Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục và sự vận dụng tư tưởng dó trong việc xây dựng nền giáo dục ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.18 KB, 17 trang )

Tưtuởng HCM
ĐỀ: Phântíchtưtưởnghồchí minh
vềvănhóagiáodụcvàsựvậndụngtưtưởngdótrongviệcxâydựngnềngiáodục ở
việtnamhiện nay. ( víêttay 10 – 15 trang)
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người anh hung dân tộc ,một
danh nhân văn hóa thế giới, luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục. Người luônquan
niệm: “Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích tram năm trồng người”.Luôn nhận
thức sâu sắc vai trò của giáo dục trong sự nghiệp dựng nước và giữnước, Hồ Chí
Minh để lại cho dân tộc ta một tư tưởng lớn, những quan điểm mớivề giáo dục. Để
tìm hiểu kĩ hơn về điều đó, em chon đề tài “phân tích tư tưởngHồ Chí Minh về văn
hóa giáo dục và sự vận dụng tư tưởng đó trong viêc xâydựng nền giáo dục Việt
Nam hiện nay”. Bài làm còn nhiều sai sót, mong quýthầy cô góp ý để hoàn thiên
hơn. Em xin chân thành cảm ơn
Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động
lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết
các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm việc mở mang dân
trí, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của
giáo dục đối với sự hưng thịnh của đất nước, với nhiệm vụ cực kỳ trọng đại là
mở mang dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự
phát triển, đưa nước nhà tiến tới giàu mạnh, dân chủ, văn minh, sánh vai với
các cường quốc năm châu. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã được thể
hiện qua nhiều bài nói, bài viết, và đặc biệt là những việc làm, tấm gương học
tập suốt đời của Hồ Chí Minh. Tư tưởng về giáo dục của Người là sự tiếp nối
và nâng cao những giá trị tinh túy của truyền thống Việt Nam và thế giới. Đây
cũng là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng giáo dục của chủ


nghĩa Mác – Lê Nin vào trong điều kiện cụ thể của nước ta. Tư tưởng về giáo
dục của Hồ Chí Minh còn góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí, bồi
dưỡng đào tạo cho Cách Mạng Việt Nam những con người đủ đức, đủ tài để


lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong thời đại ngày nay, tư tưởng và những
chủ trương chính sách đối với giáo dục của Hồ Chí Minh đã góp phần quyết
định tới thắng lợi sự nghiệp giáo dục của nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục/ GS.TS. Phan Ngọc Liên (biên soạn): Hồ Chí
Minh về giáo dục, NXB. Từ điển bách khoa, 2007, tr13-40
Trong quá trình đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến giáo dục- tố cáo giáo dục thực dân và xây dựng
một nền giáo dục mới, cách mạng.
Điều này được thể hiện trong tư tưởng của Người về giáo dục – một bộ phận hữu
cơ của tư tưởng HCM. Việc học tập, nghên cứu, vận dụng tư tưởng giáo dục HCM
có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng giáo dục dân chủ nhân dân tiến lên
giáo dục xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc tìm hiểu sự hình thành, phát triển và nội
dung tư tưởng giáo dục HCM sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn tình hình giáo dục cách
mạng Việt Nam và tạo cơ sở nhận thức, tư tưởng cho đổi mới giáo dục một cách
hiệu quả.
Chương 1: Nguồn gốc, quá trình hình thành và tư tưởng cơ bản của chủ tịch Hồ
Chí Minh về văn hóa giáo dục.
Khái niệm: Tư tưởng giáo dục HCM là một hệ thống các quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của giáo dục Việt Nam, từ giáo dục dân chủ nhân
dân tiến lên giáo dục xã hội chủ nghĩa.
1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục
Nguồn gốc tư tưởng HCM về văn hóa giáo dục theo em xuất phát từ những vấn đề
chủ yếu sau: truyền thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại và chủ
nghĩa Mác – Leenin ; truyền thống hiếu học của quê hương gia đình; phẩm chất, ý
chí tự lực của HCM.


Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ những truyền thống văn hóa tốt đẹp củadân
tộc. Đó là truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo,… đã tồn tại ngàn đời naytrong
đời sống nhân dân ta. Không chỉ vậy, người còn ảnh hưởng sâu sắc từ nhữngquan

điểm mới mẻ của giáo dục phương Tây như tinh thần tư học là chính, là quanniện
“học đi đôi với hành”…Nguồi gốc quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hóa giáo dục vẫnlà chủ nghĩa Mác- Lênin và những tấm gương sáng của các
ông. Mác và Ăngghenđã tuyên bố trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản” là: “Sự phát
triển tự do của mỗingười là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Tại diễn đàn Đạihội giáo dục toàn Nga lần thứ nhất( 28-8-1918), Lênin đã khẳng
định vai trò to lớncủa công tác giáo dục, coi đó là một điều kiện đảm bảo thắng lợi
trong sự nghiệpxây dựng chủ nghĩa xã hội. Khẩu hiệu nổi tiếng của Lênin: “Học,
học nữa, họcmãi” đã trở thành triết lý sống của hàng triệu, hàng triệu con người
trong các thế
hệ. Uỷ ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI đã đưa giáo dục suốt đời thành
mộtnguyên lý của nền giáo dục mở đầu thiên niên kỷ mới.Ngoài ra, trong quá trình
bôn ba tìm đường cứu nước, Bác đã học tập được rấtnhiều, trong nhân dân, trong
lao động, tự học là chủ yếu. Bác nhận ra phương pháphọc mới gắn liền với thực
tiễn khác xa với cách học truyền thống.Đúc kết giá trị truyền thống và hiện đại,
tiếp thu tư tưởng Mác- Lênin và vậndụng trong trải nghiệm của mình, Hồ Chí
Minh có những qun niệm mới mẻ về vănhóa giáo dục, phù hợp với “nội tạng” của
người Việt Nam ta.
2. Quá trình hình thành tư tưởng HCM về văn hóa giáo dục
Quá trình này gắn liền với các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam từ đầu
thế kỉ 20 đến nay. Tuy nhiên, việc phân chia giai đoạn trong quá trình hình thành
và phát triển tư tưởng giáo dục HCM còn căn cứ vào các thời điểm, sự kiện chủ
yếu phản ánh sự chuyển biến lớn, rõ rệt tư tưởng của Người về giáo dục.
Theo đó, chúng ta có thể tìm hiểu mấy thời kì chủ yếu trong sự hình thành và phát
triển của tư tưởng giáo dục HCM.

Thời kỳ 1890- 1910: Thời kỳ được giáo dục trong gia đình,ở nhà trường (Nho học,
Tây học), làm thầy giáo và nảy sinh ý tưởng tìm hiểu nội dung một số vấn đề đang
học tập, gắn với thực tế cuộc sống, trong học tập và giảng dạy.



Thời kì 1911-1930: Hình thành tư tưởng giáo dục theo chủ nghĩa Mác – Lênin
HCM từ nhận thúc thực tiễn đã tiếp thu quan điểm giáo dục Mác xít – Lenin nít,
làm cơ sở quan trọng để xây dựng quan điểm của Đảng trong việc xây dựng một
nền giáo dục cho toàn dân, theo đường lối của giai cấp công nhân, phục vụ quyền
lợi chủ yếu cho công nông. Từ đây, tư tưởng giáo dục HCM đã trở thành đường lối
giáo dục của ĐCS VN và chỉ đạo trong suốt quá trình cách mạng VN.
Thời kì 1930-1941: Thời kì phát triển phong phú tư tưởng giáo dục HCM
Có thể nói, việc học tập và nghiên cứu trong thời gian này làm phong phú nhận
thức của Người về những quan điểm lí luận Mác xít – Lenin nít, về nhiều vấn đề
nội dung và phương pháp của khoa học cơ bản và khoa học giáo dục và tư tưởng
giáo dục của Người càng thêm sâu sắc
Thời kì 1941-1945; Thời kì khẳng định và thắng lợi của tư tưởng giáo dục HCM.
Tư tưởng giáo dục HCM thời kì này tập trung vào những điểm cơ bán sau đây:
- Chống giáo dục thực dân nô dịch để đòi quyền được học tập của mọi tầng lớp
nhân dân.
- Vạch ra một đường lối, chủ trương, chính sách để thực hiện giáo dục toàn dân.
- Xác định những nguyên tắc “dân tộc, đại chúng, khoa học” cho văn hóa giáo dục.
Thời kì 1945-1969: Thời kì thắng lợi của tư tưởng giáo dục HCM trong thực tiễn
cách mạng của đất nước.
Tư tưởng giáo dục HCM từ sau cách mạng tháng tám 1945 đã trở thành hiện thực
trên đất nước ta và được tiếp thu sáng tạo và phát triển ngày một phong phú hơn.
3. Tư tưởng cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục
Nếu nội dung tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm lý luận về cách mạng VIệt
Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, quân sự, văn
hóa giáo dục, đạo đức…thì tư tưởng giáo dục HCM thể hiện sự quan tâm dặc biệt,
coi trọng con người, khẳng định mục tiêu đấu tranh vì lợi ích của con người và cho
con người. Thương yêu, tôn trọng, tin tưởng con người, vì con người là chủ nhân
của lịch sử, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần và vật chất. Để phát hay sức mạnh tiềm



ẩn của con người, cần phải giáo dục, bồi dưỡng, phát triển mọi tài năng của con
người.
Thực hiện mục tiêu như vậy, tư tưởng HCM về giáo dục đề cập đến nhiều vấn đề
mà ở đây chỉ nhấn mạnh một số nội dung cơ bản sau:
-

Tthcm về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của giáo dục
Tthcm về giáo dục cho mọi ngừoi
Những quan điểm tthcm về lý luận giáo dục
Tthcm về mục tiêu, nội dung giáo dục
Tthcm về phương pháp giáo dục
Tthcm về người dạy, người học, về tổ chức và quản lí giáo dục, về dân chủ
trong nhà trường.

Những vấn đề này tạo thành một hệ thống lý luận về ông tác giáo dục, về khoa học
giáo dục, có quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện nội dung cơ bản của tư tưởng
HCM về giáo dục, xuất phát từ những vấn đề cốt lõi trong tư tưởng cúa Người.

Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền giáo dục ở
Việt Nam hiện nay.
I. Bối cảnh thế giới và trong nước
TTHCM về giáo dục thanh niên/ Đoàn Nam Đàn//Nxb. Chính trị quốc gia/tr 132
1. Bối cảnh thế giới
Chúng ta đang chứng kiến cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra với tốc
độ nhanh và quy mô ngày càng rộng lón trên phạm vi toàn thế giới. Từ sau Chiến
tranh thế giới lần thứ hai, cuộ cách mạng khoa họ kĩ thuật bắt đầu được triển khai
mạnh mẽ với những xu hướng khác xa cuộc cách mạng công nghiệp trước đây.
Nếu như trong thời đại cách mạng công nghiệp, thafnhtuju của khoa học kĩ thuật
đã cho phép nối dài thêm cánh tay con người trong sản xuất, thì trong điều kiện

hiện nay, khoa học kỹ thuật đã chuyển trọng tâm sang hướng thay thế nhiều chức
năng của con người, bao gồm không chỉ các chức năng cơ học, mà còn cả chức
năng thuộc về bộ não như kiểm tra, quản lý, xử lí thông tin, quyết định, v.v.. với
quá trình sản xuất, tạo thành một chu trình khép kín từ nghiên cứu – triển khai –


sản xuất thử đến sản xuất – tiêu thụ - bảo hành, tạo thành một quá trình thóng nhất,
biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trên thực tế ngày càng có nhiều
lĩnh vực khoa học kĩ thuật mới xuất hiện và nhanh chóng được ứng dụng trong sản
xuất. Các lĩnh vực khoa học – công nghệ mũi nhọn như: ccoong nghệ vi sinh, điện
tử, chất dẻo, vật liệu mới,v.v.. đang có xu hướng đưa nền kinh tế thế giới phát triển
theo những hướng mới.
Cuộc cách mạng đó, trong khi thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở mỗi nước cũng như trên thế giới, quốc tế hóa nền sản xuất và sự phân
công lao động xã hội, sẽ góp phần tổ chức lại đòei sống vật chất và tinh thần của
nhân loại. Đồng thời nó cũng đang phá vỡ nhiều quan niệm cũ, phương pháp tư
duy cũ, thể chế cũ và quan hệ cũ trên tất cả cá bình diện: chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội,… ở phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. Mặt khác, nó đang và sẽ tạo ra cho
nhân loại những hệ thống sản xuất, giao lưu, trao đổi cho đến cách thức tiêu dùng
và lối sống hoàn toàn mới, làm thay đổi căn bản không chỉ các xã hội công nghiệp
mà cả các xã hội nông nghiệp truyền thống.
Trong hệ thống các công nghệ hiện đại, thì công nghệ thông tin, đặc biệt là công
nghệ tin học, có vai trò then chốt trong việc mở ra một thời đại kinh tế mới, thời
đạicách mạng công nghệ thông tin, lực lượng sản xuất, cơ cấu kinh tế sẽ có sự thay
đổi căn bản. Dựa trên những thành tựu công nghệ tin học, công nghệ người máy –
một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, sẽ tạo ra những
chuyển biến cách mạng trong nền sản xuất vật chất. Sản xuất công nghiệp sẽ trải
qua những biến đổi sâu sắc nhờ hệ thống tự động hóa quá trình chế tạo sử dụng
người máy thay thế dần chức năng trí tuệ, cảm giác và chế lực của con người.
Do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là cách mạng tin học,

cơ cấu các nền kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng gia tăng của các ngành có
hàm lượng trí tuệ cao và mở rộng khu vực dịch vụ hiện đại. Ở các nước có trình độ
phát triển cao như Mỹ, hơn 2/3 lực lượng lao dộng làm việc thông tin, sáng tạo và
dịch vụ trí tuệ. Lao động trực tiếp trong khu vực nông nghiệp ở các nước tư bản
phát triển chỉ còn dưới 10% ( ở Mỹ là 2,6 %, ở Pháp là 6%): xu hướng sử dụng
nhân lực trong nền kinh tế cũng thay đổi. Trí tuệ là nhân tố ngày càng quan trọng
để tạo ra năng suất lao động mới, là nhân tố quyết định tạo ra tiềm lực cạnh tranh.
Việc có được những nhà chuyên môn, những nhà quản lý có trình độ nghề nghiệp


cao là nhân tố quyết định chứ không phải là nhân công rẻ, trình độ tay nghề thấp
như trước đây.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa kinh tế lôi
kéo các nước và bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức
ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song
phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn
hóa, xã hội. Các công ti xuyên quốc gia tiếp tục cấu trúc lại, hình thành những tập
đoàn khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế.
Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác để
phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là cuộc đấu tranh của các nước đang
phát triển nhằm bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng,
chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế, các công ti xuyên quốc
gia. Đối với nước ta, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,đòi hỏi chúng ta phải
ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh
tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
Trước bối cảnh đó, mỗi con người tham gia vào quá trình phân công lao động phải
có kiến thức mới. kỹ năng mới và phẩm chất mới. Do đó, đòi hỏi tất cả các nước,
nhất là các nước chậm phát triển và đang phát triển phải có cuộc cách mạng mới
trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, phải có chiến lược về con người.
Trong đời sống xã hội nhân loại luôn luôn thừa nhận và khẳng định vai trò quan

trọng của giáo dục. Chính phủ các quốc gia đều có sự quan tâm đối với giáo dục.
Trong vài thập niên vừa qua, do cuộc cash mạng khoa học và công nghệ phát triển
mạnh mẽ, làm cho trào lưu phát triển kinh tế - xã hội diễn ra ở hầu hết các nước,
tạo nên sự cạnh tranh quốc tế gay gắt đang và càng ngày đòi hỏi chính phủ của
nhiều quốc gia quan tâm nhiều hơn tới đầu tư cho phát triển giáo dục, đào tạo
nguồn nhân lực.
Theo UNDP thì tăng trưởng và phát triển nhân lực có 5 nguồn năng lượng: giáo
dục, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm, tự do chính trị và kinh tế. năm
nguồn nhân lực này liên kết và phụ thuộc lẫn nhau, nhưng giáo dục là yếu tố cơ
bản đối với các yếu tố khác, là yếu tố thiết yếu để cải thiện sức khỏe và dinh
dưỡng, để duy trì một môi trường có chất lượng cao, để mở rộng và cải thiện
nguồn lao động và hỗ trợ tính trách nhiệm chính trị, kinh tế. Chính vì thế mà hầu


như các nước đều nhấn mạnh chính sách giáo dục là chính sách ưu tiên quốc gia,
trong khi thiết lập các kế hoạch để tạo gia tốc cho sự phát triển.
Phân tích vị trí của giáo dục và đào tạo, nhiều nhà lãnh đạo các nước cho rằng:
giáo dục – đào tạo là nhân tố chủ yếu của sự hùng mạnh và phồn vinh của đất
nước. Một đất nước không biết coi trọng trí thức thì ắt sẽ đi tới diệt vong. Còn
chúng ta muốn hiện đại hóa thì mấu chốt là phải đưa khoa học – kỹ thuật tiến lên.
Muốn phát triển khoa học – kỹ thuật thì không thể không quan tâm tới giáo dục,
chỉ nói suông thì không thể nào thực hiện được hiện đại hóa. Cần phải có trí thức,
có nhân tài.
Ngày nay, hầu hết các nước đều hướng sự nghiệp phát triển và mở rộng giáo dục
nhằm bảo đảm yêu cầu cơ bản là bình đẳng, chất lượng và hiệu quả cao. Nghĩa là
giáo dục phải đảm bảo quyền lợi học tập cho đông đảo mọi người trên cơ sở bình
đẳng, không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, nam nữ, dân tộc, tôn giáo,… Bình
đrng nghĩa là phải tạo nên số lượng lớn người được giáo dục và đào tạo ở mọi cấp,
phát huy được năng lực sáng tạo của con người, tạo tiềm năng phấn đấu vươn lên
của từng cá nhân, từng cộng đồng, từng địa phương, cũng như toàn đất nước. Và

cũng nhờ đó sẽ tạo ra những điều kiện cơ bản để xây dựng sự bình đẳng về chính
trị, xã hội và kinh tế giữa con người với con người, đó chính là mục tiêu của tất cả
các quốc gia hiện đang phấn đấu.
Trong quá trình giáo dục, song song với sự gia tăng nhanh chóng về số lượng, hầu
hết các nước đang phát triển còn đẩy mạnh đa dạng hóa về loại hình và cơ sở giáo
dục, bằng cách thành lập nhiều loại hình trường lớp và nhiều loại hình giáo dục.
Nhờ đó mà các nước ngày càng đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của xã hội và thị
trường nhân lực; cải thiện tốt hơn sự công bằng trong nhập học và những cơ hội
trong giáo dục của cộng đồng. Hố sâu ngăn cách bởi sự không bình đẳng giữa giới
tính, giữa các vùng dân cư, giữa các tầng lớp xã hội và các nhóm dân tộc khác
nhau của mỗi quốc gia trong giáo dục ngày càng được bồi lấp dần.
Tuy có nhiều bước tiến vượt bậc, song sau ba thập niên phát triển nhanh chóng về
số lượng, giao dục của các nước trên thế giới ngày càng bộc lộ dấu hiệu khủng
hoảng, chủ yếu gây ra bởi sự giảm sút về chất lượng giáo dục. Nhiều hệ thống giáo
dục của các nước phải đương đầu với tốc dộ tăng trưởng về số lượng người học
không kiểm soát nổi, trong khi đó các nguồn tài chính hỗ trợ cho nó ngày càng


giảm sút. Kết quả là các trường học phải hoạt động trong điều kiện cơ sở vật chất
quá tải và xuống cấp, thiếu thầy giáo giỏi và có trình độ cao, thư viện thiếu sách
báo, tài liệu và giáo trình học tập, khong đủ thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập.
Từ những yếu tố trên làm cho chất lượng giáo dục bị suy giảm.
Chính vì vậy, trong vòng ba thập niên gần đây, hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia phát triển đã chú ý đầu tư đáng kể để xây dựng hệ thống giáo dục bằng
nhiều con đường thích hợp. Theo thống kê của UNESCOtừ năm 1965 đến 990, tỷ
lệ thanh niên tham gia học tại các trường lớp ngày càng tăng cao. Cụ thể số thanh
niên tham gia học các trường đại học tăng nhanh ở hầu hết các khu vực trên thế
giới: từ 1% lên đến 9% ở khu vực Bắc Phi, từ 3% lên đến 16% ở khu vực Trung
Đông, từ 7% lên đến 21% ở khu vực Mỹ Latinh. Khu vực châu Á, tuy các nước có
mức tăng khác nhau, nhưng tỷ lệ tăng truorng hành năm trung bình trên 10%. Khu

vực Đông Nam Á mức tăng từ 8% lên đến 17%. Mặt khác, các nước đã rất chú
trọng việc nâng cao chất lượng giáo dục bằng các biện pháp: hính phủ đầu tư kinh
phí hằng năm cao hơn cho giáo dục, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đưa
những tiến bộ khoa học và công nghệ mới vào trong quá trình đào tạo,… nhằm tạo
ra nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu phát triển của mỗi nước.
2. Bối cảnh trong nước – cơ hội và thách thức
Đất nước ta đang ở thời kỳ chuyển đổi từ nển kinh tế lạc hậu, với cơ chế quản lý kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của đất nước, Đảng ta đã xác định
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa như là một phương hướng chiến lược quan
trọng. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đề ra cần phải phát huy mạnh mẽ
các nguồn lực, bao gồm: nguồn lực con người, đất đai, tài nguyên, vốn, kỹ thuật
trong nước và ngoài nước,… trong đó nguồn lực con nguwofi là quan trọng nhât,
có vai trò quyết định trong các nguồn lực. Để tạo ra bước ngoặt của sự phát triển
kinh tế - xã hội, vấn đề mấu chốt là phải tạo ra nguồn nhân lực đạt chất lượng cao.
Điều đó cũng có nghĩa là, muốn thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa chúng ta phải có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề
cao, năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với điều kiện lao động mới.
Trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hoojil chúng ta đang
đứng trước những cơ hội lớn được tạo ra do những thắng lợi đã dành được từ


trước; những thành tựu to lớn và rất quan trọng của hơn 15 năm đổi mới làm cho
thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất – kỹ thuật của nền kinh
tế nói chung và của ngành giáo dục và đào tạo nói riêng được tăng cường. Đất
nước ta có tiềm năng về nguồn lao độgn. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn
định. Nhân dân ta có phẩm chất tốt đẹp và rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục.
Môi trường hòa bình, sự hợp tác, hội nhập quốc tế và những xu thế tích cực trên
thế giới, nhất là xu thế tích cực về giáo dục đã tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục
phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước.
Bên cạnh đó là những thách thức rất lớn. Đến nay nước ta vẫn là một nước nông
nghiệp với 70 % là lao động nông nghiệp. Công cuộc đổi mới đã làm cho nền kinh
tế đất nước có nhiều chuyển biến, đời sống nhân dân từng bước được nâng lên,
song đến nay nước ta vẫn là một trong những nước nghèo và kém phát triển nhất
trên thế giới. Trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sarnxuaast
kinh doanh thấp, cơ sở vật chất- kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều. Thu nhập bình
quân đầu người còn quá thấp so với các nước trên thế giới.
Trong khi nền kinh tế còn kém phát triển thì dân số lại tăng nhanh. Năm 1945 nước
ta có 23 triệu dân, năm 1975 là 48 triệu, năm 1995 là 74 triệu và đến ngày 22-32017 là hơn 95 triệu dân . Hiện nay nước ta đứng thứ 14 về quy mô dân số so với
các nước trên thế giới, đứng thứ 3 trong khối các nước ASEAN (sau Indonesia và
Phillipines). Như vậy vấn đề giải quyết việc làm là một vấn đề lớn được đặt ra hiện
tại. Cùng với đó là sức ép về nhu cầu đào tạo nghề nghiệp ở nước ta hiện nay là rất
đáng quan tâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: nếu không có kiến thức thì không thể tham gia
tốt vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ thực tiễn nước ta và kinh nghiệm
của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, muốn phát triển đất nước, muốn đưa dân
tộc tiến lên không có con đường nào khác là phải quan tâm đầu tư cho giáo dục.
II. Thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục ở nước ta hiện nay
/>Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục - đào tạo luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đối với sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh" ở nước ta hiện nay, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết thực.


Thực hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục-đào tạo, trong ba mươi năm đổi mới (1986-2016), dưới sự lãnh
đạo của Đảng, giáo dục Việt Nam đã có nhiều thay đổi, phát triển cả về quy mô và chất lượng. Các công cuộc phổ
cập giáo dục từ tiểu học cho đến bậc trung học đã được triển khai và đạt được những thành quả nhất định. Việt Nam
hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ I
năm 2014; hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010. Tính đến tháng 6/2015, đã có 32 tỉnh, thành

phố hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên nhất là
chất lượng giáo dục đỉnh cao có bước phát triển mới đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ văn hóa, khoa học kỹ
thuật, lực lượng lao động có trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng đông tham gia vào phát triển kinh tế, xây dựng đất
nước.

/>Kế tục và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn và cao cả đó của Người, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung
ương khoá VIII đã xác định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là "nhằm xây dựng những con người và thế
hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát
huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành
giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Và mới đây, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng
đinh: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững" "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và
hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo
của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong
nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở
thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm "học đi đôi với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà
trường gắn với xã hội.
Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo
con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến
lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách
mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với
người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay.

Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
/>a.


Thành tựu
Nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, điều này thể hiện ở những con số thống kê trong
những năm vừa qua. Hiện nay, hệ thống giáo dục ở nước ta đã khá hoàn chỉnh từ bậc mầm non đến sau
đại học; hầu hết các bản, làng, xã, phường đều có trường lớp tiểu học; trường trung học cơ sở được xây
dựng ở các xã hoặc cụm liên xã; trường trung học phổ thông được xây ở các huyện, một số huyện có 2 - 3
trường. Hệ thống giáo dục ở nước ta về cơ bản đã đáp ứng được như cầu học tập của nhân dân. Đến nay,
hầu hết người dân trong độ tuổi đi học đều được đến trường. Các trường Trung cấp chuyên nghiệp được
củng cố và phát triển, mở rộng quy mô đào tạo, cơ cấu ngành nghề đào tạo đang từng bước đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác dạy nghề phát triển mạnh mẽ. Năm 2010, cả nước có khoảng 2300
cơ sở dạy nghề (kể cả các trường trung cấp nghề và cao đẳng nghề). Quy mô đào tạo nghề dưới một năm
vào khoảng 1.268.150 người, ở bậc trung cấp nghề, cao đẳng nghề là 394.350. Nhà nước đặc biệt quan
tâm đến vấn đề giáo dục, thường xuyên cải cách giáo dục về cả chương trình học và phương pháp học.
Kiên trì đường lối phát triển giáo dục như là một bộ phận quan trọng của công cuộc đổi mới, tháng 10 năm
2013, Trung ương đã ra Nghị quyết 29 đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục với tinh thần chủ đạo là
chuyển từ phát triển số lượng sang phát triển chất lượng, với khẩu hiệu thực học, thực nghiệp để giáo dục
con người Việt Nam, thế hệ trẻ Việt Nam và nguồn nhân lực chất lượng cao theo Nghị quyết Đại hội XI đề
ra. Công tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực theo hướng khắc phục các tiêu cực trong
ngành, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đổi mới cơ chế tài chính trong ngành giáo


dục; tăng cường phân cấp quản lý giáo dục nhằm tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các địa
phương và cơ sở giáo dục; ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin truyền thông hình thành giám sát xã hội
đối với chất lượng giáo dục; đẩy mạnh cải cách hành chính trong toàn ngành; mở rộng môi trường giáo dục
thân thiện. Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, đồng thời chỉ đạo đổi mới đồng
bộ cách tiếp cận và thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo hướng chuyển mạnh từ
phương thức giáo dục nặng về trang bị kiến thức một chiều sang chú trọng phát triển phẩm chất, năng lực
người học. Mới đây nhất, Bộ giáo dục đào tạo đã quyết định đổi mới phương thức kì thi tốt nghiệp trung học
phổ thông và kì thi đại học thành kì thi trung học phổ thông quốc gia. Bước đầu đã có những kết quả nhất
định như tiết kiệm chi phí đi lại cho gia đình thí sinh, đảm bảo tính liên kết chặt chẽ giữa đại học và trung
học phổ thông… Kì thi trung học phổ thông tiếp theo, Bộ Giáo dục và đào tạo sẽ tiếp tục có những đổi mới

để nâng cao chất lượng đầu vào cho các trường đại học. Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu,
dân trí dần được nâng cao, chất lượng giáo viên cũng tăng lên. Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình
độ đào tạo có tiến bộ, trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức của học sinh, sinh viên bước đầu được
nâng cao một bước. Phát triển giáo dục và đào tạo đã chuyển theo hướng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Hầu hết nhà giáo có trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn, cụ thể: giáo viên mầm non đạt 90%; giáo
viên tiểu học đạt 97,8%; giáo viên trung học cơ sở đạt 98,6%; giáo viên trung học phổ thông đạt 97,5%...
Trình độ tin học và ngoại ngữ của đội ngũ nhà giáo đã được nâng lên (đặc biệt ở các cấp học cao và đối với
giảng viên). Về cơ bản đội ngũ nhà giáo có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt; hầu hết
đều tận tuỵ với nghề, cần cù chịu khó, có tinh thần trách nhiệm cao, tận tâm, hết lòng vì học sinh của các
thầy, các cô và sự nỗ lực mạnh mẽ của các em học sinh, 5 năm qua, Việt Nam đã có 166 học sinh tham dự
các kỳ thi học sinh giỏi khu vực và quốc tế. 36 em đã đoạt Huy chương Vàng, 52 em đoạt Huy chương Bạc,
51 em đoạt huy chương Đồng… Với hơn 94% người Việt Nam biết chữ, Liên hợp quốc đã công nhận chỉ số
phát triển con người của Việt Nam, đến năm 2013, là 0,638 đứng thứ 121/190 nước và vùng lãnh thổ.
Riêng về chỉ số giáo dục qua tiêu chí về người biết chữ, chúng ta, sáng tạo và quyết tâm tự bồi dưỡng nâng
cao năng lực để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Giáo dục Việt Nam đạt được một số kết quả quan trọng trong
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Thành tựu to lớn đó của ngành giáo dục 70 năm
qua gắn liền với kết quả của các phong trào thi đua yêu nước, như lời dạy của Bác Hồ trong bức thư Người
gửi ngành giáo dục năm 1968: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt”. Chỉ tính riêng trong
giai đoạn 5 năm từ 2010 đến 2015, toàn ngành giáo dục đã có 11 tập thể được Chủ tịch nước phong tặng
danh hiệu Anh hùng Lao động, 110 cá nhân được nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc, 79 Nhà giáo
Nhân dân và hơn 1.000 Nhà giáo Ưu tú. Cùng với đó là biết bao thầy giáo, cô giáo ở vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo đang miệt mài, âm thầm, sáng tạo, lặng lẽ vượt lên mọi khó khăn, bám trường, bám lớp
để chăm lo, nuôi, dạy các em học sinh thành người. Cũng chính nhờ sự đứng ở khoảng trung bình (đứng
thứ 70-80) trong các nước thành viên của Liên hợp quốc. b. Hạn chế Tuy nhiên, nền giáp dục nước ta vẫn
còn nhiều hạn chế. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Chương trình giáo dục còn coi nhẹ
thực hành, vận dụng kiến thức; phương pháp giáo dục, kiểm tra, thi và đánh giá lạc hậu, thiếu thực chất;
thiếu gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao
động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kĩ năng làm việc. Hệ thống giáo dục

thiếu tính liên thông giữa các trình độ đào tạo và các phương thức giáo dục, chưa phù hợp với yêu cầu phát
triển đất nước và hội nhập quốc tế. Quản lí giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém, là nguyên nhân của
nhiều yếu kém khác, nhiều hiện tượng tiêu cực kéo dài trong giáo dục, gây bức xúc xã hội. Đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lí giáo dục còn nhiều bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa
theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa
phù hợp. Cơ sở vật chất kĩ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
2. Giải pháp nâng cao vận dụng tư tưởng Hồ CHí Minh trong việc xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
Thực hiện tốt chính sách công bằng, dân chủ trong giáo dục, theo như lời Bac vẫn nói: “ai cũng có cơm ăn
áo mặ, ai cũng được học hành”. Tức là bảo đảm cho mọi công dân quyền bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ trong học tập để mọi người, dù giàu nghèo đều có cơ hội học tập và thành đạt ngang nhau. Giáo dục
phải tôn trọng, phát triển cá tính, phải mở ra nhiều con đường, nhiều hướng, tạo nhiều cơ hội lựa chọn cho
thế hệ trẻ phát triển tài năng, bồi dưỡng nhân tài. Đặc biệt chú ý đến giáo dục nhân cách và phương pháp
tự học, phát huy khả năng tư duy sáng tạo cho học sinh, sinh viên. Các trường từ phổ thông đến đại học


cần giáo dục cho học sinh, sinh viên có lòng ham mê khoa học và rèn luyện thói quen tự học, tự đọc, tự tìm
thông tin để nâng cao sự hiểu biết. Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới quản lý giáo dục, nhất là việc quản lý
chất lượng đào tạo ở các cấp học, bậc học để khắc phục dần tình trạng "học giả, bằng thật". Chú trọng đổi
mới giáo dục phù hợp với tình hình đất nước, đào tạo đội ngũ giáo viên “vừa hồng vừa chuyên” để làm nền
móng cho giáo dục.
C.KẾT LUẬN
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc chăm lo, mở
mang và xây dựng một nền giáo dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người
đều có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt giai cấp, tuổi
tác, trình độ, giới tính... Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích,
nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư
tưởng đó là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả
đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay.. Đúng như Nghị quyết
UNESCO đánh giá: "Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn

hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những
tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân
tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ CHí Minh, nxb Chính Trị Quốc Gia, 2012 2. PGS.TS Nguyễn
Mạnh Tường, Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhận thức và vận dụng, nxb Tư Pháp, 2013 3.
/>articleid=213&sitepageid=425#sthash.ejkxO5ni.dpuf 4.
?uuid=d00820bd-d5a2-49ec9607-bd362393b646&groupId=10217 5. 6. />
III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở nước ta hiện
nay.
1.

Giải pháp nâng cao vận dụng tư tưởng Hồ CHí Minh trong việc xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện
nay Thực hiện tốt chính sách công bằng, dân chủ trong giáo dục, theo như lời Bac vẫn nói: “ai cũng có
cơm ăn áo mặ, ai cũng được học hành”. Tức là bảo đảm cho mọi công dân quyền bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ trong học tập để mọi người, dù giàu nghèo đều có cơ hội học tập và thành đạt ngang
nhau. Giáo dục phải tôn trọng, phát triển cá tính, phải mở ra nhiều con đường, nhiều hướng, tạo nhiều
cơ hội lựa chọn cho thế hệ trẻ phát triển tài năng, bồi dưỡng nhân tài. Đặc biệt chú ý đến giáo dục
nhân cách và phương pháp tự học, phát huy khả năng tư duy sáng tạo cho học sinh, sinh viên. Các
trường từ phổ thông đến đại học cần giáo dục cho học sinh, sinh viên có lòng ham mê khoa học và rèn
luyện thói quen tự học, tự đọc, tự tìm thông tin để nâng cao sự hiểu biết. Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi
mới quản lý giáo dục, nhất là việc quản lý chất lượng đào tạo ở các cấp học, bậc học để khắc phục dần
tình trạng "học giả, bằng thật". Chú trọng đổi mới giáo dục phù hợp với tình hình đất nước, đào tạo đội
ngũ giáo viên “vừa hồng vừa chuyên” để làm nền móng cho giáo dục.

2.

3.
4.

Dạy học theo định hướng năng lực, kích thích sự sáng tạo và khả năng tư duy độc lập của

học sinh
Cách dạy học ở ta cho đến nay vẫn chủ yếu theo mô hình thụ động: Thầy thuyết giảng; học sinh
lắng nghe, ghi nhớ để đến giờ kiểm tra thì trả lời lại gần như nguyên vẹn những gì thầy giảng.
Cho nên cái mà học sinh tạo ra tuyệt nhiên không phải là sự sáng tạo của riêng các em mà chỉ
đơn thuần là sự sao chép kiến thức đã được mặc định trong sách hay trong bài giảng của thầy cô.
Với cách dạy học như thế, học sinh sẽ khó có thể thoát ra khỏi cái bóng của thầy cô giáo để trở
thành một cá nhân độc lập trong tư duy và sáng tạo. Sản phẩm của giáo dục vì thế sẽ là hàng


trăm, hàng nghìn con người na ná nhau như một sự “đồng phục” từ kiến thức cho đến lối suy
nghĩ.
5.

Để kích thích sự sáng tạo và khả năng tư duy độc lập của học sinh đòi hỏi một sự thay đổi bắt
đầu từ quan niệm của người dạy. Mỗi thầy cô giáo tùy vào điều kiện cụ thể của mình mà tạo ra
cho học sinh một môi trường học tập thực sự cởi mở, năng động, dân chủ tạo điều kiện tối đa để
học sinh tự do sáng tạo, tự do tư duy, tự do thể hiện quan điểm, chính kiến của mình.

6.

Trong quá trình ấy, người thầy từ chỗ là nhân vật trung tâm bắt buộc học sinh phải tuân thủ theo
lời mình trở thành người tư vấn, hướng dẫn, khơi gợi đam mê; còn học sinh từ chỗ thụ động, phụ
thuộc vào thầy cô giáo trở thành nhân vật trung tâm, tự do suy tư, sáng tạo, hình thành cho mình
một năng lực riêng để có thể ứng phó với mọi tình huống trong xã hội. Trọng tâm của quá trình
dạy học sẽ chuyển từ chỗ dạy cho học sinh biết được, hiểu được đến chỗ dạy cho học sinh tự
mình làm được. Muốn thế, người thầy phải thực sự tôn trọng cá tính riêng, suy nghĩ riêng của học
sinh, tránh một cái nhìn định kiến, áp đặt.

7.
8.


Tăng cường dạy phương pháp học và hướng dẫn tự học cho học sinh
Trong quyển sách nổi tiếng Thế giới phẳng, tác giả Friedman viết: “Kỹ năng đầu tiên và quan
trọng nhất mà bạn cần có trong một thế giới phẳng là khả năng học phương pháp học – nghĩa là
thường xuyên tiếp thu và học hỏi những phương pháp mới để làm những công việc cũ hay những
phương pháp mới để làm công việc mới”. Đây là một quan điểm đúng đắn và tiến bộ về giáo dục.

9.

Thực tế chỉ ra rằng việc học sẽ đem lại hiệu quả rất cao nếu học sinh được trang bị một phương
pháp học tập khoa học, đúng đắn. Học tập mà không có phương pháp sẽ giống như “dã tràng xe
cát”, phải bỏ ra rất nhiều thời gian trong khi kết quả thu được lại chẳng có gì đáng kể. Vì vậy mà
bên cạnh việc truyền đạt kiến thức, người thầy cần phải hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự
nghiên cứu, tự tiếp cận và giải quyết vấn đề để các em có thể tự mình khám phá tri thức ở nhiều
nguồn khác nhau mà không phải phụ thuộc quá nhiều vào thầy cô giáo.

10. Cần thấy rằng một người thầy dù giỏi đến đâu cũng không thể nào truyền đạt cho học sinh tất cả
kiến thức, không thể “cầm tay chỉ việc” cho các em trong tất cả mọi vấn đề. Cho nên người thầy
giỏi không phải là người thầy nhồi nhét cho học sinh được nhiều kiến thức mà phải có khả năng
truyền cảm hứng, khơi dậy niềm đam mê để các em say sưa nghiên cứu, tìm tòi. William A. Warrd
thật có lý khi cho rằng “Người thầy trung bình chỉ biết nói/ Người thầy giỏi biết giải thích/ Người
thầy xuất chúng biết minh họa/ Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”.
11. Giảm kiến thức nặng nề, hàn lâm; tăng cường giáo dục đạo đức và kỹ năng sống
12. Đa số nhà giáo dục có uy tín của nước ta hiện nay đều thống nhất với nhau ở một điểm là
chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam còn nặng tính hàn lâm, lượng kiến thức được đưa vào
giảng dạy trong nhà trường quá nhiều, trong đó có một số kiến thức nặng nề và không thực sự
cần thiết ở bậc học này. Trong khi đó dù đã có những quan tâm bước đầu, nhưng chương trình
giáo dục đạo đức cũng như giáo dục kỹ năng sống cho học sinh vẫn chưa được chú ý đúng mức.
Đây có lẽ là một trong những nguyên nhân khiến rất nhiều học sinh Việt Nam khi từ giã học
đường cảm thấy rất khó khăn khi thích ứng với xã hội. Và có lẽ cũng là một trong những nguyên

nhân khiến văn hóa học đường ngày càng xuống cấp.
13. Cần thấy rằng học sinh THPT ra trường có nguyện vọng trở thành nhà khoa học, nhà chuyên môn
không nhiều. Trong khi đó em nào cũng phải chuẩn bị cho mình một nhân cách, một kỹ năng cần
thiết để có thể hòa nhập với cuộc sống, ứng phó với những tình huống khác nhau trong xã hội. Do
đó ngay từ trong nhà trường phổ thông, cần thiết phải giáo dục cho các em cách sống, văn hóa
sống cũng như những kỹ năng sống như: kỹ năng xử lý vấn đề, trình bày vấn đề, phản biện, tổ
chức, hợp tác, nói trước đám đông…


14. Chú trọng phát triển năng lực ngoại ngữ và công nghệ thông tin
15. Thời đại toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi quốc gia nếu muốn phát triển thì phải tăng cường hội nhập, hợp
tác với các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, công nghệ… Một trong những
chiếc chìa khóa để mở cánh cửa hội nhập là con người cần phải được trang bị năng lực ngoại
ngữ và công nghệ thông tin đủ để giao tiếp và khám phá thế giới bên ngoài. Có năng lực ngoại
ngữ, người Việt Nam sẽ dễ dàng học tập, làm việc ở nhiều quốc gia khác nhau. Có năng lực công
nghệ thông tin, người ở những khu vực hẻo lánh, xa xôi nhất cũng sẽ có cơ hội sở hữu thông tin
như người thành thị vì phần lớn thông tin của thế giới hiện nay đều được đăng tải trên mạng
Internet.
16. Năng lực ngoại ngữ và công nghệ thông tin vì thế là một trong những năng lực quan trọng nhất
mà con người hiện đại cần được trang bị ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Thế nhưng
thực tế chỉ ra rằng cách dạy ngoại ngữ và công nghệ thông tin trong trường phổ thông hiện nay
còn nhiều điểm phải xem lại. Học sinh được trang bị khá nhiều những mẹo mực để đối phó với
những bài kiểm tra văn phạm môn Ngoại ngữ, trong khi đó kỹ năng nghe, nói, đọc, viết lại rất
kém. Các em được dạy nhiều lý thuyết về các chương trình Tin học trong khi kỹ năng ứng dụng
lại ít được chú ý. Điều này đòi hỏi trong thời gian tới cần phải có những thay đổi cần thiết trong
giáo dục ngoại ngữ và tin học để có thể đáp ứng được yêu cầu của thời đại.
17. Trên đây là một vài suy nghĩ của riêng tôi về những thay đổi cần thiết của nền giáo dục phổ thông
Việt Nam hướng đến mục đích đào tạo ra được những con người có khả năng thích ứng và phát
triển trong một thời đại đầy năng động và phức tạp. Tuy nhiên, để thực hiện được những thay đổi
ấy trong điều kiện nền giáo dục còn khá cứng nhắc và bảo thủ như hiện nay không phải là chuyện

dễ dàng. Không phải một người nói thay đổi là thay đổi được mà phải có sự đồng bộ trong cả một
hệ thống giáo dục. Nhưng điều quan trọng nhất để thực hiện được đổi mới theo tôi vẫn là sự nỗ
lực thay đổi của những con người trực tiếp tham gia vào hoạt động giáo dục, tức là những thầy cô
giáo và các em học sinh.
18. Th.S Hồ Tấn Nguyên Minh
Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh, Phú Yên
19.

Tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhận thức và vận dụng/ PGS.TS.Nguyễn Mạnh
Tường,Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2013. tr 285 - 288
HCM phê phán nền giáo dục phong kiến là từ chương, kinh viện, xa rời thực tế và
coi trọng mẫu người quân tử theo quan niệm của nho giáo, phụ nữ bị tước mất
quyền học vấn,… HCM cũng đã tố cáo nền giáo dục thực dân là nền giáo dục “ngu
dân”, nhồi sọ và giả dối, làm cho cả thế giới hiểu rõ hơn thực chất của nền giáo dục
ấy, đồng thời thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa vufg dậy đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân. Như vậy, nền giáo dục thực dân là nền giáo dục mà giai cấp tư sản
thực hiện ở các nước thuộc địa.


Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc xây dụng một nền giáo
dục mới được xác định là một nhiệm vụ vừa lâu dài vừa cấp bách của nước ta,
không thể chậm trễ. Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải
giáo dục lại nhân dân ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân
tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam
độc lập”.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục:
- Mục tiêu của văn hóa giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa trong
giáo dục, nghĩa là trong quá trình dạy và học, vì theo Người, dạy và học là để mở
mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao
đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong cách lành mạnh cho nhân dân; dạy và

học là để đào tạo những con người mới vừa có đức vừa có tài, theo Người, học để
làm việc, làm người, làm cán bộ, do vậy, phải có thực học, học không phải để chạy
theo bằng cấp; dạy và học là để thực hiện cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới,
thực hiện “công nông trí thức hóa”. “trí thức công nông hóa”, xây dựng đội ngũ trí
thức ngày càng đông đảo và có trình độ ngày càng cao; dạy và học còn phải đào
tạo những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước giầu mạnh,
văn minh để theo kịp các nước khác trên thế giới.
- Phải tiến hành cải cách giáo dục để xây dựng một hệ thống trường lớp với
chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với những
bước phát triển của ta, bao gồm cả văn hóa,chính trị, khoa học- kỹ thuật, cuyên
môn nghề nghiệp và lao động;; Học văn hóa, kỹ thuật phải đồng thời với học chính
trị, nếu không đồng thời thì chẳng khác nào như người nhắm mắt mà đi. Học chính
trị là học chủ nghĩa Mác – Leenin và đường lối quan điểm của Đảng để hiểu rõ
nhiệm vụ cách mạng và xây dựng cho bản thân mình một phương pháp nhận thức
đúng đắn trước những diễn biến phức tạp của cuộc sống và vững tin vào lý tưởng
cách mạng, tránh được những sai lầm vấp ngã. Do vậy, học phải sáng tạo, học phải
đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học tập phải kết hợp với lao
động và phải tẩy sạch mọi tàn dư của nền giáo dục nô dịch; để đẩy mạnh sự nghiệp
giáo dục cần phải phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Sự lơi
lỏng, yếu kém ở bất cứ khâu nào cũng đều hạn chế kết quả của giáo dục.


- Học ở mọi nơi, mọi lúc; học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự
đào tạo và đào tạo lại. Học ở trường lớp chỉ là một phần, còn phần chủ yếu là học
trong lao động,trong công tác,trong thực tiễn. Không chỉ có những người thầy ở
trường mà còn có những người thầy ở xung quanh mình. Nếu bản thân mình là
thầy thì càng phải học nhiều hơn. Học không bao giờ đủ. Học tập là một quá trình
lao động gian khổ, học phải có quyết tâm, có nghị lực và phải say mê, hơn nữa học
còn phải có phương pháp đúng mới có hiệu quả cao. Người nào tự cho mình là đã
biết đủ rồi thì người đó dốt nhất.

- Phải giáo dục để không ngừng nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên và nhân
dân, nghĩa là vừa nâng cao dân trí vừa nâng cao đảng trí. Vì , có trình độ mới có
khả năng tổng kết kinh nghiệm, hiểu rõ quy luật và làm theo đúng quy luật sẽ thúc
đẩy sự phát triển, không hiểu quy luật mà làm trái quy luật sẽ phải trả giá. Đối với
cán bộ, đảng viên, Người đòi hỏi: một là, phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa
Mác – Leenin để vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp Mác – Leenin vào
tổng kết những kinh nghiệm hoạt động của Đảng; hai là, phải học tập văn hóa,
khoa học, kỹ thuật, kinh tế và quản lý, cán bộ ngành nào thì phải biết chuyên môn
ngành ấy. Có như vậy mới không rơi vào tình trạng lãnh đạo chung chung, giáo
điều.



×