Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Chế độ pháp lý của các hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu điện năng giữa việt nam với nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.82 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG VIẾT DŨNG

CHÕ §é PH¸P Lý CñA C¸C HîP §åNG XUÊT KHÈU, NHËP KHÈU
§IÖN N¡NG GI÷A VIÖT NAM VíI N¦íC NGOµI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG VIẾT DŨNG

CHÕ §é PH¸P Lý CñA C¸C HîP §åNG XUÊT KHÈU, NHËP KHÈU
§IÖN N¡NG GI÷A VIÖT NAM VíI N¦íC NGOµI
Chuyên ngành: Luật Quốc Tế
Mã số: 8.38010106

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN TIẾN VINH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của mình.
Nội dung luận văn có sự tham khảo và kế thừa các công trình, ấn
phẩm và các bài viết đã công bố có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn có tính lý luận và thực
tiễn. Học viên đã hoàn thành các môn học và các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Đặng Viết Dũng


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi trân trọng cảm ơn
Khoa Luật học – Đại học Quốc gia Hà Nội và các giảng viên đã giảng dạy
Khoá 22 - Cao học Luật quốc tế đã tận tình quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi được học tập, nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Phó Giáo sư/Tiến sỹ Nguyễn Tiến Vinh
đã tận tình hướng dẫn khoa học, giúp đỡ người viết luận văn trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo và đồng nghiệp của
tôi tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Cục Điều tiết điện lực -Bộ Công Thương,
Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo-Bộ Công Thương, Vụ Pháp chế Bộ Công
Thương đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp tư liệu, khảo sát thực tế và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu để hoàn thiện luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng do
điều kiện nghiên cứu, khả năng và kinh nghiệm quản lý của bản thân có hạn,
luận văn chắc khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được ý kiến
chỉ dẫn quý báu của Quý hội đồng, các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp
để luận văn được hoàn thiện hơn.

Trân trọng!
Hà Nội, ngày … tháng 6 năm 2019
Ngƣời nghiên cứu

Đặng Viết Dũng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG
XUẤT NHẬP KHẨU ĐIỆN NĂNG.................................................. 7
1.1.

Khái quát về Hợp đồng xuất nhập khẩu (XNK) hàng hóa ............ 7

1.1.1. Khái niệm Hợp đồng XNK hàng hóa ................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của Hợp đồng XNK hàng hóa ........................................... 12
1.2.

Khái quát Hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng ........................... 16

1.2.1. Khái niệm Hợp đồng mua bán điện ................................................... 16
1.2.2. Phân loại Hợp đồng mua bán điện năng ............................................ 18
1.2.3. Khái niệm Hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng ................................ 19

1.2.4. Đặc điểm của hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng ........................... 21
1.2.5. Nguyên tắc, yêu cầu khi giao kết Hợp đồng XNKĐN ....................... 27
1.2.6. Nguồn luật điều chỉnh Hợp đồng XNKĐN........................................ 28
1.2.7. Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật đối với Hợp đồng xuất nhập
khẩu điện năng ................................................................................... 29
Tiểu kết Chƣơng 1 ......................................................................................... 33
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT
CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU ĐIỆN NĂNG......................................................... 34
2.1.

Hiệp ƣớc Hiến chƣơng Năng lƣợng năm 1994 .............................. 34

2.1.1. Lịch sử hình thành .............................................................................. 34


2.1.2. Các nội dung cơ bản ........................................................................... 36
2.1.3. Các quy định cụ thể về XNKĐN........................................................ 39
2.2.

Hiến chƣơng Năng lƣợng Quốc tế năm 2015 ................................. 41

2.2.1. Nội dung cơ bản ................................................................................. 41
2.2.2.

Các quy định liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu điện năng .......... 43

2.3.

Pháp luật của một số quốc gia về hoạt động xuất nhập khẩu

điện năng ........................................................................................... 46

2.3.1. Pháp luật Trung Quốc ........................................................................ 47
2.3.2. Pháp luật Lào ...................................................................................... 49
2.3.3. Pháp luật Campuchia .......................................................................... 53
Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 56
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XUẤT NHẬP
KHẨU ĐIỆN NĂNG TẠI VIỆT NAM - CÁC KHUYẾN NGHỊ
VÀ GIẢI PHÁP............................................................................................ 57
3.1.

Quy định của pháp luật Việt Nam về xuất nhập khẩu điện năng .... 57

3.1.1. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu điện năng ............. 57
3.1.2. Chính sách quản lý và phát triển năng lượng điện ở Việt Nam ......... 59
3.1.3. Các quy định về Hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng ...................... 63
3.2.

Thực tiễn hoạt động xuất nhập khẩu điện năng tại Việt Nam .... 71

3.3.

Những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam vê hoạt
động xuất nhập khẩu điện năng...................................................... 74

3.4.

Một số kiến nghị, phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về hoạt động xuất nhập khẩu điện năng .......... 77


3.4.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về xuất nhập khẩu điện năng ....... 78
3.4.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý
hoạt động xuất nhập khẩu điện năng .................................................. 81
Tiểu kết Chƣơng 3 ......................................................................................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 90


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT

Chữ viết tắt

Nghĩa

1

ĐDTTĐN

Đường dây truyền tải điện năng

2

ECT

Hiệp ước Hiến chương Năng lượng

3

EPTC


Công ty Mua bán điện-Tập đoàn Điện lực
Việt Nam

4

ERAV

Cục điều tiết Điện lực

5

EVN

Tập đoàn điện lực quốc gia Việt Nam

6



Hợp đồng

7

HĐXNK

Hợp đồng xuất nhập khẩu

8


HQCK

Hải quan cửa khẩu

9

HTĐQG

Hệ thống điện quốc gia

10

HTĐQG

Hệ thống điện quốc gia

11

IEC

Hiến chương Năng lượng Quốc tế

12

LQT

Luật quốc tế

13


MOIT

Bộ Công Thương

14

NNK

Nước nhập khẩu

15

NXK

Nước xuất khẩu

16

PPA

Hợp đồng mua bán điện

17

QLNN

Quản lý nhà nước

18


QLNN

Quản lý Nhà nước

19

TA

Bản sửa đổi đối với lĩnh vực Thương mại
của ECT

20

TMQT

Thương mại quốc tế

21

XNKĐN

Xuất nhập khẩu điện năng

22

YNPG

Công ty lưới điện Vân Nam



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năng lượng nói chung, điện năng nói riêng luôn giữ vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế- xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà hầu
hết các thiết bị hiện đại phục vụ đời sống con người và sản xuất đều sử dụng
điện. Điện năng được coi là một phần quan trọng của cơ sở hạ tầng, luôn phải
đi trước một bước để tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh tế
khác phát triển. Có thể nói phải có điện mới có công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Vì vậy, phát triển điện năng là yêu cầu cấp thiết để phát triển kinh tế
xã hội của đất nước. Trong hoàn cảnh tại Việt Nam các nguồn phát điện ngày
một khan hiếm như hiện nay, việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu điện
năng (XNKĐN) đang trở nên hết sức cần thiết. XNKĐN là một quan hệ
thương mại quốc tế có những đặc thù nhất định, hoạt động này không chỉ
cung cấp điện năng đảm bảo đáp ứng nhu cầu xã hội, phục vụ các mục tiêu
phát triển kinh tế mà còn nhằm mục đích duy trì ổn định an ninh năng lượng
quốc gia. Chính vì vậy, ngành điện Việt Nam đã đặt ra sứ mệnh “điện đi trước
một bước” trong giai đoạn này.
Điện năng là một loại hàng hóa đặc biệt, khác với các loại hàng hóa
thông thường khác về tính chất, phương thức giao nhận, đo đếm… khi giao
dịch trên thị trường. Tính chất phức tạp của của loại hàng hóa này cũng thể
hiện tính chất phức tạp của Hợp đồng mua bán điện (PPA), đặc biệt là các
PPA qua biên giới quốc gia. Hơn nữa, giá trị các PPA rất lớn ảnh hưởng
đến cán cân thanh toán ngoại hối của của toàn ngành điện. Do đó công tác
xây dựng chính sách, kế hoạch XNKĐN cần được luật hóa trên nguyên tắc
công khai, minh bạch và phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển điện
năng của quốc gia.

1



Ngoài ra, công tác quản lý Nhà nước (QLNN) đối với hoạt động
XNKĐN còn nhiều bất cập, đặc biệt liên quan đến hoạt động thuế quan của
các đơn vị Hải quan. Các quy định pháp luật về QLNN đối với hoạt động
XNKĐN còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa thể hiện các cam kết của Việt Nam
với các quốc gia trong khu vực mà Việt Nam đã ký Hiệp định tự do thương
mại (FTA) cũng như các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt Nam là
quốc gia thành viên.
Chính vì những lý do trên, cần có những nghiên cứu khoa học pháp lý
chuyên sâu dưới góc độ của Luật Quốc tế đối với các quy định pháp luật và
thực tế hoạt động XNKĐN nhằm thể chế hóa tích cực vai trò quản lý nhà
nước đối với hoạt động này.
Vì những lý do trên, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài “Chế độ pháp lý
của hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu điện năng giữa Việt Nam với nước ngoài”
làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Luật Quốc tế (LQT).
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoa học pháp lý, hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) hàng hóa
đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, ở các cấp độ
khác nhau, từ các đề tài nghiên cứu khoa học, khoá luận tốt nghiệp của sinh
viên, đến các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ hay các bài báo chuyên khảo.
Tuy nhiên, nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về một loại hình hợp đồng
XNK cụ thể với loại hàng hoá đặc biệt là điện năng mới chỉ dừng lại ở các
báo cáo quản lý ngành, niên giám thống kê ngành mà chưa có công trình
khoa học cấp sau đại học nào thực hiện. Cho đến nay, theo hiểu biết tốt nhất
của tôi, hầu như chưa có một đề tài nghiên cứu cấp thạc sỹ LQT nào có đối
tượng và nội dung nghiên cứu trùng lặp với đề tài này.
Việc nghiên cứu và triển khai các kết quả nghiên cứu của đề tài có ý
nghĩa quan trọng trong việc quản lý và hoạch định chính sách phát triển

2



năng lượng điện của Việt Nam cũng như phục vụ cho công tác của tôi tại
Công ty Mua bán điện – Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
3. Mục đích, nội dung nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu nhằm làm rõ các cơ sở lý luận khoa
học và thực tiễn của hoạt động XNKĐN, trên cơ sở đó sẽ đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN đối với hoạt động XNKĐN,
đồng thời đề xuất các biện pháp tăng cường hiệu quả cho hoạt động đàm
phán, ký kết, thực hiện các hợp đồng mua bán điện với nước ngoài.
3.2. Nội dung nghiên cứu
- Làm rõ bản chất và các đặc trưng pháp lý của Hợp đồng XNKĐN
so với Hợp đồng XNK hàng hóa thông thường khác, nhất là trong bối cảnh
thực hiện chính sách quản lý năng lượng và tái cấu trúc ngành Điện của
Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu, làm rõ những quy định của pháp luật Việt Nam, các
ĐƯQT song phương hoặc đa phương mà Việt Nam là thành viên liên quan
đến hoạt động XNKĐN.
- Nghiên cứu các quy định pháp luật điều chỉnh PPA của hoạt động
XNKĐN trong khu vực.
- Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng XNKĐN trong 8 năm trở lại đây.
- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với
hoạt động XNKĐN từ các khâu xây dựng chính sách, quản lý thanh toán, đến
cơ chế kê khai và làm thủ tục hải quan tại các của khẩu có hoạt động XNKĐN
thông qua HTĐQG Việt Nam.
- Đề xuất xây dựng một số quy định dưới luật nhằm nâng cao vai trò
QLNN (thông tư hoặc thông tư liên bộ), ban hành Hợp đồng mẫu áp dụng cho
các tổ chức, cá nhân Việt Nam tham gia hoạt động XNKĐN tại Việt Nam.

3



4. Yêu cầu kết quả nghiên cứu
Phải đưa ra được các đề xuất, khuyến nghị, một số giải pháp, phương
pháp quản lý cụ thể nhằm kiểm soát và nâng cao hiệu quả công tác QLNN
trong hoạt động XNKĐN tại Việt Nam. Cụ thể hóa các đề xuất và giải pháp
này thông qua các dự thảo quy định pháp luật quản lý chuyên ngành.
5. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này tập trung đi sâu nghiên cứu các quy phạm pháp luật Việt
Nam; quy phạm pháp luật của nước xuất khẩu (NXK), nước nhập khẩu
(NNK) và các Điều ước quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới cũng như pháp
luật về XNKĐN của các quốc gia trong khu vực mà Việt Nam có quan hệ
XNKĐN trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về nội dung: Các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL)
của quy phạm pháp luật của Việt Nam; quy phạm pháp luật của NXK, NNK
điện năng và các Điều ước quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới cũng như
pháp luật về XNKĐN của các quốc gia trong khu vực mà Việt Nam có quan
hệ XNKĐN
+ Phạm vi về đối tượng: Các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động
XNKĐN với Việt Nam (có thể bao gồm cả quốc gia với tư cách là một bên tham
gia quan hệ thương mại quốc tế (TMQT), các PPA giữa một bên là pháp nhân
Việt Nam đầu tư dự án BOT điện tại Lào và xuất khẩu điện cho Việt Nam).
+ Phạm vi về địa bàn: Giữa Việt Nam và các quốc gia có chung đường
biên giới;
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến nay.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện và hoàn thành đề tài này, tôi sử dụng tổng hợp các biện


4


pháp nghiên cứu khoa học nhằm làm rõ các vấn đề mà mực đích nghiên cứu
đã đề ra. Cụ thể là:
- Phương pháp biện chứng khoa học của chủ nghĩa khoa học Mác- Lê
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và các quy luật thực tiễn
- Phương pháp nghiên cứu phân tích số liệu thực tiễn theo chu kỳ.
- Nhóm các phương pháp xử lý thông tin: phân tích, thống kê, tổng
hợp, so sánh.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Cho đến nay, theo hiểu biết tốt nhất của tôi, hầu như chưa có một đề tài
nghiên cứu cấp thạc sỹ LQT nào có đối tượng và nội dung nghiên cứu trùng
lặp với đề tài này.
Việc nghiên cứu và triển khai các kết quả nghiên cứu của đề tài có ý
nghĩa quan trọng trong việc quản lý và hoạch định chính sách phát triển năng
lượng điện của Việt Nam cũng như phục vụ cho công tác của tôi tại Công ty
Mua bán điện – Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn Thạc sỹ của tôi gồm 3
Chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của hợp đồng XNKĐN, bao gồm
các nội dung về: Khái niệm, đặc điểm, phân loại và so sánh với các hợp đồng
XNK hàng hóa thông thường khác; nguồn pháp luật điều chỉnh;
- Chương 2: Thực tiễn pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc
gia điều chỉnh hoạt động XNKĐN, bao gồm các nội dung về:Hệ thống các
Điều ước quốc tế lớn trên thế giới điều chỉnh vấn đề XNKĐN, hệ thống quy
phạm pháp luật của một số quốc gia trong khu vực liên quan đến chính sách
và hoạt động XNKĐN của Việt Nam nói riêng và khu vực nói chung.


5


- Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về XNKĐN tại Việt Nam,
những hạn chế, bất cập và các khuyến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật
XNKĐN tại Việt Nan bao gồm các nội dung về: Các quy định pháp luật
điều chỉnh vấn đề XNKĐN tại Việt Nam, thực tiễn hoạt động XNKĐN tại
Việt Nam từ năm 2010 đến nay cũng như đề xuất các giải pháp cụ thể
thông qua các kiến nghị chính sách để nâng cao hiệu quả QLNN đối với
hoạt động XNKĐN.

6


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
CỦA HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU ĐIỆN NĂNG
1.1. Khái quát về Hợp đồng xuất nhập khẩu (XNK) hàng hóa
1.1.1. Khái niệm Hợp đồng XNK hàng hóa
Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống ngày càng cao, sự phân công lao
động quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và
tham gia vào quá trình liên kết và hợp tác kinh tế. Quá trình này không thể
diễn ra ở một quốc gia/khu vực lãnh thổ mà phải tiến hành trên bình diện
quốc tế. Đặc biệt, muốn phát triển nhanh thì mỗi quốc gia không thể đơn độc
dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng tất cả các thành tựu khoa
học, kỹ thuật, kinh tế mà loài người đã đạt được để thông thương, buôn bán
trao đổi lẫn nhau. Vì thế mỗi quốc gia/khu vực lãnh thổ thường sẽ mua về
những thứ không tự sản xuất được từ những nước khác, đồng thời bán những
sản phẩm tự sản xuất được cho những nước có nhu cầu. Hoạt động này được
gọi là hoạt động thương mại quốc tế. Nhu cầu hoạt động ngoại thương thực

chất là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia trên
thế giới. Nếu xem kinh tế ngoại thương là một tổng thể thống nhất thì xuất
nhập khẩu chính là cốt lõi của tổng thể đó. Vì thế hoạt động ngoại thương ra
đời và phát triển cùng với sự phát triển về nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa các
quốc gia. Mặt khác, nhập khẩu là một trong những phương thức tiếp thu
những thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới một cách nhanh chóng
nhất, tạo ra cơ sở cho sự phát triển công nghệ hạ tầng và đồng thời là một
trong những mục tiêu hàng đầu của chính sách thương mại quốc gia.
Hợp đồng XNK hàng hóa hay còn có tên gọi khác là hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, trước hết là một hợp đồng mua bán hàng hoá, do đó nó

7


mang đầy đủ đặc trưng của một hợp đồng mua bán hàng hoá. Mặc dù pháp
luật quốc tế và pháp luật các nước có các cách tiếp cận khác nhau, nhưng các
hệ thống pháp luật đều thống nhất chung một quan điểm về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế là một hợp đồng mua bán hàng hóa có “tính chất quốc
tế”. Dưới đây là một số cách tiếp cận chủ yếu về “tính chất quốc tế” trong đó:
Thứ nhất, tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
theo Điều 1 Công ước Lahaye 1964 (Công ước về Luật thống nhất về mua
bán quốc tế những động sản hữu hình) quy định như sau:
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hoá
trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau,
hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao
đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các bên ký kết được thiết lập ở các
nước khác nhau [4].
Như vậy, theo quy định trên của Công ước Lahaye năm 1964, một hợp
đồng XNK hàng hóa phải đảm bảo điều kiện các bên có trụ sở thương mại ở
các nước khác nhau và hợp đồng đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:

“Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới của
một quốc gia hoặc việc ký kết hợp đồng được diễn ra ở các nước khác nhau”.
Việc quy định như trong Công ước Lahaye năm 1964 cho thấy rằng, để
xác định một hợp đồng là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì yếu tố các
bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau là vấn đề hết sức quan trọng.
Yếu tố quốc tịch của các bên trong hợp đồng không có ý nghĩa trong việc xác
định “tính chất quốc tế” của loại hợp đồng này. Ví dụ: Hợp đồng mua bán
hàng hóa được ký kết tại Anh giữa một thương nhân Anh có nơi cư trú tại
Singapore và một doanh nghiệp Anh có trụ sở tại London; hàng hóa được
chuyển từ Singapore về Anh. Hợp đồng này hoàn toàn đủ điều kiện là hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của Công ước Lahaye năm
1964 dù các bên chủ thể có cùng quốc tịch [22, tr.13-18].

8


Thứ hai, tính chất quốc tế trong hợp đồng XNK hàng hóa theo Công
ước Viên năm 1980 (Công ước của Liên hợp quốc về Hợp đồng Mua bán
hàng hóa Quốc tế được ký kết tại Viên năm 1980). Theo Điều 1 Công ước
Viên 1980 quy định:
1. Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng
hoá được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia
khác nhau: (i) khi các quốc gia này là thành viên của Công ước,
hoặc (ii) khi theo quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là
luật của quốc gia thành viên Công ước.
2. Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau
không tính đến nếu sự kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ các
mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký hợp đồng giữa
các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin giữa các bên.
3. Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ,

tính chất dân sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới
khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước này [18, Điều 1].
Từ quy định trên của công ước Viên năm 1980 cho thấy tính chất quốc
tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được xác định chỉ bởi một tiêu
chí duy nhất, đó là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại tại các
quốc gia khác nhau. Điều này khác với Công ước Lahaye năm 1964, các yếu
tố như địa điểm ký kết hợp đồng, việc dịch chuyển qua biên giới đối với đối
tượng của hợp đồng không được Công ước Viên năm 1980 đề cập đến. Ngoài
ra, giống như Công ước Lahaye năm 1964, Công ước Viên năm 1980 cũng
không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính chất quốc
tế của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ ba, tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp
luật của một số nước trên thế giới.

9


Ví dụ: Theo pháp luật của Pháp, khi xác định tính chất quốc tế trong
hợp đồng mua bán hàng hóa, người ta căn cứ vào hai tiêu chí là kinh tế và
pháp lý:
- Theo tiêu chí kinh tế, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế khi
nó tạo nên sự dịch chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa
hai nước.
- Theo tiêu chí pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế
nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc
tịch, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn
thanh toán…
Thứ tư, tính chất quốc tế trong hợp đồng XNK hàng hóa theo pháp luật
Việt Nam. Theo quy định pháp luật Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Hợp đồng mua bán

quốc tế, Hợp đồng xuất nhập khẩu, Hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp
đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài …[23, tr.5-13].
Trước khi ban hành Luật thương mại năm 1997, theo quy chế tạm thời
hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương số 4794/TN-XNK do
Bộ Thương Nghiệp (nay là Bộ Công Thương) ban hành ngày 31/7/1991 thì
Hợp đồng mua bán ngoại thương là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất
quốc tế; “tính chất quốc tế” của hợp đồng ngoại thương được xác định bởi ba
tiêu chí sau đây: Chủ thể của hợp đồng là những pháp nhân có quốc tịch khác
nhau; Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển từ nước này
sang nước khác; Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một
bên hoặc cả hai bên ký kết hợp đồng.
Luật Thương mại năm 1997 quy định: “Hợp đồng mua bán hàng hóa
đối với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết
giữa một bên là thương nhân Việt Nam, một bên là thương nhân nước ngoài”

10


(Điều 80). Theo quy định này, việc xác định “tính chất quốc tế” của hợp đồng
mua bán hàng hóa chỉ dựa vào yếu tố quốc tịch của các bên tham gia ký kết.
Cách hiểu này khác xa so với các quy định trong các điều ước quốc tế và tập
quán thương mại quốc tế [19].
Luật thương mại năm 2005 không đưa ra tiêu chí để xác định “tính chất
quốc tế” của hợp đồng mua bán hàng hóa mà liệt kê những hoạt động được
coi là mua bán hàng hóa quốc tế. Cụ thể, Điều 27 của Luật quy định rõ việc
mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức: xuất khẩu, nhập
khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hóa. Đồng
thời, Luật cũng xác định rõ thế nào là xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái
xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hóa tại các điều 28 điều 29 và
điều 30, theo đó [20]:

Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật (Khoản 1 Điều 28).
Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam
từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi
là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều 28).
Tạm nhập, tái xuất hàng hóa là việc hàng hóa được đưa từ lãnh thổ
nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi
là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật vào Việt Nam, có làm
thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hóa đó
ra khỏi Việt Nam (Khoảng 1 Điều 29).
Tạm xuất, tái nhập hàng hóa làm việc hàng hóa được đưa ra nước
ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được
coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất
khẩu ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hóa đó vào
Việt Nam (Khoản 2 Điều 29).

11


Chuyển khẩu hàng hóa là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để
bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ
tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt
Nam (Khoản 1 Điều 30).
Như vậy, có thể thấy, các điều ước quốc tế mặc dù cùng điều chỉnh việc
vấn đề mua bán hàng hóa quốc tế nhưng có sự khác nhau về tiêu chí xác định
“tính chất quốc tế” trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Pháp luật các nước trên
thế giới cũng vậy, một quốc gia căn cứ vào hoàn cảnh, điều kiện chính trị,
kinh tế xã hội của mình cũng có những quy định không giống nhau về vấn đề
này. Ở Việt Nam, việc xác định “tính chất quốc tế” hay yếu tố “ngoại thương”

hoặc “nước ngoài” trong hợp đồng mua bán hàng hóa có sự thay đổi qua các
thời kỳ: từ ba tiêu chí là quốc tịch của chủ thể của hợp đồng, việc dịch chuyển
hàng hóa và đồng tiền thanh toán theo Quy chế 4794/TN-XNK năm 1991
xuống còn duy nhất một tiêu chí là quốc tịch của chủ thể hợp đồng theo Luật
Thương mại năm 1997. Tiêu chí này tiếp tục thay đổi trong Luật Thương mại
năm 2005, chỉ còn là việc dịch chuyển hàng hóa qua biên giới hoặc qua khu
vực hải quan[17, tr.18-24].
1.1.2. Đặc điểm của Hợp đồng XNK hàng hóa
Như đã trình bày trên đây, pháp luật nhiều quốc gia có sự phân biệt
giữa hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và hợp đồng XNK hàng hóa. So
với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế theo pháp luật các nước và dựa trên các điều ước quốc tế liên quan có
những đặc điểm khác biệt sau đây:
Về chủ thể của hợp đồng
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các bên (người bán
và người mua) có trụ sở thương mại đất ở các nước khác nhau. Ví dụ: thương
nhân A có trụ sở thương mại đặt tại Thái Lan ký kết hợp đồng mua bán gạo
với thương nhân B có trụ sở thương mại tại Nhật Bản.

12


Chủ thể tham gia hợp đồng xuất nhập khẩu có thể khác nhau theo các
định nghĩa khác nhau trong các nguồn luật khác nhau. Theo công ước Viên:
“Chủ thể tham gia hợp đồng là những bên tham gia ký kết hợp đồng có trụ sở
thương mại hay có nơi cư trú thường xuyên ở các nước khác nhau”. Còn theo
Điều 6 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005: “Chủ thể tham gia hợp đồng là
những thương nhân mang quốc tịch khác nhau”. Thương nhân theo luật
Thương mại Việt Nam được qui định trong Điều 6 của luật này là “cá nhân,
pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương

mại một cách độc lập, thường xuyên”
Về đối tƣợng của hợp đồng
Đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu là hàng hoá. Đối tượng của
hợp đồng được qui định khác nhau trong các nguồn luật khác nhau. Ví dụ:
công ty C của Việt Nam ký hợp đồng với một công ty D của liên bang Đức để
xuất khẩu sản phẩm cá da trơn sang thị trường EU. Tại Việt Nam, theo Khoản
2 Điều 3 luật Thương mại Việt Nam 2005: “a. Hàng hoá là tất cả các loại
động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai. b. Hàng hoá còn là
những vật gắn liền với đất đai”. Có thể thấy luật Thương mại Việt Nam 2005
điều chỉnh không chỉ bó hẹp ở các động sản mà còn cả các động sản. Còn các
hành vi liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như vận chuyển hàng hoá,
thanh toán, bảo hiểm, ... thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này. Đây
cũng là một hạn chế khiến cho Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi hội nhập WTO.
Hàng hoá, đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu có thể được di
chuyển ra khỏi biên giới của một quốc gia. Thực tế thì điều kiện này cũng cho
thấy sự khác biệt giữa hợp đồng xuất nhập khẩu với một hợp đồng kinh tế nói
chung, ví dụ như hợp đồng mua bán ký kết giữa một xí nghiệp trong khu chế
xuất với một xí nghiệp ngoài khu chế xuất được pháp luật coi là hợp đồng
xuất nhập khẩu, nhưng hàng hoá của hợp đồng đó không di chuyển ra khỏi
biên giới quốc gia.

13


Về địa điểm ký kết hợp đồng
Việc ký kết hợp đồng có thể diễn ra ở nước ngoài đối với một hoặc cả
hai bên. Ví dụ: hợp đồng suất khẩu sản phẩm cá da trơn giữa công ty C của
Việt Nam và công ty D của Đức nêu trên được các bên ký kết tại một hội chợ
hàng thủy sản tổ chức tại Thái Lan là nước ngoài đối với cả hai bên hợp đồng.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, đặc điểm về

địa điểm ký kết hợp đồng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã không
còn trở nên phổ biến, bởi lẽ tùy thuộc vào tính chất của mối quan hệ mà các
bên có thể tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng thông qua các công cụ hỗ trợ
như thư điện tử, fax ... Hoặc có trường hợp các bên không cần ký kết hợp
đồng mà chỉ cần thể hiện yêu cầu và sự chấp nhận theo thói quen trong hoạt
động thương mại. Trong những trường hợp như vậy, địa điểm ký kết hợp
đồng không có ý nghĩa đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Về đồng tiền thanh toán
Tiền tệ dùng để thanh toán theo hợp đồng có thể là ngoại tệ đối với các
bên. Ví dụ: hợp đồng được giao kết giữa người bán Việt Nam và người mua
Trung Quốc, hai bên thỏa thuận sử dụng đồng đô la Mỹ (USD) làm đồng tiền
thanh toán. Lúc này đồng đô la Mỹ là ngoại tệ đối với cả người bán Việt Nam
và người mua Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay,
nhiều khu vực kinh tế chung được hình thành (Ví dụ: cộng đồng kinh tế Châu
Âu -EC) thì yếu tố đồng tiền thanh toán không còn nhiều ý nghĩa trong hợp
đồng thương mại quốc tế, bởi lẽ các nước trong khu vực cùng sử dụng một
đồng tiền chung (Đồng tiền chung Euro).
Về cơ quan giải quyết tranh chấp
Tranh chấp phát sinh từ việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế có thể được giải quyết bằng tòa án hoặc trọng tài nước ngoài

14


đối với một hoặc cả hai bên. Ví dụ: khi phát sinh tranh chấp trong hợp đồng
mua bán gạo giữa thương nhân A có trụ sở thương mại tại Thái Lan và
thương nhân B có trụ sở thương mại tại Nhật Bản, hai bên có thể thỏa thuận
lựa chọn tòa án của một trong hai nước hoặc trọng tài nước thứ ba (Ví dụ:
Trọng tài Quốc tế Singapore) để giải quyết tranh chấp phát sinh.

Về pháp luật điều chỉnh hợp đồng
Pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể là luật
của bên mua, cũng có thể là luật của nước thứ bat rung gian hoặc là áp dụng
một công ước quốc tế như công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế. Ngoài ra hợp đồng xuất nhập khẩu còn chịu sự Điều chỉnh
của tập quán thương mại quốc tế và thậm chí là án lệ quốc tế (tiền lệ pháp). Ví
dụ: Thương nhân Thái Lan và thương nhân Nhật Bản có thể thỏa thuận về
việc lựa chọn pháp luật của Anh (là pháp luật nước ngoài với cả hai bên) hoặc
họ có thể lựa chọn điều ước quốc tế (Ví dụ như công ước Viên năm 1980)
hoặc tập quán thương mại quốc tế (như INCOTERMS 2000) để điều chỉnh
các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán của mình. Để
tránh hiện tượng “xung đột pháp luật” (hiện tượng có nhiều hệ thống pháp
luật khác nhau có thể cùng tham gia điều chỉnh một quan hệ pháp luật) thì các
bên phải thống nhất dẫn chiếu một nguồn luật điều chỉnh cụ thể trong quá
trình thực hiện hợp đồng [23, tr.23-44]
Ở Việt Nam, luật quốc gia có liên quan đến hợp đồng ngoại thương nói
chung và hợp đồng xuất nhập khẩu nói riêng là luật Thương mại 2005, bộ luật
Hàng hải, bộ luật Dân sự 2005, luật thuế xuất nhập khẩu, ... Ngoài ra còn
hàng loạt các nghị định, nghị quyết, qui định, thông tư như NĐ số
12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 1 năm 2006, NĐ số 19/2006/NĐ-CP ngày 20
tháng 2 năm 2006, NĐ số 72/2006/NĐ-CP ngày 25/7/2006 nhằm qui định
hoặc chi tiết hoá hướng dẫn việc thi hành các bộ luật này.

15


1.2. Khái quát Hợp đồng xuất nhập khẩu điện năng
1.2.1. Khái niệm Hợp đồng mua bán điện
Trong một dự án điện sẽ có nhiều hợp đồng khác nhau như hợp đồng
mua bán điện (HĐMBĐ) kí kết giữa chủ đầu tư và bên mua điện, các hợp

đồng liên quan trong quá trình xây dựng nhà máy (hợp đồng tổng thầu,
EPC…), hợp đồng vay vốn, thuê đất, thuê vận hành và bảo dưỡng, hợp đồng
cung cấp nhiên liệu (ở các dự án nhiệt điện), cấp nước xây dựng và nước vận
hành…. Tuy nhiên hợp đồng mua bán điện luôn được coi là hợp đồng quan
trọng, là trung tâm của các dự án điện đầu tư theo các hình thức xây dựng kinh doanh - chuyển giao (Build - Operation- Transfer, BOT), xây dựng chuyển giao - kinh doanh (Build - Transfer - Operation, BTO), xây dựng chuyển giao (Build - Transfer, BT) hay xây dựng - sở hữu - kinh doanh (Build
- Own - Operation, BOO) (gọi chung là các nhà máy điện/dự án điện độc lập
IPP- Independent Power Plant). Ngoài ra, còn phải kể đến các hợp đồng bán
lẻ (tiêu dùng) điện sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân
trên thực tế. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn thạc sỹ này,
tác giả xin chỉ đề cập tới các hợp đồng mang tính chất bán buôn (whole-sale)
giữa các đơn vị phát điện và bên mua buôn là Tập đoàn Điện lực Việt Nam
(EVN) hoặc đơn vị được phân cấp/ủy quyền.
Sở dĩ hợp đồng mua bán điện luôn có vai trò quan trọng như vậy vì nó
quy định đầu ra cho sản phẩm mà các dự án điện độc lập này sản xuất ra. Nếu
như các nhà máy sản xuất khác thường có nhiều hợp đồng để bán sản phẩm
của mình thì các dự án điện độc lập thường chỉ kí một hợp đồng với một chủ
thể để bán sản phẩm của họ, trong HĐMBĐ cũng thường có điều khoản bên
bán điện không được bán điện cho bên thứ 3, trừ khi có sự đồng ý của bên
mua điện. Đặc điểm này lại càng làm cho các HĐMBĐ trở nên quan trọng đối
với mỗi dự án điện độc lập.

16


Trong thực tế ngành điện, có nhiều cách hiểu khác nhau về hợp đồng
mua bán điện. Thông thường trên thế giới thuật ngữ Hợp đồng mua bán điện
được dùng theo nghĩa hẹp là Power Purchase Agreement/PPA hoặc Energy
Purchase Agreement hay Energy Service Agreement thường chỉ bao gồm hợp
đồng giữa các công ty phát điện độc lập (independent power producer - IPP)
và các đơn vị điện lực (electric utility/power utility) mà thôi. Hiện nay PPA

được sử dụng rộng rãi cho các dự án sử dụng năng lượng tái tạo (renewable
resources) như năng lượng mặt trời, gió hay địa nhiệt tại Mỹ, Canada, các
nước châu Âu... . Tại Glossary Legal Term (ERRA Issue Paper 2004) do
ERRA Legal Regulation Working Group [32] biên soạn thì hợp đồng mua
bán điện được hiểu là:
Hợp đồng được kí giữa một bên phát điện độc lập và đơn vị điện
lực. Hợp đồng mua bán điện quy định các điều khoản và điều kiện
mà theo đó điện năng sẽ được sản xuất và bán ra. Hợp đồng mua
bán điện yêu cầu bên phát điện độc lập cung cấp điện với giá xác
định trong thời hạn hợp đồng. Nội dung chính của hợp đồng mua
bán điện bao gồm: xác định quy mô và các thông số vận hành nhà
máy; các mốc chính cung cấp điện, các điều khoản hợp đồng; cơ
chế giá, các dịch vụ và quy định thực hiện các nghĩa vụ; quyền điều
độ; điều kiện chấm dứt hợp đồng và vi phạm hợp đồng.
Trong khi đó theo Glossary of Project Finance Terms and Acronyms trên
cổng thông tin điện tử Project Finance Portal [32] trang web cung cấp các chỉ
dẫn cho các luật sư, nhà nghiên cứu, sinh viên tìm hiểu thông tin về tài trợ dự án,
tài chính cho cơ sở hạ tầng và cơ chế hợp tác giữa nhà nước và tư nhân
(publicprivate partnerships, PPP) thuộc Trường Kinh doanh Harvard (Harvard
Business School) thì “HĐMBĐ (Power Purchase Agreement) là hợp đồng áp
dụng đối với khách hàng lớn để mua điện từ một dự án điện. Đây thường là hợp
đồng quan trọng nhất trong suốt quá trình xây dựng và vận hành dự án điện”.

17


Ở Việt Nam khái niệm hợp đồng mua bán điện (và trong trường hợp sử
dụng tiếng Anh vẫn dùng thuật ngữ Power Purchase Agreement) thường được
hiểu với nghĩa rộng hơn, không chỉ bao gồm các hợp đồng mua bán điện được
kí kết với các chủ đầu tư dự án điện độc lập mà còn dùng cho cả trường hợp

bán buôn điện, bán lẻ điện, xuất nhập khẩu điện như trình bày ở phần dưới
đây về các loại hợp đồng mua bán điện.
Như vậy, HĐMBĐ có thể hiểu là sự hợp đồng được ký kết giữa bên
bán và bên mua, bao gồm các điều khoản và điều kiện mà theo đó việc mua
bán điện được thực hiện. Nội dung chính của hợp đồng mua bán điện bao
gồm: xác định các mốc chính cung cấp điện, các điều khoản hợp đồng; cơ chế
giá, các dịch vụ và quy định thực hiện các nghĩa vụ; quyền điều độ; điều kiện
chấm dứt hợp đồng và vi phạm hợp đồng [14, tr.16].
1.2.2. Phân loại Hợp đồng mua bán điện năng
Hợp đồng mua bán điện rất phong phú, đa dạng trong thực tế. Về mặt
khoa học, người ta có thể phân chia HĐ thành những loại khác nhau, dựa trên
những tiêu chí khác nhau như:
- Dựa trên yếu tố lãnh thổ có thể phân loại Hợp đồng mua bán điện
thành hai loại là Hợp đồng mua bán điện trong nước và Hợp đồng mua bán
điện với nước ngoài.
- Dựa trên các khâu trong quá trình sản xuất và tiêu thụ điện năng, có
thể phân loại hợp đồng mua bán điện thành:
+ Hợp đồng mua điện năng từ các đơn vị phát điện (Power Purchase
Agreement- PPA) Loại hợp đồng này được kí kết giữa đơn vị phát điện và Tập
đoàn Điện lực Việt Nam hoặc các đơn vị phân phối điện trong EVN (tuỳ theo
mức công suất và nguồn nhiên liệu theo phân cấp giữa Tập đoàn và các đơn vị).
+ Hợp đồng bán buôn điện năng: được kí kết giữa EVN và các đơn vị
phân phối điện (bao gồm 5 Tổng công ty phân phối điện - hạch toán độc lập là

18


×