Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Nghiên cứu vấn đề đại diện theo pháp luật: đại diên cho người chưa thành niên, đại diện theo pháp luật của một pháp nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.78 KB, 11 trang )

ĐẠI DIỆN TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
Lời cảm ơn
Tôi xin cảm ơn cha mẹ tôi, bạn bè cùng lớp đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình
học tập, xin cám ơn tập thể lớp k50 B một tập thể học tốt , chia sẻ , giúp đỡ tôi hoàn
thành bài viết này. Xin cám ơn thầy Ngô Huy Cương người đã tạo hứng thú và niềm
say mê học hỏi nghiên cứu cho chúng tôi.
Phạm vi bài viết
Bài viết không chủ đích làm rõ tất cả các vấn đề về đại diện mà chỉ đi sâu vào làm rõ vấn
đề đại diện theo uỷ quyền. Việc giao kết, xác lập, thực hịên hợp đồng của người uỷ quyền
và người đại diện. Bài viết đi vào làm rõ quan hệ đại diện trong giao kết hợp đồng thì nó sẽ
phát sinh những hậu quả pháp lý gì, trách nhiệm của các bên liên quan ra sao. Bài viết cũng
giúp người ta hiểu được địa vị pháp lý của mình là ở đâu trong quan hệ đại diện. Bài viết
không nghiên cứu vấn đề đại diện theo pháp luật: đại diên cho người chưa thành niên, đại
diện theo pháp luật của một pháp nhân.
1. Đặt vấn đề
2 .Nguồn gốc
3. Khái niệm ,bản chất
3.1. Khái niệm
3.2. Bản chất
3.2.1.Tự do ý chí
3.2.2. Sự tin cậy
3.2.3. Sự miễn cưỡng
3.3. Sự hữu hiệu của đại diện
3.3.1.Nguời đại diện có quyền đạidiện
3.3.2. Người đại diện có ý chí đại diện
3.3.3.Người đại diện có ý chí giao kết hợp đồng
3.4. Đặc điểm của đại diện
3.4.1 .Người đại diện hành động với tư cách của người được đại diện
3.4.2. Hành động vì lợi ích của người được đại diên
3.4.3. Hành động trong phạm vi uỷ quyền
3.4.3.1.Phạm vi uỷ quyền


3.4.3.2.Xung đột lợi ích
4.Xác lập và chấm dứt đại diện trong giao kết hợp đồng
4.1.Xác lập
4.2. Chấm dứt
5. Nghĩa vụ hành động một cách cẩn trọng của người đại diên
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
7 .Kết luân
1. Đặt vấn đề
Thử đặt ra một câu hỏi với bạn rằng:bạn đã bao giờ thay mặt cha, mẹ, bạn của bạn làm một
việc như: mua một cái áo, một con gà hay một quyển sách……? Nếu bạn đã từng làm một
việc tương tự như vậy tại sao bạn không tự hỏi mình là mình đã tham gia vào những quan
hệ pháp lý gì? Tại sao bạn lại có thể thay mặt được cho một người khác? Khi thay mặt cho
một người thi bạn được làm và không được làm những gì? Khi bạn làm trái những gì mà
người khác giao cho bạn thì bạn có trách nhiệm gì không?….Tôi cam đoan rằng trong số
các bạn chưa ai từng đặt ra câu hỏi cho mình như vậy. Trong một xã hội ngày càng phát
triển thì người ta phải tham gia vào nhiều quan hệ hơn, phức tạp hơn, nhiều khi và rất
thường xuyên trong số đó trao cho người khác quyền thay mặt mình tham gia và những
quan hệ đó. Và tại sao chúng ta không tìm hiểu vấn đề này nhỉ.
2. Nguồn gốc
Mỗi con người trong cuộc sống đều tham gia vào các mối quan hệ trong xã hội:hôn nhân,
gia đình, làng xóm, có bạn bè, quan hệ làm ăn buôn bán, tất cả các nhu cầu cần thiết của
một cá nhân đều được trao đổi…Họ có thể tự mình tham gia vào những mối quan hệ đó
nhưng một người khác cũng có thể thay mặt họ(vì những lý do mà người đó không tự mình
tham gia được), những người thay mặt người khác là người đại diện. Trong luật La Mã,
ngay cả trong những giai đoạn phát triển đã tồn tại một quy tắc mà theo đó hợp đồng phải
do chính cá nhân ký kết: “ai không tham gia vào quan hệ trách nhiệm thì trách nhiệm
không ảnh hưởng tới người đó”( 1) . Luật La Mã vào thời kỳ phát triển nhất chưa có việc
một người đại diện cho người khác ký kết một hợp đồng( 2 ). Nhưng những mầm mống
đầu tiên của khái niệm đại diện đã xuất hiên trong việc: “Những người phụ thuộc gia chủ
không bao giờ có thể làm đại diện. Gia chủ có quyền hạn và trách nhiệm từ những hợp

đồng do họ ký kết không phụ thuộc vào ý chí gia chủ có như thế hay không, vì điều kiện
cần thiết của quyền đại diện là ý chí của người uỷ quyền và tất cả do người uỷ quyền.
Trách nhiệm từ những hợp đồng này trước hết thuộc về người ký, còn gia chủ chỉ nhận
một phần trách nhiệm mà thôi. Người đại diện không có quyền hạn và nghĩa vụ từ hợp
đồng đã ký” 3 . Cùng với sự lớn mạnh của kinh tế giao thương thì việc đại diện trong ký
kết hợp đồng đã được cho phép. Xã hội càng phát triển thì việc đại diện càng quan trọng và
có ý nghĩa to lớn thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển và đại diện cũng là một thước đo đánh
giá sự phát triển của một xã hội. Bởi vậy ta cùng đi làm rõ nó.
3. Khái niệm đại diện, bản chất.
3.1. Khái niệm.
Trong các BLDS lớn người viết hầu như không thấy có khái niệm đại diện nhưng thông
qua các quy phạm trong các điều luật về phần hợp đồng uỷ quyền ta vẫn có thể hiểu được
đại diện là gì.Tại điều 389-3 BLDS Pháp:”người quản lý theo pháp luật đối với tài sản của
người chưa thành niên đại diện cho người chưa thành niên trong mọi giao dịch dân sự…”
hay tại điều 1984 về hợp đồng uỷ quyền “hợp đồng uỷ quyền là hợp đồng trong đó một
người trao cho người khác quyền thực hiên một công việc nhân danh và vì lợi ích của
người uỷ quyền”(4). Ở nước bạn Thái Lan gần gũi với chúng ta cũng không tìm thấy khái
niệm đại diện mà nó chỉ thể hiện qua hợp đồng uỷ quyền, BLDS Thái Lan 1995 NXBCT
“hợp đồng uỷ quyền là một hợp đồng mà trong đó một người gọi là người thụ uỷ được
quyền hành động cho một người khác gọi là người chủ uỷ và người đó chấp thuận làm như
vậy” 5 . Unidroit trong bộ các nguyên tắc cơ bản về hợp đồng thương mại quốc tế “mục
này điều chỉnh quyền của một người ở địa vị của một người khác trong việc làm phát sinh
một hậu quả liên quan tới việc ký kết và thực hiện hợp đồng” 6 . BLDS Việt Nam cấu tạo
đặc biệt gồm hai phần, phần chung nêu những khái niệm và nguyên tắc cơ bản …trong đó
có khái niệm đại diện. Trong BLDS 2005 của Việt Nam “ đại diên là việc một người (sau
đây là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây là người được đại
diện) xác lập và thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. (7).
Từ những khái niệm trên ta có thể rút ra khái niệm đại diện:
Việc một người hành động ở tư cách của một người khác, vì lợi ích hợp pháp và trong sự
cho phép của họ thì gọi là đại diện. Người cho phép là người được đại diện,người được

phép như vậy là người đại diện.
3.2. Bản chất của đại diện.
3.2.1. Là tự do ý chí
Ta đang xét việc đại diện theo uỷ quyền mà nội dung của nó là một hợp đồng. Trong hợp
đồng thì yếu tố tiên quyết đó là tự do ý chí của mỗi bên trong việc giao kết hợp đồng. Bởi
vậy đại diện theo uỷ quyền cũng không là ngoại lệ, đại diện đòi hỏi người đại diện phải có
ý chí đại diện, tuy nhiên không phải lúc nào sự tự do ý chí tuyệt đối cũng phải được đặt
nên hàng đầu mà trong người đại diện đôi khi còn hành động vì bổn phận hoặc nghĩa vụ
đạo đức hoặc từ địa vị, mối quan hệ trong công việc của mình. Đại diện chỉ có thể khi mà
người đại diện có ý chí đại diện, sự tự do ý chí sẽ ràng buộc người đại diên và người được
đại trong hợp đồng uỷ quyền để xác lập phạm vi đại diện, sự trực tiếp thực thi hợp đồng
đối với người uỷ quyền,và sự vô can của người đại diện đối với việc thực hiện hợp đồng.
Sẽ là không thoả đáng và hợp đồng uỷ quyền có thể bị vô hiệu khi mà một trong hai bên
không có sự tự do ý chí (có sự hà tì trong ý chí của các bên:lừa rối , nhầm lẫn, ép buộc …)
tuỳ từng trường hợp cụ thể mà sự không có tự do ý chí trong hợp đồng đại diện sẽ làm hợp
đồng được ký kết bởi người đại diện sẽ vô hiệu. Như chúng ta đã biết một người chỉ bị
ràng buộc bởi ý chí của chính mình, cho nên khi sự tự do ý chí bị vi phạm thì sẽ không có
hợp đồng uỷ quyền và cũng không phải gánh chịu hậu quả từ những gì mà người đại diện
thực hiện.
3.2.2. Sự tin cậy.
Người ta sẽ không giao cho một người mà mình không tin cậy thay mặt mình thực hiện
những hành vi mà hậu quả của nó mang lại có thế là thiệt hại lớn về tài sản, uy tín…..Sự
tin cậy là do những hành vi mà người đại diện thực hiện sẽ mang lại cho người được đại
diện một sự ràng buộc rõ ràng vào những hậu quả được xác lập bởi những hành vi đó.
Hành vi giao kết các hợp đồng của người đại diện trong phạm vi uỷ quyền cũng chính là
hành vi mà người được đại diện xác lập, hệ quả từ việc giao kết hợp đồng hoàn toàn do
người được đại diện gánh chịu bởi vậy sự tin tưởng là phần không thể thiếu khi ta nói tới
đại diện trong giao kết hợp đồng. Ngược lại ta không quan niệm “sự tin cậy” là một trong
các yếu tố làm lên bản chất của đại diện trong giao kết hợp đồng, chuyện gì sẽ đến khi một
người trao cho người khác một thẩm quyền giao kết một hợp đồng mà liên quan tới toàn bộ

sản nghiệp của anh ta khi mà anh ta không tin tưởng người mà mình trao cho thẩm quyền
đại diện đó.VD: A đang đàm phán với B về việc hai bên ký kết hợp đồng mua bán ô tô. D
phải đi nước ngoài công tác lên A không thể tham gia việc tiếp tục đàm phán và ký kết hợp
đồng mua bán với B. A có hai ngưòi thân là C và D trong đó D là kẻ nghiện hút ,hay cờ
bạc, lô đề và đã nhiều lần lừa tiền của A để đi chơi bạc. Ta đặt ra câu hỏi liệu là một người
bình thường A sẽ chọn ai để đưa tiền đi mua ôtô tô cho mình C hay D?
3.2.3. Đại diện còn có thể mang tính miễn cưỡng (đại diện do pháp luật quy định).
Đại diện theo pháp luật cho người chưa thành niên, người bị mất năng lực hành vi…Ở đây
người đại diện được pháp luật đặt vào trong mối quân hệ đại diện mà mình không có sự
lựa chọn.
Đây cũng là một phần bản chất của việc đại diện nhưng người viết không đi sâu về việc
này vì nó lằm ngoài phạm vi của bài viết.
3.3. Sự hữu hiệu của đại diện
Đại diện chỉ hữu hiệu khi mà có ba điều kiện sau:
3.3.1.Người đại diện có quyền đại diện.
Người đại diện phải có thẩm quyền đại diện, thông qua một hợp đồng tức có sự thống nhất
ý chí của hai bên “Khế ước uỷ nhiệm đòi hỏi một sự thoả hiệp giữa ý chí của người uỷ
quyền (mandant) và người thụ uỷ (mandataire). Nói khác hai bên không những phải có sự
thoả hiệp mà hơn nữa, ý chí của họ không bị hà tỳ”( 8 ) Vũ văn Mẫu trong cuốn “Việt
Nam dân luật lược khảo” quyển II nghĩa vụ và khế ước.tr 105.
Người đại diên phải có đủ điều kiện để giao kết hợp đồng: đủ tuổi,có năng lực hành
ví…..Bây giờ đặt ra trường hợp người đại diện không có năng lực hành vi giao kết hợp
đồng thì giải pháp đặt ra là như thế nào :người viết xin có hai kiến giải sau:
Nếu người đại diên không có năng lực hành vi (sự không có năng lực này có thể xảy ra
trước khi có việc uỷ quyền hoặc sau khi có việc uỷ quyền cho tới khi hợp đồng được giao
kết ) mà người được đại diện không biết hoặc không thể biết thì có thể yêu cầu toà án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Nếu người uỷ quyền biết hoặc buộc phải biết người đại biện không có năng lực hành vi thì
hợp đồng vẫn có hiệu lực với họ, người được đại diên sẽ không thể viện dẫn lý do người
đại diện không có năng lực hành vi mà xin tuyên bố hợp đồng vô hiệu .

Điểm c điều 147 BLDS 2005 quy định về việc chấm dứt đại diện : “Trong trường hợp
người được uỷ quyền hoặc người được uỷ quyền chết, bị toà tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết”. Ta nhận xét chút
ít về quy định trên khi mà người đại diện vô năng tức là quan hệ đại diện theo như luật quy
định là chấm dứt thì hợp đồng mà người đại diện ký liệu có hiệu lực với người uỷ quyền
không khi mà ngươi này biết hoặc buộc phải biết việc đó. Xin thưa rằng hợp đồng ở trong
trường hợp này vãn có hiệu lực đối với người được đại diên.
Thiết nghĩ quy định như trên không hợp lý vì những lý do như đã phân tích ở phần trên.
3.3.2. Người đại diện có ý chí đại diện.
Thật khó mà có thể có việc đại diện giao kết hợp đồng khi mà người đại diện không có ý
chí đại diện. Nếu coi tự do ý chí là điều tối quan trọng trong giao kết thì khi không có ý chí
hoặc có nhưng không có sự gặp gỡ ý chí thì cũng không có hợp đồng được tạo lập. Đại
diện trong giao kết hợp đồng thì hành vi của người đại diện có thể làm tiêu tan tài sản của
người đại uỷ cho lên người đại diện phải có ý chí đại diện và thực hiện công việc trong
phạm vi uỷ quyền một cách hết sức nhất, cần mẫn và trung thành nhất để mang lại lợi ích
cho người đại uỷ. Người đại diện không có ý chí đại diện cho người uỷ quyền thì sẽ không
có hợp đồng được giao kết giữa người uỷ quỳên và bên giao kết hợp đồng và tất nhiên khi
đó người đại diện có thể giao kết hợp đồng đó với tư cách cho mình, ràng buộc mình vào
hợp đồng mà không phải cho người mình đại diện.
3.3.3. Người đại diện có ý chí giao kết hợp đồng
Mong muốn giao kết hợp đồng thông qua người đại diện cũng không thể thành công khi
mà người đại diện không có ý chí giao kết hợp đồng. Khi người đại diện không có ý chí
giao kết thì việc đại diện chẳng mang lại một kết quả nào tốt đẹp mà còn có thể làm tiêu
tán sản nghiệp của người đại uỷ. Khi uỷ quyền cho một người khác thay mình giao kết một
hợp đồng có nghĩa là người đại uỷ đã chấp nhận rằng buộc vào những hậu quả mà hành vi
của người đại diện thực hiện trong phạm vi mình cho phép, bởi vậy khi người đại diện
không có ý chí giao kết thì có nghĩa không có hợp đồng (người đại diện không mong muốn
giao kết hợp đồng theo ý chí chủ quan của mình). Trong mối quan hệ đại diện trong giao
kết hợp đồng tồn tại hai hợp đồng (hợp đồng uỷ quyền giữa người được đại diện và người
đại diên; hợp đồng giao kết với người thứ 3 của người được đại diện thông qua hành vi

giao kết của người đại diện.). Bởi vậy khi mà người đại diện không có ý chí giao kết hợp
đồng thì hợp đồng giữa người thứ 3 và người được đại diên sẽ không tồn tại hoặc có thể
không tiến tới giao kết được một hợp đồng như người được đại diện mong muốn giao kết.
Lúc này người đại diện có thể giao kết hợp đồng đó cho chính mình mà không phải cho
người đại diện.
Khi việc giao kết hợp đồng không thành công do nguời đại diện không có ý chí giao kết mà
người này thực hiện không đúng nghĩa vụ hành động vì lợi ích của người uỷ quyền, cố tình
gây thiệt hại do việc không giao kết được hợp đồng thì người uỷ quyền có thể đòi bồi
thường nhưng việc chứng minh hay đưa ra bằng chứng không phải là chuyênh dễ ràng.
VD.A là một nông dân vừa qua thắng lớn trong vụ cà phê nên bàn với vợ là mua một chiếc
ôtô phục vụ cho việc sản xuất vụ tới. A đang đàm phán với B về việc mua bán chiếc xe ôtô
tải biển số 29 U9 9999 hai bên đã thoả thuận giá cả và 10 ngày sau ký hợp đồng. Nhưng A
đột nhiên phải sang Brazil để truyền đạt kinh nhiệm sản xuất cà phê theo lời mời của hội
nông dân Brazil. Trước khi đi A uỷ quyền cho C bạn thân mình tới ký hợp đòng mua bán
xeôtô và việc uỷ quyền này hoàn toàn hợp pháp, đã thông báo tới B. Khi tới để ký kết C đã
đề nghị một mức giá thấp hơn và viện dẫn một số lí do để B không bán chiếc xe đó nữa (vì
B và C vốn có một số khúc mắc với nhau).
Ta có thể thấy khi mà người đại diện không có ý chí giao kết hợp đồng thì sẽ không có hợp
đồng và việc uỷ quyền cho người khác thay mặt mình giao kết hợp đồng là không đạt được
kết quả như mong muốn của người uỷ quyền.
Người đại diện không phải chỉ là một người đứng chung gian để chuyền mệnh lệnh của
người uỷ quyền mà chính họ phải tham gia vào giao dịch, chính người đại diện là người
giao kết hợp đồng.
Vũ văn Mẫu trong cuốn “Việt Nam dân luật lược khảo” quyển II nghĩa vụ và khế ước có
nói: “Tuy nhiên người đại uỷ muốn chọn một người vô năng làm người đại diên, đó là
quyền của họ. Trong trường hợp này, vì họ đã biết rõ sự vô năng của người đại biểu mà họ
chọn, họ không bị than phiền như vậy trong trường hợp bị tổn thiệt về các sự hà tỳ cuả sự
ưng thuận này.” trang 107(9)
3.4. Đặc điểm của đại điện.
3.4.1. Người đại diện hành động với danh nghĩa của người được đại diện.

VD. A một chủ trang trại chăn nuôi lợn cần mua 2000 lợn con của B một chủ trang trai ở
tỉnh bên để nuôi. A đã uỷ quyền cho C con trai A đến ký kết hợp đồng mua 2000 lợn con
với B.
C ký hợp đồng với B nhưng không phải với tư cách của chính C mà chính là A đã ký hợp
đồng với B. Ta có thể nói C là thực là C mà không là chính C hay C là bóng của A. Hợp

×