NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI
VỚI DNNN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
1.1.1. KHÁI NIỆM TÍN DỤNG
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực
tế thì thuật ngữ này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
• Xét trên giác độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ
thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ
người cho vay sang người đi vay.
• Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ
sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
• Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp
cho khách hàng.
• ....
Như vậy có nhiều cách hiểu về “ tín dụng”, tuy nhiên theo quan điểm của em thì tín
dụng có thể được hiểu là: sự vay mượn hoặc sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc
hoàn trả và sự tin tưởng.
Căn cứ vào hai tiêu thức là chủ thể và đối tượng tín dụng thì quan hệ tín dụng gồm
có các loại hình: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng
thuê mua, tín dụng tiêu dùng và tín dụng quốc tế. Trong mỗi loại hình này, tín dụng lại
được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Trong phạm vi nghiên cứu, em chỉ xin đề cập đến “tín dụng” gắn liền với chủ thể
nhất định là ngân hàng. Theo đó, tín dụng ngân hàng là hoạt động tài trợ (cho vay) của
ngân hàng cho khách hàng. Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, điều 49 ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá
nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo
lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”.
Tín dụng ngân hàng được chia thành nhiều loại khác nhau căn cứ vào nhiều tiêu
thức khác nhau. Trong đó, phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như
khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian thì tín dụng được phân thành:
• Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho tài sản lưu động của các
doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Ngân hàng có thể áp dụng
cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không
cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
• Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm (theo quy định của ngân hàng
nhà nước Việt Nam), tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, trang thiết
bị chóng hao mòn, mở rộng sản xuất kinh doanh hay để xây dựng các dự án mới có quy
mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu để đầu tư vào các
đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà
phê, điều...Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, tín dụng trung hạn còn là nguồn hình
thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh
nghiệp mới thành lập.
• Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 – 30 năm,
nhiều trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như
nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng
lâu.
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng
từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng
hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài
hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng.
Ở các nước khác nhau, những ngân hàng khác nhau có thể có những cách quy định
khác nhau về thời gian trung và dài hạn.
1.1.2. PHÂN LOẠI TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản tín dụng theo từng nhóm dựa trên một
số tiêu thức nhất định. Việc phân loại này tuy chỉ mang tính tương đối nhưng nó lại rất
quan trọng vì nó là cơ sở khoa học để thiết lập quy trình tín dụng một cách thích hợp
đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng tín
dụng.
Cũng như tín dụng nói chung, ta có thể phân chia tín dụng trung và dài hạn theo
những tiêu thức khác nhau:
- Căn cứ vào loại khách hàng:
Cấp tín dụng cho doanh nghiệp: Ngân hàng cấp tín dụng cho những tổ chức kinh
tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Quy mô của hầu hết
các khoản vay này là lớn, lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường.
Cấp tín dụng cho cá nhân: các cá nhân có thể sử dụng vốn vay từ ngân hàng
nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng nhưng chủ yếu là để tiêu dùng. Quy mô
khoản tín dụng thường nhỏ hơn so với khoản cấp cho các doanh nghiệp, lãi suất thường
“cứng nhắc” và cao.
Cấp tín dụng cho các đơn vị khác: các đơn vị như các tổ chức xã hội cũng cần
vốn với nhiều mục đích khác nhau, để giải quyết sự thiếu hụt vốn họ cũng có thể vay từ
ngân hàng.
- Căn cứ vào tính chất đảm bảo:
Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp: Để giảm thiểu rủi ro trong
hoạt động tín dụng, các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng của mình phải có tài sản
cầm cố hoặc thế chấp. Và trên nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có
đảm bảo.
Tín dụng không đảm bảo bằng tài sản (Gồm: tín chấp và bảo lãnh bằng uy tín).
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín,
trung thực trong kinh doanh, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình
hình tài chính vững mạnh, quản trị có hiệu quả, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa,
hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị
của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay
đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay mà ngân
hàng có khả năng giám sát việc bán hàng... cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Cho vay kinh doanh: các cá nhân, tổ chức vay vốn từ ngân hàng để mở rộng sản
xuất; đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mới...nhằm tăng lợi nhuận, nâng cao doanh
số...chứ không phải để thỏa mãn các nhu cầu (ăn, mặc...) của cá nhân.
Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của
người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan
trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ, du lịch,
giáo dục, y tế...Việc cho vay tiêu dùng giúp các ngân hàng mở rộng quan hệ với khách
hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi cho ngân hàng đồng thời tạo
điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu nhập và phân tán rủi
ro cho ngân hàng. Với người tiêu dùng, nhờ vay tiêu dùng mà họ được hưởng các tiện
ích trước khi tích lũy đủ tiền và đặc biệt quan trọng hơn là nó rất cần thiết cho những
trường hợp khi cá nhân có các chi tiêu có tính cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho giáo
dục và y tế.
- Căn cứ vào phương thức quản lý:
Tín dụng trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu đồng thời
người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Tức là trong loại tín dụng này có
mối quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng trong toàn bộ quá trình từ khi nộp
hồ sơ vay vốn, phân tích thẩm định, ra quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ... đến khi
thanh lý hợp đồng vay.
Tín dụng gián tiếp: khác với tín dụng trực tiếp là có sự tham gia của các tổ chức
trung gian trong toàn bộ tiến trình cho vay. Các tổ chức trung gian có thể là: Tổ, đội,
hội, nhóm (Hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội nông dân...); hay những người bán lẻ
các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất.
Hình thức này có rất nhiều ưu điểm: giảm thời gian, chi phí đi lại trong việc làm thủ
tục vay của người vay vốn, đồng thời thông qua các hội, tổ, nhóm thì người vay sẽ được
phổ biến kiến thức, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm quản lý vốn, giúp người vay sử
dụng vốn đúng mục đích, đạt kết quả, tránh rủi ro trong quá trình kinh doanh... Đối với
ngân hàng, ngân hàng sẽ chủ động chuẩn bị vốn để cho vay, sắp xếp lịch giải ngân hợp
lý, tránh ùn tắc hay quá tải vào cao điểm vụ sản phẩm. Tuy nhiên, hình thức cho vay
này bộc lộ khuyết điểm là các trung gian có thể lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân
hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các
thành viên khác cho riêng mình.
- Căn cứ vào mức độ rủi ro: Xem xét về mặt rủi ro hay tính an toàn, tín dụng có thể ở
các “cung bậc” khác nhau: khoản có mức độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để
phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia
loại rủi ro. Xếp loại tín dụng theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao, nhiều ngân hàng
có thể chia tới rất nhiều thang bậc rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường
xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao,
đồng thời để đánh giá chất lượng tín dụng.
Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên
tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính...
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và
khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn...
Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế
chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì...
- Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
Tín dụng có thời hạn: là loại tín dụng có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp
đồng. Trong loại này lại được phân chia tiếp, bao gồm:
Tín dụng chỉ có một kỳ hạn trả nợ: là loại chỉ thanh toán một lần theo thời hạn
đã thỏa thuận.
Tín dụng có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là tín dụng trả góp: là loại tín
dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại này thường
được áp dụng rộng rãi trong cho vay bất động sản nhà ở thương mại, cho vay
tiêu dùng...
Tín dụng không có thời hạn cụ thể: đối với loại này thì ngân hàng có thể yêu cầu
hoặc để người vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời
gian hợp lý (có thể được thỏa thuận trong hợp đồng).
- Căn cứ vào các tiêu thức khác:
Theo ngành kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...).
Theo số lượng ngân hàng tham gia cấp tín dụng (Do một ngân hàng thực hiện;
đồng tài trợ).
- Bàn thêm về một số loại tín dụng trung và dài hạn khác:
Tín dụng tuần hoàn: là một hình thức cho vay, trong đó ngân hàng cam kết chính
thức dành cho khách hàng một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất định. Cần chú
ý rằng, cam kết này có thể kéo dài từ 1 đến 3 hoặc 5 năm, chính vì vậy đây cũng là một
loại tín dụng trung và dài hạn.
Khi có nhu cầu về vốn trung và dài hạn, các doanh nghiệp có thể sử dụng các biện
pháp để huy động vốn như: phát hành các chứng khoán, vay ngân hàng, vay các tổ chức
tín dụng khác...tuy nhiên, việc phát hành những chứng khoán mua, bán trên thị trường
không phải là biện pháp hàng đầu để các doanh nghiệp tài trợ cho các hoạt động của họ
vì rất mất thời gian để tiến hành công việc này trong khi cơ hội thì lại “đến” và “đi” rất
nhanh. Chính vì vậy, nguồn vốn được tài trợ từ ngân hàng là vô cùng quan trọng. Họ có
thể vay ngân hàng dưới hình thức tín dụng tuần hoàn để tài trợ cho nhu cầu tăng trưởng
tài sản lưu động, sử dụng khi ngân hàng chưa xác định được phần tài sản lưu động
thường xuyên của doanh nghiệp.
Tín dụng thuê mua: là hình thức vay tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng
thuê mua.
Khách hàng thường đến vay ngân hàng với mục đích là mua tài sản. Tuy nhiên trong
nhiều trường hợp, khách hàng không thể đáp ứng được các điều kiện để vay. Để giúp
khách hàng có thể thực hiện được mục đích, đồng thời không để bỏ lỡ các cơ hội kinh
doanh, các ngân hàng đã tiến hành mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng và cho
khách hàng thuê lại. Tài sản này không nằm trong tài sản của doanh nghiệp mà nằm
trong tài sản của ngân hàng, chính vì vậy ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho
người khác thuê khi người thuê không trả nợ được. Điều này góp phần làm giảm thiệt
hại cho ngân hàng. Thông thường, để thực hiện nghiệp vụ này, các ngân hàng thường
thiết lập các công ty còn để chuyên quản. Công ty con này có nhiệm vụ nghiên cứu
cùng với bên vay để lựa chọn các máy móc, trang thiết bị thích hợp để thực hiện hợp
đồng thuê mua.
1.1.3. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Tín dụng trung và dài hạn cũng là hoạt động tín dụng nên nó cũng có vai trò như
hoạt động tín dụng nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở các điểm sau:
Góp phần làm ổn định nền kinh tế (quá trình sản xuất kinh doanh của các cá
thể, cá nhân thường xuyên hơn), tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế:
hoạt động sản xuất kinh doanh không phải lúc nào cũng suôn sẻ, các tổ chức, cá nhân
luôn phải đương đầu với những khó khăn để tồn tại cũng như để đi lên. Một trong
những khó khăn mà đa số họ gặp phải trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay là sự thiếu hụt
vốn trong kinh doanh. Bên cạnh việc đi vay mượn ở người thân, bạn bè...còn gọi là vay
nóng thì việc các tổ chức, cá nhân đi vay ở các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu về vốn là
rất thường xuyên.
Tích tụ và tập trung vốn (góp phần làm giảm số tiền nhàn rỗi, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn, tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và khắc phục lạm phát tiền tệ).
Mỗi người, với một khoản tiền nhỏ thì rất khó có thể đầu tư, kinh doanh hay mua
những vật có giá trị lớn. Nhưng nếu nhiều người góp lại thì nó sẽ trở thành một khoản
tiền lớn. Tuy nhiên việc tập trung các lượng vốn nhỏ này lại rất khó khăn đối với chỉ
một người hay một nhóm người mà họ không được mọi người trong xã hội biết đến.
Trong khi đó lại có rất nhiều người cần một lượng tiền lớn, nhiều công trình, dự án cần
vốn lớn để đầu tư…Để kết nối những trường hợp trên lại, chúng ta phải nhờ đến các tổ
chức tín dụng mà đặc biệt là các ngân hàng. Cũng thông qua hoạt động này của ngân
hàng, số tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ giảm xuống vì họ có một nơi để “đầu tư” kiếm
lời thay vì cất giữ ở nhà, do đó lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm, khắc phục lạm
phát tiền tệ.
Là công cụ điều tiết vĩ mô thông qua việc phân bổ lại các nguồn lực, qua đó góp
phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu với những hậu quả nặng nề do chiến
tranh để lại, nền kinh tế nước ta so với các nước trên thế giới mới chỉ được xếp là
“nước đang phát triển”. Sự tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật…của nước ta là rất lớn. Để tiến
lên hội nhập với thế giới, không có con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nặng về nông nghiệp sang phát triển
các ngành công nghiệp và dịch vụ. Muốn vậy, Nhà nước cần phải phân bổ các nguồn
lực cho hợp lý giữa các ngành này. Một trong những cách để làm điều đó là thông qua
hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn. Với cách này, khi Nhà nước
muốn mở ra hay phát triển một ngành, lĩnh vực, Nhà nước sẽ có những khuyến khích
trong chính sách tín dụng như có những ưu đãi về lãi suất, thời hạn, tài sản đảm bảo
trong việc vay vốn…để các cá nhân, doanh nghiệp chú ý đến và thực hiện đầu tư.
Thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh tế,
góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Thật vậy, thông qua hoạt động này của ngân hàng, ta có thể biết được nền kinh tế
đang cần vốn như thế nào. Mà ta biết rằng, một nền kinh tế phát triển luôn có nhu cầu
lớn về vốn cho sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy nó sẽ phản ánh một phần về hoạt
động kinh doanh của một đất nước.
Đồng thời, với chức năng này, đồng tiền được sử dụng để xây dựng các thước đo,
chỉ tiêu và xác định xem các hoạt động sản xuất kinh doanh có hợp pháp, hợp lệ hay
không, có hiệu quả hay không. Do đó nó có vai trò quan trọng trong việc tổng hợp,
kiểm soát các hoạt động kinh tế, thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
1.1.4.CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
1.1.4.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng
Trong thời gian qua, hoạt động của các ngân hàng đã đạt được nhiều thành
công, đóng góp một phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng vẫn còn có nhiều khó
khăn đe dọa đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng nói riêng và của toàn xã hội
nói chung; vẫn còn nhiều mối quan tâm, lo ngại cần các ngành, các cấp giải
quyết. Một trong những mối quan tâm lo ngại đó chính là chất lượng tín dụng
của các ngân hàng. Cho đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể về hệ thống các
chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Chính vì vậy, việc xây
dựng một hệ thống như vậy là cần thiết không chỉ đối với đội ngũ thanh tra
trong quá trình thực hiện thanh tra, kiểm soát các ngân hàng thương mại mà còn
là cơ sở để các ngân hàng thương mại tự đánh giá độ an toàn và chất lượng của
đồng vốn mà họ cung cấp cho các khách hàng.
Vậy chất lượng tín dụng là gì? Có thể hiểu: chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu
cầu của khách hàng ( bao gồm cả người gửi và người vay), phù hợp sự phát triển kinh
tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Với khái niệm này, chất
lượng tín dụng được thể hiện ở cách khía cạnh sau:
• Đối với ngân hàng thương mại:
Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng của ngân
hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả
đúng thời hạn và có lãi.
• Đối với khách hàng:
Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng phải có thái độ đón tiếp, hướng dẫn và
phục vụ khách hàng một cách hòa nhã, ân cần.
Thủ tục đơn giản.
Phục vụ nhanh nhất cho khách hàng trong phạm vi thờigian quy định.
Đảm bảo cung ứng đúng và đủ lượng tiền theo hợp đồng tín dụng đã ký.
Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng.
• Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa;
giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người đi vay cũng như người cho vay,
khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
sản xuất, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng.
Với việc phân tích trên đây ta thấy rằng:
• Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể lại vừa trừu tượng vì nó vừa có thể
được biểu hiện bằng những chỉ tiêu định lượng như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn…
lại vừa được biểu hiện bằng những chỉ tiêu định tính như khả năng thu hút khách hàng,
tác động đến nền kinh tế…Đồng thời, chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân
tố chủ quan như khả năng quản lý, trình độ cán bộ, sự tuân thủ quy trình nghiệp vụ..và
các nhân tố khách quan như sự thay đổi của môi trường bên ngoài, sự cố ý của khách
hàng…
• Chất lượng tín dụng phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay
đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh
tranh để tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, nó là một chỉ tiêu tổng hợp.
• Chất lượng tín dụng được biểu hiện thông qua các yếu tố: thủ tục đơn giản, mức độ an
toàn của vốn tín dụng…và một điều quan trọng mà chúng ta đều phải thừa nhận về chất
lượng tín dụng là: nó không tự nhiên mà có, nó là kết quả của sự kết hợp “ăn ý” giữa
nhiều người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung.
1.1.4.2. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Như đã đề cập ở trên, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu vừa mang tính định lượng
lại vừa mang tính định tính. Với những chỉ tiêu định tính, việc xác định là hết sức khó
khăn, nó chỉ mang tính tương đối. Với nhóm chỉ tiêu định lượng, có dễ dàng hơn nhưng
vẫn có nhiều tranh cãi, theo quan điểm của em thì hệ thống phản ánh chất lượng tín
dụng trung và dài hạn gồm các chỉ tiêu:
Chỉ tiêu định lượng
• Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ gia hạn trung và dài hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn trung - dài hạn
và tổng dư nợ trung – dài hạn của Ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định,
thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Nợ gia hạn về bản chất cũng là nợ quá hạn
nhưng đã được tăng thêm thời hạn vay. Tỷ lệ này làm rõ trong dư nợ ngoài phần nợ
thực sự quá hạn thì đã có bao nhiêu phần trăm quá hạn.
Vì tín dụng là việc sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin
tưởng nên trong hoạt động tín dụng, tính an toàn (khả năng hoàn trả của người vay) là
yếu tố quan trọng nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không
được trả một đúng hạn như đã cam kết mà không có lý do chính đáng thì nó đã vi phạm
nguyên tắc trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá hạn
với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn
là các khoản nợ có vấn đề, có khả năng mất vốn, tức là tính an toàn thấp.
Trong hoạt động kinh doanh, rủi ro xảy ra cho ngân hàng là điều đương nhiên và do
đó việc tồn tại nợ quá hạn và nợ gia hạn là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu một