Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.01 KB, 33 trang )

THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM.
2.1 THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN SƠ CẤP CỦA
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
Thị trường chứng khoán sơ cấp nói riêng và thị trường chứng khoán nói
chung là môi trường tác động trực tiếp đến hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh phát hành cũng như hoạt động bảo
lãnh phát hành chứng khoán của các tổ chức phát hành. Một thị trường sơ cấp
phát triển sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho các tổ chức bảo lãnh phát hành triển khai
và phát triển nghiệp vụ của mình.
2.1.1 Thị trường Trái phiếu sơ cấp
Thị trường trái phiếu Việt Nam nói chung còn chưa phát triển và còn
nhiều hạn chế. Hiện nay chủ yếu mới có các Trái phiếu Chính phủ là được phát
hành thường xuyên và đều đặn thông qua hình thức đấu thầu và bảo lãnh phát
hành còn Trái phiếu Đô thị và Trái phiếu công ty được phát hành rất ít.
Về Trái phiếu Chính phủ, có thể nói năm 2004 là năm thành công của
Trái phiếu Chính phủ với hơn 7576 tỷ đồng trái phiếu đã được phát hành
thông qua đấu thầu và bảo lãnh tăng gấp gần 5 lần so với năm 2003. Vào
những tháng đầu năm 2005 thị trường trái phiếu Chính phủ diễn ra khá sôi
động với các cuộc đấu thầu trái phiếu của Kho bạc Nhà nước và của Quỹ hỗ
trợ phát triển. Ngày 19/4 và 26/4 năm nay đã diễn ra hai phiên đấu thầu trái
phiếu của Quỹ hỗ trợ phát triển tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
với tổng giá trị là 500 tỷ đồng với các kỳ hạn 5, 10 và 15 năm với sự tham gia
của các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán và các công ty bảo
hiểm.
Nếu như năm 2001 có 13 loại trái phiếu được phát hành thì đến 2003 có
61 loại và cho đến nay tổng số chủng loại trái phiếu là 132 loại nhiều gấp 5,7
lần số loại cổ phiếu. Bên cạnh đó, khối lượng trái phiếu Chính phủ niêm yết
tăng lên không ngừng, ta có thể thấy rõ hơn thông qua bảng sau :
BẢNG 1: THỐNG KÊ VỀ HOẠT ĐỘNG GIAO DỊCH TPCP TRÊN TTGDCK TPHCM.


Năm
Giao dịch khớp lệnh Giao dịch thoả thuận
Giá trị niêm yết
(1.000đ)
Khối
lượng
( trái
phiếu)
Giátrị
(1.000đ)
Khối lượng
(trái phiếu )
Giá trị
( 1.000 đ)
2001 390 39.206 1.100.000.000
2002 3.040 306.022 559.000 57.842.300 1.631.633.000
2003 4.730 449.082 1.205.820 113.536.618 1.382.000.000
2004 8.720 873.990 24.730.820 2.463.312.051 7.256.000.000
Tổng
cộng
16.880
1.668.30
0
26.495.640
2.634.690.96
9
11.369.633.00
0
Nguồn: Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM
Tính đến năm 2004 thì có khoảng 12.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ

được phát hành và niêm yết trên Trung tâm GDCK Tp. Hồ Chí Minh, trong đó có
2.300 tỷ đồng trái phiếu được phát hành thông qua 37 đợt đấu thầu phần còn
lại được phát hành thông qua phương thức bảo lãnh phát hành chiếm 80,3%
giá trị trái phiếu. Về mặt lý thuyết thì trái phiếu phát hành theo phương thức
bảo lãnh sẽ được bán ra công chúng thông qua các tổ chức bảo lãnh nhưng
trên thực tế ở Việt Nam các tổ chức này không thực hiện bán lại trái phiếu sau
khi mua từ Kho bạc Nhà nước mà giữ lại coi như phần đầu tư của mình. Điều
này đã làm cho phương thức phát hành thông qua bảo lãnh phát hành mất
tính đại chúng.
Thị trường Trái phiếu Đô thị thì mới đang ở giai đoạn đầu của quá trình
phát triển, quy mô thị trường còn nhỏ và tốc độ tăng trưởng còn chậm. Mặc dù
được đánh giá là “sẽ là một trong những kênh huy động vốn quan trọng”
nhưng đến nay thì vẫn chưa có đợt phát hành nào được đánh giá là đợt phát
hành theo đúng nghĩa của thị trường vốn.
Cũng giống như thị trường Trái phiếu Đô thị, thị trường Trái phiếu Công
ty cũng rất ảm đạm.Số công ty phát hành Trái phiếu để huy động vốn mới chỉ
đếm trên đầu ngón tay. Hiện mới chỉ có Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam là đã phát hành Trái phiếu dài hạn ra công chúng và đăng ký lại Trái phiếu
để niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán với tổng giá trị đăng ký là
1069 tỷ đồng. Ngoài ra, cũng có một số công ty đã tiến hành phát hành trái
phiếu để huy động vốn như : Công ty Dầu khí, Công ty cao su và sắp tới là Tổng
công ty Điện lực Việt Nam.
2.1.2. Thị trường cổ phiếu sơ cấp.
Thị trường phát hành cổ phiếu tuy có sáng sủa hơn so với trái phiếu
nhưng cũng chẳng thấm tháp gì so với toàn bộ nền kinh tế. Trong khi tiến trình
cổ phần hoá đang diễn ra sôi động và việc thành lập các công ty cổ phần ngày
càng nhiều thì vấn đề tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán lại dường như
không mấy sôi động. Các doanh nghiệp cổ phần hoá và các công ty cổ phần là
những chủ thể quan trọng trong việc cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng
khoán. Họ thông qua TTCK để huy động vốn phục vụ nhu cầu kinh doanh bằng

cách phát hành các loại cổ phiếu. Cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước
trong thời gian qua ở nước ta được coi là một chính sách cơ bản của việc tạo
ra những chủ thể cung ứng hàng hoá cho TTCK. Trong 12 năm (từ năm 1993
cho đến hết năm 2004) tổng số doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hoá
đạt 2.242, tổng số vốn của các doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hoá là
17.700 tỷ đồng. Bên cạnh đó sự ra đời của Luật doanh nghiệp thay thế cho
Luật công ty đã góp phần hình thành nên một mảng công ty cổ phần năng
động đáp ứng cho phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp (bán cổ phần của Nhà
nước cho các nhà đầu tư) còn nhiều điểm hạn chế, đặc biệt là trên góc độ phát
hành chứng khoán ra công chúng. Tỷ lệ vốn sở hữu của Nhà nước trong các
công ty cổ phần còn khá cao (chiếm khoảng 30% đến 50%) dẫn đến số lượng
cổ phiếu bán ra ngoài còn thấp. Việc bán cổ phần hầu như không được công bố
trên các phương tiện thông tin đại chúng mà chỉ công bố trong nội bộ doanh
nghiệp hoặc trụ sở doanh nghiệp. Điều này dẫn đến tỷ lệ cổ phần sở hữu bởi
các nhà đầu tư công chúng còn rất ít. Nhưng thực tế cho thấy nhiều doanh
nghiệp không muốn bán cổ phần ra ngoài bởi cổ phiếu của tất cả các doanh
nghiệp khi cổ phần hoá đều bị định giá thấp hơn do chưa tính đến nhiều yếu tố
như tài sản vô hình, ưu thế địa lý, lợi thế so sánh…Hơn thế nữa các doanh
nghiệp này không muốn nhiều người nắm giữ cổ phần của họ đặc biệt là các
nhà đầu tư nước ngoài do họ sợ khi nhà đầu tư nước ngoài nắm một lượng cổ
phần lớn trong doanh nghiệp thì quyền kiểm soát cũng như quyền lực của họ
trong doanh nghiệp giảm sút và doanh nghiệp sợ bị thâu tóm sáp nhập.
Một thành phần quan trọng của thị trường chứng khoán đó là việc phát
hành cổ phiếu của các công ty cổ phần thành lập theo Luật doanh nghiệp và
của các công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển sang hình thức cổ phần. Tại thời
điểm trước khi có Luật doanh nghiệp, cả nước mới chỉ có khoảng 200 công ty
cổ phần thành lập theo Luật công ty, đa phần đều có vốn điều lệ nhỏ (dưới 5 tỷ
đồng ) và các công ty này cũng không phát hành chứng khoán ra công chúng
mà chỉ do một nhóm cổ đông góp vốn thành lập công ty.

Hiện nay, các công ty cổ phần cũng đang tìm hiểu về kênh huy động vốn
thông qua phát hành chứng khoán qua TTCK.Việc phát hành chứng khoán của
các doanh nghiệp còn nhiều điểm bất cập cho các công ty mới được thành lập,
kiến thức về TTCK chưa nắm một cách rõ ràng. Hơn nữa thị trường chứng
khoán chưa thực sự là cầu nối tin tưởng để các doanh nghiệp phát hành chứng
khoán.
Một điều hạn chế khi các công ty cổ phần ra đời là việc kiểm soát huy
động vốn của các công ty là rất khó. Các công ty cổ phấn chỉ cần đăng ký vốn
điều lệ với các cơ quan kinh doanh thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
thuộc Trung ương. Còn thực tế, công ty huy động vốn đến đâu và bằng cách
nào thì không có cơ quan nào quản lý do đó khó có thể đánh giá được tổng số
vốn thực tế đã huy động của các công ty này. Hơn nữa, việc phát hành cổ phiếu
của các công ty cổ phần hiện nay là không kiểm soát được do hoạt động phát
hành chứng khoán chỉ điều chỉnh đối với các công ty phát hành chứng khoán
ra công chúng để niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán. Do đó các
công ty phát hành chứng khoán ra công chúng mà không niêm yết thì không
phải chịu bất cứ sự quản lý nào, không phải xin phép, công bố thông tin, không
phải báo cáo kết quả phát hành …Điều này đã dẫn đến một thực tế là hầu như
chưa có công ty nào thực hiện việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng
để niêm yết trên TTCK, còn các công ty niêm yết hiện nay đều là các doanh
nghiệp cổ phần hoá hoặc các công ty cổ phần đã phát hành cổ phiếu thực hiện
việc đăng ký lại cổ phiếu để niêm yết và giao dịch trên trung tâm giao dịch
chứng khoán.
Trong thời gian gần đây, một số công ty cổ phần đã phát hành cổ
phiếu ra công chúng và nhận thấy lợi ích to lớn khi niêm yết trên trung tâm
giao dịch chứng khoán. Đó là việc phát hành cổ phiếu có thể đáp ứng ngay
lập tức nguồn vốn cần thiết với chi phí thấp. Tuy nhiên làm thế nào để mọi
công ty phần trong nước đều nhận thức được điều này quả là vấn đề đầy
nan giải. Nhưng không vì thế mà vai trò của TTCK bi giảm sút. Cùng với
thời gian khi thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn

nữa thì việc nhận ra đây là một kênh huy động vốn tối ưu đối với các
doanh nghiệp sẽ là điều đương nhiên và chúng ta hy vọng ngày đó sẽ đến
gần.
Việc phát hành thêm chứng khoán của các công ty niêm yết cũng chưa
phát triển. Mặc dù nếu như các công ty đã niêm yết mà phát hành chứng
khoán thì các thủ tục phát hành cũng như việc xác định giá chứng khoán đơn
giản hơn rất nhiều. Một số công ty niêm yết khác trong thời gian vừa qua đã
tiến hành phát hành cổ phiếu thưởng cho các cổ đông hiện hữu mà mà nguồn
lấy từ lợi nhuận để lại và các quỹ của công ty. Việc phát hành này chính là phát
hành cổ phiếu không thu tiền mà mục đích của nó là không làm tăng thêm số
lượng cổ đông và nguồn vốn sở hữu của công ty, bảo vệ lợi ích của các cổ đông
hiện hữu trong doanh nghiệp. Thực chất đây là việc điều chỉnh vốn điều lệ của
công ty, chuyển vốn từ các quỹ sang vốn cổ phần.
Một bộ phận không nhỏ trong việc cung ứng hàng hoá cho thị trường
chứng khoán đó là các ngân hàng thương mại cổ phần. Luật các tổ chức tín
dụng cho phép các ngân hàng thương mại cổ phần có thể phát hành cổ phiếu
để huy động vốn trên TTCK đáp ứng nhu cầu tín dụng ngày càng cao trong nền
kinh tế. Hiện nay nước ta có khoảng 40 ngân hàng thương mại cổ phần với
tổng số vốn điều lệ tối thiểu theo quy định là 5000 tỷ đồng. Tuy nhiên việc phát
hành cổ phiếu của các ngân hàng thương mại chưa thực sự phát triển. Nhiều
ngân hàng nói rõ quan điểm của họ rằng họ sẽ không huy động vốn trên TTCK
cho dù họ biết chắc là huy động vốn qua thị trường này có ưu thế hơn so với
các kênh huy động khác. Rõ ràng là các ngân hàng chưa thực sự tin tưởng vào
TTCK Việt Nam.
Với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, ngân
hàng thương mại cổ phần có thể phát hành cổ phiếu lần đầu để thành lập ngân
hàng hoặc phát hành các lần tiếp theo để tăng vốn điều lệ. Tuy nhiên, do các
ngân hàng thương mại cổ phần chưa thực sự lớn mạnh, số lượng vốn huy
động còn nhỏ nên hiện nay các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam mới
chỉ thực hiện theo hình thức phát hành riêng lẻ nghĩa là huy động vốn cổ phần

dưới hình thức kêu gọi các cổ đông hoặc nhóm cổ đông quen biết lẫn nhau
cùng góp vốn.
Trong thời gian qua cũng có một số ngân hàng cổ phần tiến hành phát
hành thêm cổ phiếu để tăng mức vốn điều lệ, tuy vậy việc phát hành này chỉ bó
hẹp trong các cổ đông hiện hữu hoặc các đối tác trong hoạt động kinh doanh.
Sắp tới vào quý 3 năm nay, cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ phần
Thương Tín (Sacombank) sẽ chính thức lên niêm yết tại sàn giao dịch của
Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Đây quả là tin đáng
mừng cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thực hiện chủ trương cổ phần hoá các ngân hàng thương mại Nhà
nước, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã thực hiện thí điểm cổ phần hoá.
Tuy nhiên cổ phiếu của VCB có được niêm yết tạo hàng hoá cho TTCK Việt Nam
hay không vẫn còn là một câu hỏi lớn.
Thị trường trái phiếu, cổ phiếu sơ cấp vẫn phát triển một cách “chậm
chạp”, lượng hàng hoá trên TTCK vẫn rất “nghèo nàn”. Chính vì vậy, nhằm thúc
đẩy TTCK phát triển theo chỉ thị 04/2005 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài
chính dự kiến chọn khoảng 100 doanh nghiệp thực hiện niêm yết, đăng ký giao
dịch trên TTCK và 100 doanh nghiệp thực hiện bán bớt phần vốn Nhà nước và
cổ phiếu phát hành lần đầu trên TTCK, bên cạnh đó đưa khoảng 50% khối
lượng trái phiếu phát hành năm 2005 qua TTCK.
2.2. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY.
Hoạt động bảo lãnh phát hành ở Việt Nam chủ yếu do các công ty chứng
khoán thực hiện, còn các ngân hàng thương mại chỉ thực hiện bảo lãnh đối với
Trái phiếu Chính phủ. Hoạt động bảo lãnh phát hành còn rất mới mẻ ở Việt
Nam và chỉ thực sự biết đến sau khi TTCK ra đời. Hoạt động bảo lãnh phát
hành ở Việt Nam đến nay chủ yếu được thực hiện đối với Trái phiếu Chính phủ.
Chính phủ thường huy động một số tiền lớn để đáp ứng cho chi tiêu ngân sách
và ổn định cho điều hoà lưu thông tiền tệ, do vậy việc thành công của một đợt
phát hành Trái phiếu Chính phủ rất cần thiết bởi nó ảnh hưởng đến toàn bộ

nền kinh tế. Các tổ chức bảo lãnh đứng ra bảo lãnh cho đợt phát hành Trái
phiếu Chính phủ thường là các tổ chức lớn, có tiềm lực tài chính mạnh. Các
thành viên bảo lãnh phát hành Trái phiếu Chính phủ chủ yếu là các ngân hàng
thương mại và các công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán Bảo Việt (BVCS)
là một công ty tham gia nhiều lần vào các đợt phát hành Trái phiếu Chính phủ
và trái phiếu của các tổ chức lớn như Quỹ hỗ trợ phát triển. Đó cũng là do đặc
thù của danh mục đầu tư trong ngành bảo hiểm luôn cần có trái phiếu dài hạn.
Cho đến nay chưa có một công ty chứng khoán nào triển khai nghiệp vụ
bảo lãnh phát hành chứng khoán một cách đầy đủ. Đối với cổ phiếu thì chưa có
một trường hợp bảo lãnh nào. Các công ty chủ yếu hoạt động dưới hình thức
đại lý phát hành. Theo phương thức này tổ chức bảo lãnh sẽ không phải tiến
hành bước phân tích tài chính và tư vấn phát hành. Các công ty chứng khoán
thực hiện luôn việc phân phối số chứng khoán mà họ nhận được.
Đối với một số doanh nghiệp phát hành chứng khoán thì công ty chứng
khoán chỉ dừng lại ở bước chuẩn bị, lập và nộp hồ sơ lên Uỷ ban chứng khoán.
Vì thế mà có thể thấy rõ là doanh nghiệp chỉ yêu cầu công ty tư vấn phát hành
chứ chưa cần đến bảo lãnh bao tiêu chứng khoán. Bên cạnh đó có thể thấy một
số doanh nghiệp cổ phần hóa thực hiện đăng ký lại để niêm yết trên thị trường
chứng khoán chứ chưa phát hành mới ra công chúng.
Hoạt động bảo lãnh có thể coi như thực sự xuất hiện ở Việt Nam từ năm
2001. Vì sau một thời gian hoạt động của thị trường chứng khoán 7/2000 các
tổ chức bảo lãnh phải có thời gian chuẩn bị để bước vào một lĩnh vực đầy mới
mẻ này. So với các nghiệp vụ khác của công ty chứng khoán như môi giới và tự
doanh thì có thể thấy nghiệp vụ bảo lãnh còn khá khiêm tốn nhưng nó không
kém phần quan trọng. Bởi tất cả các nghiệp vụ này hoạt động tốt thì càng thúc
đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế nói
chung.
2.3. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM.
2.3.1. Quá trình hình thành và phát triển.

Trên thế giới, thị trường chứng khoán đã xuất hiện từ thế kỷ XV từng
bước hoàn thiện và phát triển, dần dần đã trở nên phổ biến và giữ một vị trí
quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Để thúc đẩy sự hình thành và phát
triển thị trường chứng khoán và quản lý kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam,
từ năm 1996, Chính phủ và các Bộ có liên quan đã họp bàn, phê chuẩn và đưa
ra những văn bản không thể thiếu về chứng khoán như Nghị định 75-CP ngày
28/11/1996 của Chính phủ về thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước; Nghị
định 48-1998/NĐCP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị
trường chứng khoán; Quyết định số 04-1998/UBCK3 ngày 2/11/1999 của Chủ
tịch Uỷ ban chứng khoán Nhà nước về việc hướng dẫn thành lập cấp giấy phép
hoạt động cho công ty chứng khoán…Căn cứ theo các văn bản pháp luật trên,
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã nộp đơn xin cấp giấy phép thành
lập công ty chứng khoán. Với số vốn điều lệ 55 tỷ đồng và đáp ứng được yêu
cầu của Chính phủ, công ty đã chính thức thành lập và đi vào hoạt động cùng
với sự khai trương của trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM.
Quá trình hình thành và phát triển của công ty được đánh dấu bằng một
số điểm mốc sau: Ngày 18/11/1999, Hội đồng Quản trị Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam ra quyết định số 59/QĐ- HĐQT thành lập công ty chứng
khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Ngày 26/11/1999, chủ tịch
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh số 02/GDHĐKD cho
BSC tham gia hoạt động trong cả 5 lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Ngày
7/7/2000, công ty đã chính thức khai trương hoạt động dưới sự điều hành của
ông Trần Bắc Hà- Phó tổng giám đốc ngân hàng Đầu tư và Phát triển kiêm
Giám đốc công ty BSC. Hiện nay, Giám đốc công ty BSC là ông Hồ Công Hưởng.
Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là
doanh nghiệp Nhà nước được thành lập dưới hình thức là công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên vốn do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cấp.
Là đơn vị thành viên hạch toán độc lập trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam.
Tên gọi đầy đủ : Công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Tên gọi tắt: Công ty chứng khoán Đầu tư.
Tên giao dịch quốc tế : BIDV Securities Co.Ltd (BSC)
Vốn pháp định: ban đầu là 55 tỷ sau tăng lên 100 tỷ (VNĐ)
Trụ sở chính : tầng 10 –Toà tháp Vincom- 191 Bà Triệu – Hà nội.
2.3.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tham gia TTCK thông qua việc
thành lập công ty con độc lập dưới hình thức là công ty trách nhiệm hữu hạn
(TNHH) một thành viên do NHĐT&PTVN cấp 100% vốn điều lệ, theo mô hình
Chủ tịch và Giám đốc công ty được quy định tại Luật doanh nghiệp. Cơ cấu tổ
chức của BSC được áp dụng vào cuối năm 2005 như sau:
SƠ ĐỒ 3 : TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN BSC.
CHỦ TỊCH
B.GIÁM ĐỐC
PHÒNG GIAO DỊCH
HỘI SỞ
CHI NHÁNH
Tổ chức h nh chínhà
Kế toán thanh toán
Môi giới
Đầu tư
Nghiên cứu &phát triển
Công nghệ thông tin
Chức năng của các phòng như sau:
* Phòng môi giới :
Chức năng của phòng là:
-Môi giới mua bán chứng khoán cho khách hàng
- Mua bán chứng khoán cho công ty (tự doanh)
-Lưu ký chứng khoán
- Đại diện giao dịch tại sàn giao dịch

- Đại lý cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán
- Đại lý cho vay cầm cố chứng khoán
- Quản lý danh mục đầu tư
* Phòng kế toán thanh toán
Phòng kế toán thanh toán là đơn vị trực thuộc BSC do Giám đốc thành
lập để thực hiện quản lý mọi việc liên quan đến lĩnh vực được quy định trong
chức năng nhiệm vụ này và nhiệm vụ khác do Giám đốc phân công. Chức năng
của phòng Kế toán thanh toán là:
- Tổ chức thực hiện công tác hạch toán, kế toán thống kê hoạt động kinh doanh
của công ty theo đúng pháp lệnh kế toán-thống kê của Nhà nước
- Tổng hợp kết quả kinh doanh, lập báo cáo kế toán thống kê, phân tích tình
hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu lợi nhuận của toàn công ty và chi
nhánh.
- Tham mưu cho Giám đốc công ty trong việc tổ chức thực hiện các chế độ quản
lý tài chính theo các quy định hiện hành của Bộ Tài chính và của NHĐT&PTVN
* Phòng tổ chức hành chính
Phòng này được tách ra từ phòng tổng hợp với các chức năng như sau:
- Quản lý tổ chức nhân sự trong toàn bộ công ty
- Kiểm tra, kiểm soát nội bộ
- Thông tin đối ngoại

* Phòng công nghệ thông tin : được tách từ phòng tổng hợp

×