Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Đại diện của cha mẹ cho con chưa thành niên trong giao dịch dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN

ĐẠI DIỆN CỦA CHA MẸ CHO CON CHƢA THÀNH
NIÊN TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN

ĐẠI DIỆN CỦA CHA MẸ CHO CON CHƢA THÀNH
NIÊN TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH

Hà Nội – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết


quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN


BẢNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
TTDS: Tố tụng dân sự
TAND: Tòa án nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC ĐẠI DIỆN CHO CON CHƢA
THÀNH NIÊN TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ .................................................. 7
1.1.

Khái niệm con chƣa thành niên ................................................................... 7

1.2.


Giao dịch dân sự do ngƣời chƣa thành niên xác lập .................................. 11

1.2.1. Giao dịch dân sự ........................................................................................ 11
1.2.2. Cơ sở hình thành giao dịch dân sự của ngƣời chƣa thành niên ................. 18
1.2.3. Các mức năng lực hành vi dân sự của ngƣời chƣa thành niên .................. 19
1.3.

Đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên........................................... 23

1.3.1. Khái niệm đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên.......................... 23
1.3.2. Đặc điểm của chế định đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên...... 26
1.3.3. Ý nghĩa của chế định đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên ........ 29
1.3.4. Phạm vi đại diện......................................................................................... 31
1.3.5. Hậu quả pháp lý trong trƣờng hợp cha mẹ không có thẩm quyền đại diện
hoặc vƣợt quá phạm vi thẩm quyền đại diện ....................................................... 36
CHƢƠNG II
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI DIỆN CỦA CHA MẸ CHO CON CHƢA
THÀNH NIÊN TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN.
.................................................................................................................... 41
2.1. Pháp luật về đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên ....................... 43
2.1.1 Hình thức đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên .......................... 43
2.1.2 Thực hiện quyền đại diện của cha mẹ đối với con chƣa thành niên .......... 46
2.1.3 Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với vai trò đại diện cho con trong giao dịch
dân sự ................................................................................................................. 47
2.2. Nguyên tắc thực hiện quyền đại diện ......................................................... 50
2.2.1. Cha mẹ chỉ xác lập và thực hiện giao dịch trong phạm vi đại diện ........... 50


2.2.2. Thực hiện quyền đại diện trong việc định đoạt tài sản của con phải vì lợi

ích của con và có xem xét nguyện vọng của con từ đủ 9 tuổi. ............................ 52
2.3. Đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên trong một số trƣờng hợp cụ
thể .................................................................................................................... 53
2.3.1. Hợp đồng mua bán tài sản ......................................................................... 53
2.3.2. Hợp đồng tặng cho tài sản ......................................................................... 62
2.3.3. Thừa kế ...................................................................................................... 66
CHƢƠNG III
ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐẠI DIỆN CỦA CHA MẸ BẢO ĐẢM
QUYỀN LỢI CHO CON CHƢA THÀNH NIÊN TRONG QUÁ TRÌNH THAM
GIA GIAO DỊCH DÂN SỰ ................................................................................. 74
3.1 Quy định về thẩm quyền đại diện trong trƣờng hợp cha mẹ không thống
nhất ý kiến ............................................................................................................ 75
3.2

Quy định về thực hiện quyền đại diện của cha mẹ ..................................... 76

3.3

Định đoạt tài sản vì lợi ích của con chƣa thành niên .................................. 78

3.4

Giao dịch của con chƣa thành niên trong việc tặng cho tài sản. ................ 81

3.5

Từ chối nhận di sản đƣợc hƣởng thừa kế của con ...................................... 83

ẾT LUẬN .......................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM HẢO ............................................................. 88



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong quan hệ pháp luật dân sự, đặc biệt là giao dịch dân sự việc xác định
tƣ cách chủ thể và năng lực chủ thể, nhất là của cá nhân có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn quan trọng. Mỗi ngƣời khi sinh ra đều có năng lực pháp luật nhƣ nhau.
Tuy nhiên, năng lực hành vi của mỗi cá nhân còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện,
yếu tố ví dụ nhƣ sức khỏe tâm sinh lý và độ tuổi của cá nhân đó. Theo quy định
của pháp luật Việt Nam, ngƣời từ đủ mƣời tám tuổi trở lên không thuộc các
trƣờng hợp bị mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự, ngƣời có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi là ngƣời có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, còn
những ngƣời ngƣợc lại đó là ngƣời có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ.
Một trong những thành phần có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ đó là
ngƣời chƣa thành niên.
Dƣới góc độ tâm lý và thể chất, ngƣời chƣa thành niên là ngƣời chƣa phát
triển đầy đủ, chƣa hoàn thiện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và tâm sinh lý, do đó
chƣa đủ nhận thức và năng lực để thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo pháp luật
của mình. Vì vậy cần có sự hƣớng dẫn, quan tâm, chăm sóc, bảo vệ của gia đình,
Nhà nƣớc và xã hội để những ngƣời chƣa thành niên đƣợc chăm sóc phát triển
toàn diện và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp chính họ tránh trƣờng hợp bị
lạm dụng.
Để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ngƣời chƣa thành niên khi tham
gia vào các quan hệ dân sự, góp phần bảo đảm sự ổn định pháp lý của các giao
dịch dân sự nói chung và quyền lợi của những ngƣời chƣa thành niên nói riêng

1


thì pháp luật cần thiết và đặt ra nhiều biện pháp để bảo về quyền lợi của ngƣời

chƣa thành niên, đặc biệt là trong việc xác lập, thay đổi, chấm dứt giao dịch dân
sự. Có rất nhiều những quy định trong nƣớc và trên thế giới ra đời để bảo về cho
quyền và lợi ích của họ. Tại lời mở đầu của Công ƣớc Liên Hợp Quốc về quyền
trẻ em năm 1989 xác định rằng gia đình, với ý nghĩa là tế bào xã hội cơ bản và
môi trƣờng tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mọi thành viên, nhất là
trẻ em, cần đƣợc sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết để đảm đƣơng đƣợc đầy đủ trách
nhiệm của mình trong cộng đồng.
Xuất phát từ quan điểm, gia đình là nguồn gốc hình thành nên tính cách của
cá nhân và không ai có thể bảo vệ quyền lợi một cách vô điều kiện và tận tâm
nhất ngoài cha mẹ. Chính vì vậy để bảo đảm cho quyền lợi của ngƣời chƣa thành
niên nói riêng và sự cân bằng ổn định trong xã hội nói chung, pháp luật quy định
về chế định đại diện cho ngƣời chƣa thành niên mà chủ thể có nghĩa vụ trƣớc hết
là bố mẹ. Pháp luật Việt Nam quy định tại khoản 1 Điều 136 BLDS 2015: Cha,
mẹ là ngƣời đại diện theo pháp luật cho con chƣa thành niên.
Bởi các lý do nêu trên, luận văn lựa chọn đề tài “Đại diện của cha mẹ cho
con chƣa thành niên trong giao dịch dân sự” làm đề tài nghiên cứu để nghiên cứu
một cách toàn diện và hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện của
cha mẹ cho con chƣa thành niên trong giao dịch dân sự, xem xét cụ thể các quy
định pháp luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó đƣa ra cái nhìn toàn diện về những
hạn chế, thiếu xót của hệ thống pháp luật và đề xuất một một số giải pháp mang
tính hoàn thiện để phần nào giúp cho quá trình sửa đổi và bổ sung pháp luật Việt
Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu

2


Trên thế giới cũng nhƣ trong nƣớc đã có những quy định đƣợc luật hóa
hoặc thỏa thuận thành quy tắc chung nhƣ: Công ƣớc Liên Hiệp Quốc về quyền
trẻ em năm 1989, chế định đại diện cho con chƣa thành niên trong BLDS các

năm 1995, 2005, 2015, luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và luật trẻ em 2016.
Cũng có nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề năng lực chủ thể của
ngƣời chƣa thành niên, các giao dịch dân sự liên quan đến ngƣời chƣa thành niên
hay quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Một số ví dụ nhƣ: bài viết “Đại diện bề
ngoài nhìn từ góc độ pháp luật dân sự Nhật Bản”, Nguyễn Thị Phƣơng Châm,
Tạp chí luật học số 6/2016; bài viết “Những quy định pháp luật về hạn chế quyền
của cha, mẹ đối với con chƣa thành niên và cá kiến nghị hoàn thiện”, Cao Minh
Vũ, Nguyễn Nhật Khanh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12(340) T6/2017; “bài
viết “Giám hộ và đại diện trong BLDS và tố tụng dân sự” – Ths. Nguyễn Việt
Cƣờng, năm 2010; luận văn thạc sĩ luật học “Năng lực hành vi dân sự của ngƣời
chƣa thành niên” – Nguyễn Thị Hiền, năm 2007; luận văn thạc sĩ luật học
“Quyền và nghĩa vụ của ngƣời chƣa thành niên trong giao dịch dân sự” – Hoàng
Thị Vân Anh, năm 2014; luận văn thạc sĩ “Quan hệ giữa cha mẹ và con trong gia
đình nông thôn hiện nay” – Nguyễn Thị Ánh Tuyết, năm 2009;…Tuy nhiên, vấn
đề đại diện của cha mẹ cho con trong giao dịch dân sự thì lại chƣa nhận đƣợc sự
quan tâm một cách đầy đủ.
Dƣới góc độ đời sống, với sự quan tâm của xã hội về các giao dịch dân sự
liên quan đến ngƣời chƣa thành niên và cách thức thực hiện quyền lợi đối với tài
sản của ngƣời chƣa thành niên đã đƣợc đăng tải ở các trang thông tin, sách báo,
các tạp chí. Chế định này đã đƣợc đƣa ra thảo luận trên các diễn đàn trên trang
dân luật của thƣ viện pháp luật, trang thông tin pháp luật dân sự, báo tuổi trẻ -bài

3


viết “Mẹ có quyền bán tài sản của con chƣa thành niên”, hay trên báo thanh niên
- bài viết “Quyền đại diện cho con” - Luật sƣ Huỳnh Minh Vũ,…
Qua các công trình nghiên cứu cũng nhƣ hệ thống các quy phạm pháp luật
điều chỉnh chế định đại diện của cha mẹ đối với con chƣa thành niên dƣới một
tổng thể sẽ thấy đƣợc mức độ quan tâm của nhà nƣớc và xã hội đối với một thế

hệ trẻ của đất nƣớc góp phần nâng cao nhận thức, hiểu sâu sắc về giá trị của họ,
đồng thời hoàn thiện hơn những chế định nhằm bảo vệ cho ngƣời chƣa thành
niên.
3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của nghiên cứu
Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu đó là nghiên cứu một cách tƣơng đối toàn
diện về chế định đại diện, cụ thể là cha mẹ đại diện cho con chƣa thành niên.
Tìm hiểu một số khía cạnh cụ thể trong hoạt động thực tiễn. Những việc cha mẹ
đại diện cho con thực hiện nhằm bảo đảm quyền lợi cho con, từ đó đƣa ra đƣợc
những bất cập và hạn chế trong việc thực hiện, nêu ra phƣơng hƣớng, đề xuất
nhằm hoàn thiện hệ thống quy phạm đại diện đối với ngƣời chƣa thành niên.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là:
- Nêu ra đƣợc các lý luận và cơ sở của lý luận, các khái niệm về ngƣời chƣa
thành niên, giao dịch của con chƣa thành niên và đại diện cho con chƣa thành
niên.
- Phân tích chi tiết một số các giao dịch liên quan đến tài sản của con chƣa
thành niên và việc đại diện cho con tham gia vào các giao dịch đó dƣới góc độ lý
luận và thực tiễn.

4


- Đánh giá thực trạng và việc áp dụng chế định đó của pháp luật dân sự Việt
Nam và đƣa ra phƣơng hƣớng, đề xuất.
4. Phạm vi nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu cần tập trung vào các giao dịch của cha
mẹvới tƣ cách là đại diện cho con chƣa thành niên và những quy định của pháp
luật điều chỉnh quan hệ đó tại các BLDS năm 2005, 2015, luật hôn nhân và gia
đình năm 2014, Bộ luật lao động, Luật trẻ em và các văn bản dƣới luật khác quy
định về việc đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu dựa theo phƣơng pháp cốt lõi – phƣơng pháp luận duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và pháp luật. Bên cạnh đó, vận dung phƣơng pháp
so sánh, đối chiếu, tổng hợp để phân tích và bình luận nội dung của một số chế
định.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của đề tài gồm 3 chƣơng sau đây:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về việc đại diện cho con chƣa thành niên
trong giao dịch dân sự.
Chƣơng 2. Pháp luật Việt Nam về đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành
niên trong giao dịch dân sự và thực hiễn thực hiện.

5


Chƣơng 3. Đề xuất hoàn thiện cơ chế đại diện bảo đảm quyền lợi cho con
chƣa thành niên trong quá trình tham gia giao dịch dân sự.

6


CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC ĐẠI DIỆN CHO CON CHƢA
THÀNH NIÊN TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
1.1. Khái niệm con chƣa thành niên
Trong bất cứ một quan hệ pháp luật nào thì chủ thể luôn là yếu tố quan
trọng để hình thành nên một quan hệ pháp luật. Chủ thể của quan hệ pháp luật
dân sự bao gồm: Cá nhân (công dân nƣớc sở tại, ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời không
quốc tịch), pháp nhân và trong nhiều trƣờng hợp Nhà nƣớc tham gia với tƣ cách

là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự.
Dƣới góc độ khoa học pháp lý, cá nhân, pháp nhân đáp ứng đƣợc các điều
kiện nhất định theo quy định của pháp luật là chủ thể của quan hệ pháp luật dân
sự. Tức là để tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, cá nhân, tổ chức
phải có đủ tƣ cách chủ thể. Tƣ cách chủ thể của cá nhân đƣợc thể hiện dƣới hai
yếu tố: Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân chính là cơ sở pháp lý và khả năng để cá nhân có quyền
và nghĩa vụ dân sự. Mỗi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự nhƣ nhau
đƣợc tính từ lúc cá nhân đó sinh ra cho đến khi chết. Năng lực hành vi hành vi
của dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập,
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Nhƣ vậy năng lực hành vi dân sự chính là khả
năng để cá nhân tiến hành các hành vi nhằm thực hiện năng lực pháp luật của
mình.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là ngƣời thành niên có độ
tuổi từ đủ mƣời tám tuổi trở lên còn ngƣời chƣa thành niên là ngƣời chƣa đủ

7


mƣời tám tuổi1. Nhƣ vậy, thông qua giới hạn về độ tuổi mà khoa học luật dân sự
chia cá nhân thành ngƣời thành niên và ngƣời chƣa thành niên. Ngƣời từ đủ
mƣời tám tuổi trở lên không thuộc các trƣờng hợp bị mất, hạn chế năng lực hành
vi dân sự, ngƣời có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là ngƣời có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ, có thể thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của
mình theo quy định của pháp luật, còn những ngƣời ngƣợc lại đó là ngƣời có
năng lực hành vi dân sự không đầy đủ. Một trong những thành phần có năng lực
hành vi dân sự không đầy đủ đó là ngƣời chƣa thành niên.
Cũng giống nhƣ các đối tƣợng khác quan hệ pháp luật, ngƣời chƣa thành
niên có năng lực pháp luật bình đẳng nhƣ mọi cá nhân. Tuy nhiên, khi tham gia
vào các giao dịch dân sự, năng lực hành vi của ngƣời chƣa thành niên lại không

đƣợc đánh giá ngang bằng với các đối tƣợng khác, thậm chí là có sự khác nhau
trong chính độ tuổi chƣa thành niên. Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu khoa học
dƣới nhiều góc độ mà một số văn bản pháp lý, công ƣớc, điều ƣớc quốc tế về trẻ
em đều ghi nhận trẻ em là một ngƣời có độ tuổi dƣới 18, trừ khi luật pháp ở từng
quốc gia cụ thể quy định tuổi thành niên sớm hơn. Cụ thể, trong các văn bản
quốc tế và các chƣơng trình của liên hiệp quốc (sau đây gọi tắt là LHQ) sử dụng
đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và ngƣời chƣa thành niên. Ví dụ, điều 1 Công
ƣớc của LHQ về quyền trẻ em (United Nations Convention on the rights of the
child, CRC) năm 1989 quy định rằng trong phạm vi của CRC, trẻ em có nghĩa là
mọi ngƣời dƣới 18 tuổi, trừ trƣờng hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định
tuổi thành niên sớm hơn; và tại điều 2 trong Công ƣớc số 182 (Công ƣớc nghiêm
cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất),
năm 1999 đã quy định thuật ngữ trẻ em sẽ áp dụng cho tất cả những ngƣời dƣới
1

Khoản 1 Điều 20 và Khoản 2 Điều 21 BLDS 2015

8


18 tuổi. Nhƣ vậy, đã gần 30 năm từ ngày Việt Nam chính thức trở thành nƣớc
đầu tiên ở châu Á và nƣớc thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ƣớc quốc tế về
Quyền trẻ em, đến nay Việt Nam lại là nƣớc còn lại duy nhất trong khối các quốc
gia ASEAN, thứ 4 ở châu Á và thứ 11 trên thế giới chƣa nâng độ tuổi pháp lý
của trẻ em lên 18 tuổi2. Bên cạnh đó Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo
vệ ngƣời chƣa thành niên bị tƣớc tự do, năm 1990 cũng xác định ngƣời chƣa
thành niên là ngƣời dƣới 18 tuổi3.
Tùy thuộc vào sự pháp triển tâm sinh lý và nhận thức của từng khu vực mà
pháp luật của các quốc gia có sự quy định khác nhau về độ tuổi của ngƣời chƣa
thành niên. Ví dụ nhƣ Thái Lan là dƣới 20 tuổi, Cộng hòa Liên bang Nga là dƣới

18 tuổi, nƣớc Anh là dƣới 16 tuổi. Tại Việt Nam, độ tuổi chƣa thành niên đƣợc
quy định thống nhất trong các văn bản từ trƣớc đến nay là dƣới 18 tuổi. Tuy
nhiên việc phân nhóm đối tƣợng dƣới 18 tuổi chỉ mang ý nghĩa tƣơng đối vì trên
thực tế chúng ta không thể tìm ra đƣợc một sự đồng nhất hoàn toàn giữa các lớp
lứa tuổi khác nhau trong nhóm chƣa thành niên. Do đó, mỗi ngành luật lại quy
định về ngƣời chƣa thành niên ở cách nhóm tuổi khác nhau phù hợp với đối
tƣợng điều chỉnh riêng:
Theo Luật trẻ em 2016 quy định thì trẻ em là ngƣời dƣới 16 tuổi4. Nhƣ
vậy, quy định về tuổi trẻ em trong Luật trẻ em đã có độ vênh tới 2 tuổi so với
Công ƣớc Quốc tế về Quyền trẻ em.

2

Lê Văn Bính và Trƣơng Thành Trung, Quyền của trẻ em có bố mẹ là người nước ngoài trong pháp luật quốc tế
và pháp luật Việt Nam. Sách tham khảo “Quyền của ngƣời nƣớc ngoài”. Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Thị Quế
Anh, PGS.TS. Vũ Công Giao, TS Ngô Minh Hƣơng và TS. Lã hánh Tùng. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự
thật, 2018, tr.231-250.
3
Điểm a, Quy tắc 11 – các quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp quốc về bảo vệ ngƣời chƣa thành niên bị tƣớc
tự do, năm 1990
4
Điều 1 Luật trẻ em 2016

9


Theo Luật Thanh niên năm 2005 quy định: Thanh niên quy định trong
Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi5.
BLDS 2015 lại quy định: Ngƣời thành niên là ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên.
Ngƣời chƣa đủ 18 tuổi là ngƣời chƣa thành niên. Với quy định này, có thể hiểu

rằng, ngƣời chƣa đủ 18 tuổi là ngƣời chƣa trƣởng thành, tức cũng có nghĩa là
ngƣời chƣa đủ 18 tuổi vẫn còn là trẻ em.
Luật Lao động năm 2012 quy định về ngƣời lao động nhƣ sau: Ngƣời lao
động là ngƣời từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp
đồng lao động, đƣợc trả lƣơng và chịu sự quản lý, điều hành của ngƣời sử dụng
lao động6.
Tóm lại, khái niệm ngƣời chƣa thành niên đƣợc xây dựng dựa trên sự phát
triển về mặt thể chất và tinh thần của con ngƣời và đƣợc cụ thể hoá bằng giới
hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, ngƣời ta quy
định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của ngƣời chƣa thành niên.
Con chƣa thành niên là khái niệm đƣợc nhắc đến trong ngành luật hôn nhân
và gia đình có nghĩa hẹp hơn khái niệm ngƣời chƣa thành niên, tuy nhiên chƣa
có văn bản pháp luật nào định nghĩa khái niệm này. Con chƣa thành niên bản
chất chính là ngƣời chƣa thành niên đặt trong mối quan hệ với cha mẹ hoặc với
những ngƣời thân trong gia đình nhƣ: cha mẹ nuôi, cha dƣợng, mẹ kế, anh chị
em ruột, ông bà nội, ông bà ngoại, …), ngƣời giám hộ (trong trƣờng hợp con
chƣa thành niên có ngƣời giám hộ theo quy định của pháp luật).

5
6

Điều 1 Luật thanh niên 2005
Khoản 1 Điều 3 Bộ luật lao động 2012

10


Nhƣ vậy, về khái niệm: Con chƣa thành niên là ngƣời dƣới 18 tuổi, chƣa
phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chƣa có đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ pháp lý nhƣ ngƣời đã thành niên và đƣợc đặt trong mối quan hệ với những

ngƣời thân trong gia đình.
1.2. Giao dịch dân sự do ngƣời chƣa thành niên xác lập
1.2.1. Giao dịch dân sự
Xã hội phát triển theo nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần cùng với đó
sự phân công lao động rõ rệt dẫn tới tăng mạnh về khối lƣợng hàng hóa. Đời
sống xã hội tăng dẫn tới nhu cầu của con ngƣời ngày càng tăng. Do vậy, các chủ
thể phải tham gia các giao dịch dân sự khác nhau. Giao dịch dân sự xuất hiện với
vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ góp phần giúp con ngƣời thỏa mãn nhu
cầu vật chất, tinh thần mà còn góp phần khuyến khích, đẩy mạnh sản xuất phát
triển. Việc tham gia vào giao dịch dân sự nào là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí
của mỗi chủ thể. Tuy nhiên, ý chí của chủ thể không đƣợc trái với ý chí của nhà
nƣớc. Ý chí đó chỉ trở thành hiện thực nếu đƣợc pháp luật ghi nhận. Trong pháp
luật dân sự Việt Nam, giao dịch dân sự là một chế định đóng vai trò quan trọng.
BLDS 2015 đã có những quy định cụ thể về giao dịch dân sự nói chung và điều
kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự nói riêng.
Tại Điều 116 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng
hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự”.
Có rất nhiều căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự: hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phƣơng, thực hiện một công việc không có ủy
quyền, gây thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật hay quyết định của một cơ

11


quan nhà nƣớc có thẩm quyền, … trong đó giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến,
thông dụng nhất. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý chứa đựng hành vi
pháp lý. Hành vi pháp lý là một sự thể hiện ý chí nhằm làm phát sinh ra một hậu
quả pháp lý, có nghĩa là làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một quyền lợi hay
nghĩa vụ. Sự thể hiện ý chí có thể là đơn phƣơng (nhƣ lập di chúc, thiết lập một

công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, đơn phƣơng chấm dứt một hợp
đồng, đề nghị giao kết hợp đồng, xác nhận lại một hợp đồng vô hiệu, …), hoặc
có thể là đa phƣơng, hay còn gọi là sự thống nhất ý chí, có nghĩa là sự thỏa
thuận, mà sự thỏa thuận có mục đích xác lập, thay đổi, chấm dứt một quyền lợi
gọi là hợp đồng.
Xem xét dƣới phƣơng diện khách quan thì hợp đồng là do các quy phạm
pháp luật của Nhà nƣớc ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Theo
phƣơng diện chủ quan, hợp đồng là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự
trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Theo phƣơng diện này, hợp đồng vừa
đƣợc xem xét dƣới dạng cụ thể vừa đƣợc xem xét ở dạng khái quát. Nếu định
nghĩa đƣới dạng cụ thể thì “hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 385 BLDS 2015).
Nhƣ vậy, hợp đồng thƣờng đƣợc định nghĩa là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều
ngƣời nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền lợi (có nghĩa là nhằm làm phát
sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật hoặc quyền và nghĩa vụ giữa các
bên). Chính vì vậy, hợp đồng thật sự là luật giữa các bên. Khi giao kết hợp đồng,
các bên biểu lộ và thống nhất ý chí về một đối tƣợng cụ thể nào đó. Mặc dù trong
sự thỏa thuận đó, có thể họ không bày tỏ rõ các quy tắc xử sự, không tuyên bố

12


thu hẹp quyền tự do của mình cho lợi ích của ngƣời khác, hoặc không tuyên bố
tự cấm mình vi phạm hay tự cấm mình phớt lờ lời hứa đó, nhƣng với nhận thức
của một con ngƣời bình thƣờng ai ai cũng nhận thấy cần phải tôn trọng lời hứa,
nên phải xử sự thích hợp với lời hứa của mình và khi vi phạm cam kết hay lời
hứa thì việc phải gánh chịu một chế tài là hợp lẽ phải và thích đáng. Điều đó có
nghĩa là khi giao kết hợp đồng, các bên đã ngầm chấp nhận những lẽ thông

thƣờng đó. Có thể các lẽ thông thƣờng này đƣợc ghi nhận trong pháp luật hoặc
trong tập quán.7
Hành vi pháp lý đơn phƣơng (còn gọi là giao dịch dân sự một chiều). Hành
vi pháp lý đơn phƣơng thể hiện ý chí của một bên chủ thể, do vậy hành vi pháp
lý đơn phƣơng không là hợp đồng. Ví dụ nhƣ cá nhân thể hiện ý chí trong việc
lập di chúc để lại tài sản cho ngƣời thừa kế đƣợc chỉ định theo ý chí của mình, ủy
quyền một bên hay thực hiện một công việc không có ủy quyền, .... Căn cứ vào
quy định và logic học thì mọi hợp đồng là giao dịch dân sự là nhƣng mọi giao
dịch dân sự không phải là hợp đồng vì bên cạnh đó còn hành vi pháp lý đơn
phƣơng. Cùng với đó, không phải mọi hành vi pháp lý đơn phƣơng là giao dịch
dân sự. Hành vi pháp lý đơn phƣơng để trở thành giao dịch dân sự thì hành vi đó
phải đƣợc tiến hành nhằm làm phát sinh một quyền hay nghĩa vụ dân sự của chủ
thể đƣợc xác định. Còn hành vi pháp lý đơn phƣơng đƣợc tiến hành không nhằm
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự ở chủ thể đƣợc xác định thì hành vi pháp lý
đơn phƣơng này không phải là giao dịch dân sự (ví dụ: chủ sở hữu từ bỏ quyền
sở hữu của mình đối với tài sản)8. Trong nhiều trƣờng hợp hành vi pháp lý đơn
phƣơng chỉ phát sinh hậu quả pháp lý khi có những điều kiện nhất định do ngƣời
7

Ngô Huy Cƣơng, Giáo trình Luật hợp đồng (phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013, tr.17
Nguyễn Văn Cừ -Trần Thị Huệ (đồng chủ biên), Bình luận khoa học BLDS 2015, NXB Công an nhân dân, năm
2017, tr.230
8

13


xác lập giao dịch đƣa ra cho ngƣời khác. Những ngƣời này phải đáp ứng đƣợc
những điều kiện đó mới làm phát sinh nghĩa vụ của ngƣời xác lập giao dịch dân
sự. Chẳng hạn nhƣ: Một nhà kinh doanh tuyên bố rằng anh ta sẽ chi trả toàn bộ

tiền ăn trƣa cho tất cả những ngƣời tham gia hội thảo với điều kiện những ngƣời
đó phải là học sinh, sinh viên.
Nhƣ nội dung và quy định tại điều luật trên thì giao dịch dân sự là “phƣơng
tiện pháp lý” để các chủ thể của pháp luật dân sự xác lập, thực hiện các quyền
dân sự, nghĩa vụ dân sự nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất trong sinh hoạt, tiêu
dùng hoặc sản xuất, kinh doanh nên giao dịch dân sự luôn là hoạt động có ý thức
của chủ thể. Giao dịch dân sự là hành vi có ý thức của chủ thể, phản ánh ý chí và
sự mong muốn của chủ thể cùng với những mục đích và động cơ nhằm thu đƣợc
một kết quả nhất định và pháp luật tạo điều kiện cho kết quả đó trở thành hiện
thực. Trong một chừng mực nhất định, có thể hiểu ý chí của chủ thể đƣợc thể
hiện trong động cơ khi chủ thể xác lập giao dịch dân sự.
Trong thực tế, mục đích của giao dịch dân sự không hoàn toàn đồng nghĩa
với động cơ của chủ thể khi xác lập giao dịch dân sự. Động cơ xác lập giao dịch
dân sự là yếu tố có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy các chủ thể xác lập các giao dịch
nhằm mục đích thỏa mãn các nhu cầu của chủ thể đó, còn mục đích là mục tiêu
mà chủ thể hƣớng tới, mong muốn đạt đƣợc. Có thể xem động cơ nhƣ là một
“tiền đề” cần thiết để các chủ thể xác lập với nhau một quan hệ dân sự. Nhƣng
nếu trong quá trình cam kết, thỏa thuận mục đích của một trong các bên tham gia
không đạt đƣợc thì giao dịch dân sự sẽ không đƣợc xác lập. Động cơ và mục
đích của các chủ thể trong quá trình xác lập giao dịch dân sự có thể đƣợc xem là
yếu tố “cần và đủ” nhƣng luôn hòa quyện thành một khi thỏa thuận để xác lập

14


giao dịch dân sự. Phân biệt thành động cơ và mục đích đối với mỗi chủ thể chỉ
có tính chất tƣơng đối và có ý nghĩa trong những trƣờng hợp nhất định.9
Khi tham gia một giao dịch dân sự cụ thể, ý chí (thƣờng đƣợc thể hiện là
động cơ) của chủ thể bao giờ cũng phải thể hiện ra bên ngoài dƣới một hình thức
phù hợp nhất định để phía bên kia có thể nhận biết và hiểu đƣợc ý chí đó. Đối

với chủ thể bên kia, ý chí cũng phải đƣợc thể hiện dƣới một hình thức thích hợp
để các bên trong quan hệ dân sự có thể hiểu nhau. Trên cơ sở đó, các chủ thể mới
có thể thỏa thuận và thống nhất ý chí với nhau. Giao dịch dân sự chỉ đƣợc coi là
đã đƣợc xác lập khi các bên trong giao dịch dân sự đã thống nhất ý chí với nhau.
Nói một cách khác nếu các bên không đạt đƣợc sự thống nhất ý chí về quyền dân
sự và nghĩa vụ dân sự đối với nhau thì giao dịch dân sự cũng không thể đƣợc xác
lập. Trong giao dịch dân sự tiêu chí về “ý chí” của chủ thể có ý nghĩa rất quan
trọng. Trong nhiều trƣờng hợp nó còn là cơ sở để xác định quyền dân sự và
nghĩa vụ dân sự của từng chủ thể trong quan hệ dân sự đó.
Tuy nhiên, giao dịch không nhất thiết luôn tạo ra quyền và nghĩa vụ. Có
những trƣờng hợp ý chí đƣợc bày tỏ theo quy định của pháp luật, nhƣng không
tạo ra một quyền hay nghĩa vụ nào. Chẳng hạn, một ngƣời từ chối nhận di sản
theo Điều 620 BLDS 2015 rõ ràng đã thực hiện một giao dịch dân sự, đúng hơn
là một hành vi pháp lý đơn phƣơng. Nhƣng việc từ chối không tạo ra một quyền
hay một nghĩa vụ nào cho ngƣời này mà chỉ đơn giản khiến ngƣời này trở thành
ngƣời ngoài cuộc trong quan hệ thừa kế.10

9

Đinh Văn Thanh (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (quyển 1), Viện đại học Mở Hà Nội, NXB Giáo
dục Việt Nam, năm 2015, tr. 291
10
Nguyễn Ngọc Điện (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập 1), Khoa Luật Viện đại học Mở thành phố
Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, năm 2016, tr. 102

15


Bên cạnh đó cũng cần phải thấy rằng, khi mong muốn xác lập với nhau một
giao dịch dân sự không có chủ thể nào lại không nhằm đạt đƣợc một mục đích

nhất định. Mục đích của giao dịch có thể xem là hệ quả của quá trình chủ thể
thực hiện động cơ. Vì vậy, mục đích là yếu tố không thể thiếu trong giao dịch
dân sự. Điều này còn có ý nghĩa quan trọng nếu trong quá trình thực hiện những
quyền và nghĩa cụ pháp lý phát sinh từ giao dịch dân sự cụ thể mà có tranh chấp
thì các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền phải căn cứ vào ý muốn đích thực của
các bên để xác định quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự cụ thể trong từng giao dịch
đó hoặc khi phải giải thích giao dịch dân sự.
Để đạt đƣợc mục đích, động cơ cần phải đƣợc thực hiện bằng hành vi. Điều
kiện để hành vi đƣợc coi là sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
giao dịch dân sự đó là sự bày tỏ ý chí của chủ thể. Ý chí là khả năng xác định
mục đích hành động và định hƣớng cho hành động đó để đạt đƣợc mục đích đã
xác định trƣớc. Ý chí đƣợc biểu hiện ra bên ngoài phải là ý chí hoàn toàn tự
nguyện, tự giác thì mới là cơ sở là phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt giao dịch
dân sự. Chủ thể giao dịch dân sự khi tiến hành bất cứ hành vi nào nhằm làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một giao dịch dân sự đều mong muốn đạt đƣợc một
hậu quả pháp lý nhất định (hƣởng một quyền lợi nhất định đồng thời gánh vác
một nghĩa vụ tƣơng xứng; thay đổi hay kết thúc các quyền và nghĩa vụ đang tồn
tại). Để thu đƣợc lợi ích theo mong muốn, các chủ thể cần biểu hiện ý chí ra bên
ngoài. Biểu hiện khách quan của ý chí ra bên ngoài nhằm làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt một giao dịch dân sự đƣợc gọi là sự thể hiện ý chí.
Nhƣ vậy, sự thể hiện ý chí đó phải thỏa mãn hai điều kiện. Một là, ý chí của
chủ thể phải là ý chí xác định đƣợc cho chủ thể đó mục đích hành động rõ ràng
(đó là làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất

16


định). Hai là, ý chí của chủ thể phải đƣợc biểu hiện ra bên ngoài bằng cách nào
đó (thông qua lời nói, chữ viết hay một hành động cụ thể) để những ngƣời xung
quanh có thể hiểu đƣợc). Các chủ thể tham gia phải có sự thống nhất giữa ý chí

và bày tỏ ý chí ra bên ngoài (yếu tố không thể thiếu). Nếu một giao dịch dân sự
thiếu sự thống nhất giữa ý chí hay bày tỏ ý chí ra bên ngoài thì có thể bị tuyên bố
vô hiệu. Đối với hợp đồng, sự bày tỏ ý chí của các chủ thể mà thiếu đi sự thống
nhất ý chí thì giao dịch dân sự đó cũng có thể bị tuyên bố vô hiệu. Đối với hành
vi pháp lý đơn phƣơng thì chỉ cần sự thể hiện ý chí của một bên, không cần sự
thống nhất ý chí giữa các bên tham gia nhƣ ở hợp đồng.
Nếu hành vi của chủ thể quan hệ pháp luật dân sự không phù hợp với pháp
luật, đạo đức xã hội thì đƣơng nhiên hành vi này sẽ không đƣợc Nhà nƣớc bảo
vệ và thừa nhận dẫn đến không thể phát sinh hậu quả pháp lý mà chủ thể đó
mong muốn đạt đƣợc.
Nhìn chung, giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phƣơng hay hợp đồng
đều có những đặc điểm sau: Là hành vi pháp lý; giao dịch dân sự đƣợc thực hiện
bởi hành vi hợp pháp thể hiện ý chí của chủ thể quan hệ pháp luật dân sự nhằm
đạt đƣợc một kết quả nhất định; có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của
chủ thể tham gia giao dịch dân sự; không vi phạm điều cấm của pháp luật và
không trái đạo đức xã hội; các giao dịch dân sự mang tính xác thực và có tính
khả thi; chế tài trong giao dịch dân sự mang tính chất bắt buộc nhƣng cũng rất
linh hoạt; hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự là làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả không đi sâu vào nghiên
cứu giao dịch dân sự mà tập trung khai thác các vấn đề liên quan đến giao dịch

17


dân sự của con chƣa thành niên mà có sự đại diện của cha mẹ, do vậy luận văn
chỉ nêu mà không đi sâu vào làm rõ đặc điểm của giao dịch dân sự nói chung.
1.2.2. Cơ sở hình thành giao dịch dân sự của ngƣời chƣa thành niên
Quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội đƣợc các quy phạm pháp luật
điều chỉnh. Trong hệ thống pháp luật, mỗi ngành luật điều chỉnh một nhóm quan

hệ khác nhau. Quan hệ pháp luật dân sự là một dạng quan hệ pháp luật, vì vậy nó
mang đầy đủ đặc tính của quan hệ pháp luật về bản chất xã hội, bản chất pháp lý,
tính cƣỡng chế nhà nƣớc.
Các yếu tố cấu thành nên một quan hệ pháp luật dân sự đó là: chủ thể tham
gia vào các quan hệ, đối tƣợng mà các chủ thể hƣớng tới khi tham gia vào quan
hệ pháp luật dân sự và đƣợc nhà nƣớc bảo vệ, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự đó.
Với tƣ cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, ngƣời chƣa thành niên
cũng có những nhu cầu cần thực hiện trong đời sống hàng ngày nhƣ ăn uống,
sinh hoạt, học tập, lao động, rèn luyện, … Để thực hiện các nhu cầu đó, ngƣời
chƣa thành niên cũng phải tham gia vào các quan hệ xã hội và tƣơng tác với các
chủ thể khác để mua bán, trao đổi, tặng cho nhằm đạt đƣợc mục đích sinh hoạt
hàng ngày. Do sự tác động của các quy phạm pháp luật lên các quan hệ xã hội
nên khi tham gia vào các quan hệ đó ngƣời chƣa thành niên có các quyền và
nghĩa vụ pháp lý tƣơng ứng. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý này đƣợc nhà nƣớc
bảo đảm thực hiện.
Điểm đặc trƣng của một quan hệ pháp luật dân sự là địa vị pháp lý của các
chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng, không phụ thuộc vào các yếu tố xã hội khác và
lợi ích (trƣớc tiên là lợi ích kinh tế) là tiền đề trong phần lớn các quan hệ dân sự.

18


Tuy nhiên, ngƣời chƣa thành niên với tƣ cách là chủ thể khi tham gia vào quan
hệ pháp luật dân sự luôn là bên yếu thế hơn. Bởi họ là những ngƣời chƣa đủ
năng lực hành vi dân sự, còn hạn chế về nhận thức nên dễ bị lợi dụng. Chính vì
vậy cần có ngƣời đứng ra bảo vệ cho ngƣời chƣa thành niên, thay họ tham gia
vào các giao dịch dân sự để bảo vệ lợi ích của chính những ngƣời chƣa thành
niên đó, và đây là lúc chế định đại diện phát huy vai trò.
Đối với những ngƣời đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

Họ có thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, bằng hành vi của
chính mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Còn những ngƣời chƣa đủ
18 tuổi, việc tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự đƣợc thực hiện thông
qua ngƣời đại diện của họ là cha mẹ. Pháp luật phân năng lực hành vi dân sự của
ngƣời chƣa thành niên thành các mức khác nhau. Tùy vào độ tuổi để xác định
đƣợc quyền và nghĩa vụ của ngƣời chƣa thành niên cũng nhƣ phạm vi đại diện
của cha mẹ cho con chƣa thành niên khi tham gia giao dịch dân sự. Nội dung các
mức năng lực hành vi dân sự của ngƣời chƣa thành niên đƣợc trình bày cụ thể
dƣới đây.
1.2.3. Các mức năng lực hành vi dân sự của ngƣời chƣa thành niên
* Căn cứ xác định các mức năng lực hành vi dân sự của người chưa thành
niên
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là bình đẳng, bởi vì pháp luật quy
định khả năng hƣởng quyền dân sự cho các cá nhân là nhƣ nhau không phân biệt
giới tính, độ tuổi, thành phần, …Cùng với năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là bộ phận cấu thành năng lực chủ thể
của cá nhân. Tuy nhiên, ngƣợc lại năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, năng

19


×