lên sẽ làm tăng triglycerrid máu và các chất béo
khác. Tất cả các tác hại do hiện tượng kháng insulin đều gây ra nguy cơ mắc
bệnh tim mạch, đột quỵ, đái tháo đường và các bệnh khác Hiện có khá nhiều
nghiên cứu được tiến hành để đi tìm nguyên nhân gây ra tình trạng kháng
insulin. Có thể do gen và do một số yếu tố từ môi trường gây ra, đặc biệt là
tình trạng thừa cân và lối sống tĩnh tại thiếu vận động [34].
Hiện nay trong nhiều nghiên cứu thì hội chứng chuyển hóa được xác định
là yếu tố nguy cơ độc lập của 2 đại dịch lớn là bệnh tim mạch và bệnh đái
tháo đường typ 2. Ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu được tiến hành để
đánh giá về tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa như điều tra của Lê Thị Hợp và
cộng sự trên 8 vùng sinh thái trong toàn quốc cho thấy tỉ lệ mắc HCCH là



18

13,1% và tỉ lệ này tăng dần theo độ tuổi [35], theo nghiên cứu của Viện dinh
dưỡng Việt Nam ở 620 đối tượng tuổi từ 25 – 64 cho thấy tỷ lệ mắc HCCH là
13,1%, riêng tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 18% . Nghiên cứu của
Lê Nguyễn Trung Đức Sơn và cộng sự đã cho thấy tỷ lệ HCCH ở nội thành
thành phố Hồ Chí Minh là 12% và có liên quan đến tuổi, phần trăm mỡ và
nghề nghiệp [36]. Kết quả nghiên cứu của Trần Văn Huy cho biết tỷ lệ mắc
hội chứng này ở người trưởng thành ở Khánh Hòa là 15,7% theo tiêu chuẩn
NCEP ATPIII, trong đó độ tuổi trên 54 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 21,5%
[37]. Ngoài ra còn nhiều nghiên cứu khác cũng đã được tiến hành nhằm xác
định tỷ lệ mắc HCCH ở các bệnh nhân tăng huyết áp điều trị tại bệnh viện.
Tuy nhiên hiện nay, cơ chế của HCCH vẫn là một thách thức đối với các nhà
nghiên cứu nhưng cả tình trạng kháng insulin và béo phì trung tâm vẫn được
xem là những yếu tố đáng kể. Mặt khác, còn chưa có nhiều nghiên cứu về
HCCH ở đối tượng tiền đái tháo đường và bệnh tim mạch, đặc biệt là nghiên
cứu trên cộng đồng dân cư.
1.2.3. Yếu tố hành vi lối sống

Là những hành vi nguy cơ như hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, chế độ
dinh dưỡng không hợp lý và ít vận động thể lực. Các yếu tố nguy cơ về hành
vi lối sống sẽ dẫn tới các biến đổi về sinh lý/chuyển hóa (hay còn gọi là yếu tố
nguy cơ trung gian/tình trạng tiền bệnh) bao gồm: Tăng huyết áp, thừa cân
béo phì, tăng đường máu và rối loạn lipid máu. Sâu xa hơn, nguyên nhân gốc
rễ sự gia tăng các yếu tố nguy cơ trên liên quan đến các yếu tố môi trường,
kinh tế, xã hội…Các yếu tố này được chú ý không chỉ vì sự liên quan tới bệnh
tim mạch mà còn vì liên quan đến tỷ lệ mắc các bệnh khác như đái tháo
đường và chứng mất trí nhớ. Các yếu tố nguy cơ hành vi này có xu hướng
tương quan trong cá nhân, thay vì xảy ra độc lập [38]. Sự xuất hiện đồng thời

của các yếu tố hành vi nguy cơ này có thể gây khó khăn cho việc đánh giá các
hiệu ứng độc lập của chúng và ngày càng có sự nhấn mạnh trong các biện


19

pháp can thiệp sức khỏe cộng đồng về các yếu tố nguy cơ. Một nghiên cứu
đánh giá hệ thống gần đây cho thấy những người không hút thuốc, uống rượu
vừa phải, vận động cơ thể và có chế độ ăn uống lành mạnh có tỷ lệ tử vong do
nguyên nhân thấp hơn 66% so với những người không có hoặc chỉ một trong
những hành vi lành mạnh này [39]. Trong nhóm thuần tập EPIC-Norfolk,
những người hút thuốc lá hiện tại, không hoạt động thể chất, uống rượu dư
thừa và tiêu thụ ít hơn năm phần ăn mỗi ngày trái cây và rau quả, tăng gấp
bốn lần nguy cơ của tất cả các nguyên nhân và tỷ lệ tử vong tim mạch so với
các cá nhân tham gia vào tất cả bốn hành vi nguy hiểm [40]. Phân tích từ một
nghiên cứu thuần tập ở Hoa Kỳ cho thấy những người không hút thuốc, ăn
uống lành mạnh và vận động cơ thể đều có nguy cơ tử vong do bệnh tim
mạch thấp hơn 65% so với những người không tham gia vào những hành vi
giảm nguy cơ này [41].
Nghiên cứu bệnh chứng Inter Heart [42] về ảnh hưởng của các yếu tố
hành vi nguy cơ liên quan đến nhồi máu cơ tim ở 52 quốc gia đã cho thấy
rằng các yếu tố nguy cơ trên có thể thay đổi và chính các hành vi liên quan
đến lối sống không lành mạnh là yếu tố quyêt định chính của bệnh suất và tử
suất bệnh tim mạch, và nếu các yếu tố hành vi nguy cơ đó được loại bỏ thì
tuổi thọ sẽ tăng khoảng 7 năm [43].
Tại Việt Nam, các đề tài nghiên cứu về hành vi lối sống gây ảnh hưởng
đến bệnh tim mạch hiện chưa nhiều, đa số đề tài nghiên cứu về tình trạng lạm
dụng rượu, bia nhưng chủ yếu là đánh giá ảnh hưởng đến các vấn đề về sức
khỏe tâm thần và vấn đề về quan hệ tình dục là chính. Các nghiên cứu về tình
trạng hút lá được tiến hành chủ yếu để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến

bệnh lý phổi và bệnh lý răng miệng chứ chưa có nhiều nghiên cứu liên quan
đến bệnh lý tim mạch. Ngoài ra các nghiên cứu về vấn đề lười vận động thể
lực gây ảnh hưởng đến tim mạch cũng ít được các nhà nghiên cứu đi sâu phân
tích.


20

Tuy nhiên, cũng có rất nhiều cuộc điều tra quy mô lớn về các hành vi nguy
cơ của bệnh tim mạch được tiến hành tại Việt Nam. Điển hình gần đây nhất là
điều tra STEPS năm 2015 do Cục Y tế dự phòng phối hợp với Tổ chức Y tế
thế giới (WHO) [44] cùng các cơ quan khác đã sử dụng công cụ và phương
pháp chuẩn hóa của WHO cho đối tượng 18-69 tuổi với mục với mục đích thu
nhập thông tin và các hành vi nguy cơ gồm hút thuốc lá, sử dụng rượu bia,
chế độ ăn không hợp lý, thiếu hoạt động thể lực và mô tả thực trạng thừa cân
béo phì, tăng huyết áp, tăng đường máu, rối loạn lipid máu và ước lượng mức
tiêu thụ muối trung bình quần thể. Điều tra áp dụng thiết kế nghiên cứu cắt
ngang, sử dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn, phân tầng theo nhóm
tuổi và giới để chọn ra cỡ mẫu đại diện quốc gia cho quần thể 18-69 tuổi tại
Việt Nam. Quá trình thu thập số liệu gồm 3 bước (STEP):
-

Bước 1 thu nhập số liệu về nhân khẩu học và các yếu tố nguy cơ hành
vi

-

Bước 2 tiến hành đo chiều cao, cân nặng và huyết áp.

-


Bước 3 làm xét nghiệm đường máu, cholesterol máu, kèm theo lấy mẫu
nước tiểu để định lượng hàm lượng muối tiêu thụ.

Tổng số người được chọn tham gia điều tra là 3.856 người, trong đó có
3,758 người tham gia bước 1 (tỷ lệ tham gia là 97,4%), và có 3,080 người
tham gia bước 2 và 3 (đạt tỷ lệ 79,8%). Qua điều tra STEPs 2015 cho thấy ở
quần thể 18-69 tuổi, hầu hết các yếu tố nguy cơ đều có tỷ lệ cao. Ngoại trừ tỷ
lệ ăn thiếu rau/trái cây ở cả hai giới và tỷ lệ thiếu hoạt động thể lực ở nam
giới giảm, còn lại các yếu tố nguy cơ khác đều không giảm hoặc tăng cao hơn
một cách đáng kể so với kết quả điều tra năm 2010. Một số yếu tố nguy cơ có
tỷ lệ cao hơn ở nam giới so với nữ giới gồm: sử dụng rượu bia, ăn thiếu
rau/trái cây và tăng huyết áp. Tỷ lệ người được phát hiện, quản lý điều trị tăng
huyết áp, đái tháo đường và sàng lọc ung thư cổ tử cung còn rất thấp. Đây
cũng là một trong những nghiên cứu có ý nghĩa rất quan trọng để làm cơ sở


21

cho triển khai thực hiện kế hoạch và mục tiêu chiến lược cấp quốc gia về
phòng chống bệnh tim mạch nói riêng và bệnh không lây nhiễm nói chung
giai đoạn 2015 – 2025.
1.2.4. Đáp ứng của hệ thống quốc gia

Các bệnh không lây nhiễm như bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư
và bệnh đường hô hấp mạn tính, đang là những nguyên nhân gây tử vong
hàng đầu ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, các bệnh không lây nhiễm có thể
được giảm đáng kể, nếu chúng ta triển khai đồng bộ các giải pháp như tăng
cường hệ thống y tế, đảm bảo cung cấp đầy đủ thuốc thiết yếu và các công
nghệ cơ bản, đáp ứng điều trị bằng thuốc và tư vấn đầy đủ cho người bệnh.

Nhất là tập trung vào chăm sóc sức khỏe ban đầu để quản lý, chăm sóc người
đã mắc và tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến vấn đề này.
[22]
Mặc dù được đánh giá là một trong những quốc gia có những chính
sách y tế hỗ trợ dành cho người nghèo, người thu nhập thấp khá ưu việt; một
hệ thống y tế tương đối hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương, Việt Nam
vẫn còn thiếu một chiến lược trong công tác phòng, chống các bệnh không lây
nhiễm. Bên cạnh đó, công tác điều trị các bệnh không lây nhiễm còn yếu về
chuyên môn, thiếu trang thiết bị, nhất là nước ta chưa xây dựng được hệ thống
giám sát bệnh không lây nhiễm hoàn chỉnh. Nguồn nhân lực, tài chính còn
nhiều hạn chế, dẫn đến nhiều mô hình can thiệp dự phòng được triển khai tại
cộng đồng thời gian qua, chỉ mới được thực hiện ở quy mô nhỏ, nhất là chưa
có mô hình lồng ghép riêng cho từng nhóm bệnh... Do vậy, hiện có gần 70%
số người bệnh khi được phát hiện cùng một lúc nhiều biến chứng nguy hiểm
như tai biến mạch não, suy tim, suy thận, cao huyết áp, hoại tử chi, mù lòa,
thậm chí nhiều người bệnh tử vong trước khi được điều trị (chiếm 61%) do
không được phát hiện sớm...[45]
Hiện nay do thiếu các nguồn lực và các chính sách phù hợp, cho nên
việc quản lý bệnh không lây nhiễm chỉ mới chủ yếu triển khai ở các bệnh


22

viện; các dịch vụ triển khai tại trạm y tế xã, phường còn ít và quy mô còn nhỏ,
hiện tại mới chỉ thực hiện thống kê báo cáo kết quả thực hiện các hoạt động
phòng chống bệnh không lây nhiễm theo quy định của các dự án bệnh không
lây nhiễm chương trình mục tiêu quốc gia y tế. Cho nên, thời gian tới,
Chương trình này sẽ tập trung vào hướng dẫn việc quản lý, điều trị bệnh
không lây nhiễm; nâng cao năng lực cho các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban
đầu trong phát hiện sớm, quản lý điều trị kịp thời; cung cấp thuốc cho các

trạm y tế và tăng kinh phí từ bảo hiểm y tế cho quản lý, điều trị bệnh không
lây nhiễm tại trạm y tế... [45]
1.3. Khung giám sát bệnh tim mạch dựa trên 25 chỉ số toàn cầu và 9 mục
tiêu tự nguyện về kiểm soát bệnh không lây nhiễm toàn cầu.
Để phân tích kiểm soát bệnh tim mạch trong cộng đồng, chúng tôi đã
trích xuất 20 chỉ số liên quan chặt chẽ với bệnh tim mạch trong số 25 chỉ số
toàn cầu thuộc 9 mục tiêu tự nguyện và phân loại chúng thành 4 chủ đề chính
được trình bày trong bảng 1 gồm: Tỷ lệ tử vong, bệnh và các yếu tố chuyển
hóa, yếu tố hành vi nguy cơ và tính đáp ứng của hệ thống.

1.3.1. 20 chỉ số liên quan đến Bệnh tim mạch dựa trên Khung kiểm soát
BKLN toàn cầu của WHO
Bảng 1: 20 chỉ số liên quan đến Bệnh tim mạch dựa trên Khung kiểm soát
BKLN toàn cầu.
CHỦ ĐỀ
TỬ
VONG
HÀNH

CHỈ SỐ
1. Xác suất tử vong ở độ tuổi từ 30 và 70 từ các bệnh tim
mạch, ung thư, bệnh đái tháo đường hoặc bệnh đường hô hấp
mạn tính.
3. Lượng tiêu thụ rượu bình quân đầu người từ 15 tuổi trở lên


23

trong một năm dương
4. Độ tuổi tiêu thụ nhiều rượu nặng trong thanh thiếu niên và

người lớn.
5. Bệnh tật và tử vong liên quan đến do rượu ở độ tuổi thành
niên và trưởng thành.
6. Tỷ lệ thanh niên không có đủ hoạt động thể chất, nói cách
khác là dưới 60 phút hoạt động trung bình cho đến hoạt động
VI NGUY cường độ mạnh hàng ngày.
7. Độ tuổi trung bình của người trên 18 tuổi không có đủ các

hoạt động thể chất(dưới 150 phút hoạt động cường độ trung
bình mỗi tuần, hoặc tương đương)
8. Tuổi trung bình tiêu thụ lượng muối (Sodium chloride) mỗi
ngày tính theo grams đối với người trên 18 tuổi
9. Tỷ lệ sử dụng thuốc lá hiện nay trong trẻ vị thành niên.
10. Độ tuổi tuổi tiêu chuẩn sử dụng thuốc lá đối với người trên
18 tuổi
BỆNH

11. Độ tuổi trung bình mắc tăng huyết áp đối với những người

VÀ CÁC

trên 18 tuổi (Huyết áp tâm thu>= 140mmHg và hoặc Huyết áp

YẾU TỐ

tâm trương >=90mmHg)
12. Độ tuổi trung bình mắc tăng đường huyết/ bệnh đái tháo

CHUYỂ
N HOÁ


đường đối với người lớn hơn 18 tuổi. (Nồng độ đường huyết
lúc đói >= 7.0 mmol/l (127 mg/dl) hoặc trong việc điều trị
nhằm tăng lượng đường huyết
13. Tỷ lệ thừa cân, béo phì ở độ tuổi vị thành niên (xác định
theo WHO về sự tăng trưởng của trẻ em trong độ tuổi đi học và
vị thành niên, thừa cân - chỉ số độ lệch chuẩn cơ thể theo tuổi
và giới tính, và béo phì- chỉ số thứ hai về độ lệch chuẩn cơ thể
theo tuổi và giới tính)
14. Độ tuổi trung bình mắc bệnh thừa cân và béo phì ở người
lớn hơn 18 tuổi (Chỉ số khối cơ thể >= 25 kg/m2 cho thừa cân
và chỉ số khối cơ thể >= 30kg/m2 cho béo phì)
15. Độ tuổi tiêu chuẩn có tỷ lệ năng lượng từ các axit béo bão


24

hòa ở người có độ tuổi lớn hơn 18.
16. Độ tuổi tiêu chuẩn của người(lớn hơn 18 tuổi) tiêu thụ ít
hơn 400 grams trái cây và rau mỗi ngày.
17. Tỷ lệ tuổi tiêu chuẩn có độ tăng cholesterol của người lớn
hơn 18 tuổi (Tổng lượng cholesterol >= 5.0 mmol/l hoặc 190
mg/dl).
18. Tỷ lệ người đủ điều kiện (tuổi lớn hơn 40 với nguy cơ tim
mạch >=30% trong 10 năm, bao gồm cả người đang mắc bệnh
tim mạch) được điều trị bằng thuốc và tư vấn (bao gồm cả
kiểm soát đường huyết) để ngăn chặn cơn đau tim và đột quỵ.
19. Sự sẵn sàng và khả năng chi trả của chất lượng, sự an toàn
ĐÁP
ỨNG


và hiệu quả cần thiết của thuốc BKLN bao gồm thuốc, những

CỦA HỆ

công nghệ cơ bản ở các cơ sở vật chất công cộng và tư nhân.
21. Áp dụng các chính sách quốc gia làm giới hạn độ bão hòa

THỐNG

axit béo và loại bỏ một phần dầu thực vật trong quá trình cung
cấp thực phẩm, khi thích hợp, trong bối cảnh quốc gia và các
chương trình quốc gia.
23. Các chính sách nhằm giảm tác động của việc quảng cáo
thức ăn và đồ uống không cồn có nông độ chất béo bão hòa
cao, axit béo, đường, hoặc muối lên trẻ em.

1.3.2. 9 Mục tiêu tự nguyện
“Chương trình giám sát toàn cầu cho bệnh không lây nhiễm” theo dõi
tiến trình của “Kế hoạch hành động bệnh không lây nhiễm toàn cầu” thông
qua việc giám sát và báo cáo 9 mục tiêu cho bệnh không lây nhiễm vào năm
2015, so với cơ sở vào năm 2010.
Theo đó, các chính phủ được khuyến khích để thiết lập các mục tiêu
quốc gia về bệnh không lây nhiễm năm 2025 dựa trên hoàn cảnh quốc gia,
phát triển kế hoạch quốc gia liên ngành bệnh không lây nhiễm nhằm giảm sự
tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ và cho phép hệ thống y tế phản hồi để đạt


25


được các mục tiêu quốc gia năm 2025; và đo lường kết quả, chú ý đến các kế
hoạch hành động toàn cầu. [6]

Hình 1: 9 Mục tiêu tự nguyện về giám sát bệnh không lây nhiễm.
Mục tiêu 1: Giảm tương đối khoảng 25% nguy cơ tử vong sớm do Bệnh tim
mạch, ung thư, đái tháo đường, bệnh đường hô hấp mạn tính.
Mục tiêu 2: Giảm ít nhất 10% độc hại trong việc sử dụng rượu, nếu thích hợp,
trong bối cảnh quốc gia.
Mục tiêu 3: Giảm tương đối 10% trong tỷ lệ của hoạt động thể chất không đủ.
Mục tiêu 4: Giảm tương đối 30% trong hàm lượng tiêu thụ của muối / natri.
Mục tiêu 5: Giảm tương đối 30% trong tỷ lệ sử dụng thuốc lá hiện nay ở
người lớn hơn 15 tuổi.
Mục tiêu 6: Giảm tương đối 25% trong tỷ lệ tăng huyết áp hoặc có tỷ lệ tăng
huyết áp, theo hoàn cảnh từng quốc gia.
Mục tiêu 7: Ngăn chặn sự gia tăng bệnh đái tháo đường và béo phì.


×