Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,đương sự trong tố tụng hình sự và điều kiện bảo đảm thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.87 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự mang ý nghĩa là tư tưởng chủ
đạo và định hướng cho hoạt động tố tụng hình sự. Những nguyên tắc này thể
hiện chính sách hình sự, quan điểm giải quyết vụ án hình sự của Đảng và Nhà
nước ta là, đảm bảo mọi tội phạm đều được phát hiện kịp thời, nhanh chóng,
công minh theo đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Vì vậy, trong quá trình xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ
án hình sự những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự cần được quán triệt
và thực hiện nghiêm chỉnh. Một trong những nguyên tắc quan trọng của pháp
luật tố tụng hình sự đó chính là nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của người
bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự”. Sau đây bài
tiểu luận xin phép được thực hiện với đề tài “Nguyên tắc “bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự trong tố tụng hình sự và điều kiện bảo đảm thực hiện”. Do còn
nhiều hạn chế, bài làm không thể tránh khỏi thiếu sót, em rất mong được thầy cô
xem xét và cho ý kiến để bài làm được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 4
BLTTHS năm 2015)1. Theo đó, người bị buộc tội là người đã bị áp dụng các biện
pháp ngăn chặn hoặc đã bị các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến
hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhưng họ chưa bị kết tội
(chưa bị coi là người có tội).
1 BLTTHS của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2015.

1


Quyền bào chữa của người bị buộc tội được quy định nhằm bảo đảm cho họ
trình bày quan điểm của mình đối với việc bị buộc tội, đưa ra các chứng cứ cần


thiết, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét tình tiết minh
oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình theo quy định của pháp luật.
Nói cách khác, quyền bào chữa là tất cả các quyền mà pháp luật quy định để
người bị buộc tội chống lại sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thực
hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội là điều kiện cần thiết để cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng xử lí vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.2
Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là
cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây
ra (Điều 62 BLTTHS).
Đương sự gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ
chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bị
đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự
(điều g khoản 1 Điều 4; Điều 63, 64, 65 BLTTHS).
II. NGUYÊN TẮC “BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ
BUỘC TỘI, BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA BỊ HẠI,
ĐƯƠNG SỰ” TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. Căn cứ và ý nghĩa của nguyên tắc
Quyền bào chữa, trước hết, được coi là một chuẩn mực bắt buộc (jus
cogens) của quyền được xét xử công bằng. Công ước quốc tế về các quyền dân
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2018, tr. 48.

2


sự và chính trị năm 1966 và các văn bản pháp luật khác đã đưa ra các tiêu chí
của quyền bào chữa. Theo đó các tiêu chí của quyền bào chữa bao gồm: Quyền
được tự bào chữa và có người bào chữa do mình lựa chọn khẳng định người bị

buộc tội có quyền tự bào chữa và lựa chọn người bào chữa cho mình trong suốt
quá trình tố tụng giải quyết vụ án (điểm d, khoản 3 Điều 14 công ước ICCPR);
Quyền được có đủ thời gian để chuẩn bị cho phiên tòa. Trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, người bị buộc tội luôn ở vị thế yếu hơn và bị động hơn, phụ
thuộc vào các quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nên việc
quy định tiêu chí này là cần thiết để họ có thể tiếp xúc với người bào chữa cũng
như chuẩn bị điều kiện để thực hiện việc bào chữa (Điểm b, khoản 3 Điều 14
công ước ICCPR); Quyền được giao tiếp với luật sư mà không bị giám sát…;
Quyền được bào chữa thông qua trợ giúp pháp lý trong trường hợp lợi ích của
công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều
kiện trả, đó là các trường hợp: i) bị cáo là người nghèo; và ii) khi lợi ích công lý
yêu cầu đòi hỏi phải có sự tham gia của người bào chữa trong các trường hợp
phạm tội nghiêm trọng, phức tạp hoặc bị tước quyền tự do mà bị cáo không có
đủ tiền thuê người bào chữa. ; Quyền được tạm hoãn thủ tục tố tụng để được
tham vấn luật sư. Ngoài quyền được có đủ thời gian để chuẩn bị cho phiên tòa,
để đảm bảo tốt nhất cho việc thực hiện quyền bào chữa của mình, pháp luật quốc
tế còn cho phép bị can, bị cáo có được quyền tạm hoãn thủ tục tố tụng để được
tham vấn luật sư về những vấn đề có liên quan đến vụ án. Quyền bào chữa là
hành vi bảo vệ quyền lợi của bị cáo mà không phải được thực hiện vì mục tiêu
truy tố của cơ quan công tố. Những tiêu chí này đã được thể hiện trong Bộ luật
TTHS năm 2015.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 (khoản 4 Điều 31) Bộ luật TTHS năm 2015
quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Điều 16) làm định hướng cho quá
3


trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự. Cụ thể Điều 16 của BLTTHS năm 2015
quy định:
“Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào

chữa.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo,
giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ
quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật
này.”
Nguyên tắc này thể hiện những ý nghĩa sau: i) Quyền bào chữa được bảo
đảm là trụ cột trong cơ chế bảo vệ quyền con người của người bị cáo buộc phạm
tội và được coi là công cụ hữu hiệu nhất để họ có thể bảo vệ được quyền, lợi ích
hợp pháp khi phải đối mặt với sự cáo buộc phạm tội của cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng. Do đó, nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của Bộ luật TTHS
năm 2015 có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh
vực tư pháp hình sự; ii) Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa thể hiện tính nhân
đạo, dân chủ trong hoạt động TTHS, tạo cơ hội minh oan cho người vô tội trong
quá trình giải quyết vụ án. Bào chữa là một trong ba chức năng cơ bản của TTHS
và nó đối trọng với chức năng buộc tội và khi quyền này được thực hiện sẽ tạo ra
cơ hội để tranh tụng dân chủ, công bằng giữa bên buộc tội và gỡ tội, thông qua
đó sự thật khách quan vụ án được sáng tỏ, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
cáo buộc phạm tội được bảo đảm. Cũng vì vậy, hạn chế được việc làm oan người
vô tội, đồng thời làm cho người bị buộc tội “tâm phục, khẩu phục” với các phán
quyết của tòa án về tội phạm và hình phạt áp dụng đối với họ. Do vậy, các nội
dung của nguyên tắc bảo đảm đảm quyền bào chữa tại Điều 16 Bộ luật TTHS
năm 2015 thể hiện tính nhân đạo, dân chủ, công bằng trong mô hình TTHS nước
ta, tạo ra khả năng minh oan cho người bị cáo buộc phạm tội; iii) Nguyên tắc bảo
4


đảm quyền bào chữa góp phần xác định sự thật của vụ án, bảo vệ công lý. Các
quy định về bảo đảm quyền bào chữa của Bộ luật TTHS năm 2015 hình thành cơ
chế bình đẳng giữa người bị cáo buộc phạm tội với cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ là lập luận trong

quá trình giải quyết vụ án. Vì thế, nó đã góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án, bảo vệ công lý. 3
2.2. Nội dung của nguyên tắc
a) Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
Quyền bào chữa của người bị buộc tội trước sự buộc tội của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng là một trong những quyền con người, được ghi
nhận tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội được thể hiện ở
việc: Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa
Quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa của người bị
buộc tội thể hiện ở những nội dung sau đây:
- Người bị buộc tội được biết lí do mình bị buộc tội:
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt có quyền được nghe,
nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, quyết định truy nã; được biết lí do mình bị giữ, bị bắt;

3 Nguyễn Ngọc Chí, Giáo trình các nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự: dành cho chương trình
đào tạo Sau đại học, Nxb. Đại học QG HN, Hà Nội, 2018, tr. 195- 204.

5


Người bị tạm giữ có quyền được biết lý do mình bị tạm giữ; nhận quyết
định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định gia
hạn tạm giữ và các quyết định tố tụng khác theo quy định của BLTTHS.
Bị can có quyền được biết lý do mình bị khởi tố; nhận quyết định khởi tố bị
can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ

sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm
đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết
định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của BLTTHS; bị can
có quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến
việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ
khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu.
Bị cáo có quyền nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ
vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy
định của BLTTHS.
- Người bị buộc tội được trình bày lời khai, trình bày ý kiến; đưa ra chứng
cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu đồ vật liên
quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá; tự bào chữa,
nhờ người bào chữa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc buộc tội mình.
Bị cáo có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham
gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; nói lời sau cùng
trước khi nghị án; xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung
vào biên bản phiên tòa; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.
6


- Người bị buộc tội có quyền bào chữa theo hướng có lợi hơn so với sự
buộc tội của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Cụ thể là bào chữa
mình vô tội hoặc phạm tội nhẹ hơn, chỉ phải chịu hình phạt nhẹ hơn, được hưởng
án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, chịu mức bồi thường thiệt hại
ít hơn… so với sự buộc tội của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Người bị buộc tội có quyền nhờ người khác bào chữa. Để thực hiện việc
bào chữa cho người bị buộc tội, người bào chữa có các quyền được quy định tại

khoản 1 Điều 73 Bộ luật TTHS năm 2015.
Trong trường hợp sau đây, nếu người đại diện hoặc người thân thích của
người bị buộc tội không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ: bị can, bị cáo mà Bộ luật hình
sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử
hình; người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi (khoản 1 Điều 76
Bộ luật TTHS năm 2015)
b) Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự được thể
hiện như sau:
- Bị hại, đương sự có quyền được thực hiện các biện pháp hợp pháp để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bị hại, đương sự có quyền
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu,
đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra,
đánh giá; đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; được
thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án; đề nghị thay đổi người có thẩm
7


quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên
dịch, người dịch thuật; đề nghị mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi
thường; tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo
và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; tự bảo vệ, người người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; tham gia các hoạt động tố tụng theo quy
định của BLTTHS; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những vấn đề
trực tiếp liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo Điều 484 và
khoản 1 Điều 486 BLTTHS năm 2015.4

- Bị hại có quyền được đề nghị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp bảo vệ và được bồi thường thiệt hại, khôi phục danh dự, bảo đảm các quyền
và lợi ích hợp pháp trong thời gian bảo vệ khi có căn cứ xác định tính mạng, sức
khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của họ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại do
việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm.
- Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông
báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy
đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo các quy định của
BLTTHS.
- Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm áp dụng
những biện pháp được quy định trong BLTTHS để bảo vệ bị hại khi có căn cứ
xác định tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của họ bị xâm hại
hoặc bị đe dọa xâm hại do việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan
đến tội phạm theo Điều 486 BLTTHS năm 2015.5
4 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Phạm Mạnh Hùng (biên soạn), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.45 – 49.
5 Phạm Mạnh Hùng (chủ biên), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015, Nxb Lao Động , Hà Nội, năm
2018, tr. 37 – 39.

8


III. ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
3.1. Về phương diện lập pháp
Pháp luật tố tụng hình sự cần được xây dựng theo hướng: Xác định rõ trách
nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng; có cơ chế cụ thể bảo đảm cho người bị
buộc tội và bị hại, đương sự thực hiện quyền của mình trong từng giai đoạn tố
tụng khác nhau.
Thứ nhất, quy định “suy đoán vô tội” là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS
năm 2015: Nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần nâng cao năng lực và trách

nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự, loại trừ trường hợp chỉ chứng minh
một chiều theo hướng suy đoán có tội và định kiến người bị buộc tội. Nguyên tắc
suy đoán vô tội còn bảo vệ được quyền của người bị buộc tội, tạo ra sự cân bằng
trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là các cơ quan tiến hành tố tụng
với chức năng buộc tội và một bên là người bị buộc tội với chức năng bào chữa.
Đây là nguyên tắc tiến bộ, bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và
lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đặt ra yêu cầu cao hơn cho
những người tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm.
Theo Hiến pháp năm 2013, tinh thần của nguyên tắc quy đoán vô tội đã
được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 31 “Người bị buộc tội được coi là không có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật”. Cụ thể hóa tinh thần Hiến pháp năm 2013, Điều 13
BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên quy định nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị
buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật.

9


Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Như vậy, BLTTHS năm 2015 là văn bản pháp lý đầu tiên ghi nhận chính
thức nguyên tắc suy đoán vô tội. Quy định như trên nhằm bảo đảm phù hợp với
Công ước của Liên Hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà
Việt Nam là thành viên. Nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa, cũng như bảo đảm quyền của người bị bắt, bị tạm giữ,
bị can, bị cáo được trình bày lời khai, ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

Thứ hai, ngoài ba chủ thể có quyền bào chữa là người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, người bị bắt cũng có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho
mình (điểm g khoản 1 Điều 58). Như vậy, cùng với sự mở rộng diện người được
bào chữa thì thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng cũng sớm hơn, nếu như
trước đây, người bào chữa được tham gia bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội
từ khi bị tam giữ thì theo BLTTHS mới, người bào chữa được tham gia tố tụng
và bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội ngay từ khi bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt. Quy định như vậy không chỉ nhằm thực hiện tốt hơn việc
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội mà còn là một trong những
giải pháp để hạn chế oan, sai ngay từ đầu.
Thứ ba, mở rộng diện người bào chữa gồm cả Trợ giúp viên pháp lý để bào
chữa miễn phí cho những đối tượng thuộc diện chính sách: Theo quy định tại
Điều 21 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, Trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng
với tư cách người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người
bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự. Tại Điều 10 Thông tư liên
10


tịch số 11 ngày 04/7/2013 của liên Bộ Tư pháp – Tài chính – Công an – Quốc
phòng – Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng quy định
người tham gia trợ giúp pháp lý được cấp Giấy chứng nhận để tham gia tố tụng
với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS
năm 2003 chỉ quy định người bào chữa gồm: Luật sư; người đại diện hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
Như vậy, theo các quy định trên thì Trợ giúp viên pháp lý chỉ được tham gia
tố tụng để bào chữa với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; dẫn đến việc tổ chức triển
khai trợ giúp pháp lý gặp nhiều khó khăn.

Chính vì vậy, khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung Trợ giúp
viên pháp lý là người bào chữa: “Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người
bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.” Quy định mở rộng diện
người bào chữa không chỉ nhằm tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ tốt hơn quyền,
lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội mà còn phù hợp với nhu cầu và điều kiện
thực tiễn hiện nay, khi đa phần Trợ giúp viên pháp lý đều không có Thẻ Luật sư
nên khó khăn trong việc tiếp cận và bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội.
Thứ tư, mở rộng các trường hợp bắt buộc cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định
bào chữa: Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự là quy
định mang tính nhân đạo của pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Theo đó, trong
một số trường hợp đặc thù, do tính chất và hậu quả của tội phạm, hoặc do hạn
chế về năng lực nhận thức, năng lực hành vi, dù bị can, bị cáo không mời người
bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải chỉ định người bào chữa để
đảm bảo quyền lợi cho họ. Ngoài các trường hợp bắt buộc phải có người bào
chữa là bị can, bị cáo phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình;
11


bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần
thì BLTTHS năm 2015 còn mở rộng thêm người có mức cao nhất của khung
hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân cũng thuộc diện bắt buộc phải có người
bào chữa. Vì đây là những trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, hậu quả
pháp lý rất lớn. Do đó, mở rộng diện người thuộc trường hợp chỉ định bào chữa
như trên không chỉ có ý nghĩa nhân đạo mà còn có ý nghĩa to lớn trong nỗ lực
bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự.
Thứ năm, quy định bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài
liệu được số hóa: Điểm i khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định, bị can
có quyền “Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến
việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ
khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu”. Đây là điểm mới quan trọng trong nỗ lực

bảo đảm quyền cơ bản của bị can tuy nhiên khi thực hiện quyền này, cần lưu ý
một số vấn đề sau:
– Phạm vi tài liệu bị can được đọc là các tài liệu có liên quan đến việc buộc
tội, gỡ tội, ví dụ như lời khai, bản cung, biên bản định giá để xác định giá trị tài
sản trong trường hợp bị can bị khởi tố về tội trộm cắp tài sản; lời khai, bản cung,
kết luận giám định thương tích trong trường hợp bị can bị khởi tố về tội cố ý gây
thương tích…
– Thời điểm được đọc tài liệu là kể từ sau khi kết thúc điều tra. Để được đọc
tài liệu, bị can phải thể hiện yêu cầu của mình.
– Phương pháp, cách thức để đọc tài liệu là đọc trên bản sao hoặc tài liệu đã
được số hóa. Quy định như vậy nhằm vừa bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của

12


bị can, vừa bảo đảm an toàn, tránh trường hợp bị can cố ý hủy hoại tài liệu
gốc…6
3.2. Về phương diện thực hiện pháp luật
- Nguyên tắc khi thực hiện quyền bào chữa cho người bị buộc tội là cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm giải thích đầy đủ các quy
định về quyền bào chữa. Để thực hiện tốt điều này, trong các giai đoạn tố tụng
phải lập biên bản về việc giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội,
trong đó có quyền bào chữa, người bị buộc tội phải ký xác nhận là đã được giải
thích các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Các biên bản này phải
được lưu tại hồ sơ vụ án như một quy định bắt buộc.
- Để đảm bảo tốt nhất cho yêu cầu lựa chọn người bào chữa, các Đoàn luật
sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý cần có danh sách các luật sư và trợ giúp viên pháp
lý (ghi rõ địa chỉ liên hệ, điện thoại, khái quát về năng lực...) gửi đến các cơ sở
tạm giữ, tạm giam, được niêm yết công khai.
- Để đảm bảo tốt nhất cho quyền bào chữa, các nhà tạm giữ, trại tạm giam

cần có phòng riêng cho việc tiếp xúc giữa người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm
giam với người bào chữa.
Xây dựng quy chế làm việc của người bào chữa khi tiếp xúc với người bị
bắt, người bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ, trại tạm giam hoặc cơ sở giam
giữ khác và được áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước.
- Cần có quy định hướng dẫn sau khi người bào chữa đăng ký bào chữa cho
người bị buộc tội thì họ có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng tạm hoãn các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian hợp
lý để họ có đủ thời gian nghiên cứu về vụ việc thực hiện quyền bào chữa.
6 ThS, NCS Tôn Thiện Phương, Quyền bào chữa của người bị buộc tội theo BLTTHS năm 2015, Tạp chí
Kiểm sát số 10 – 2016.

13


- Trong trường hợp đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo mới lựa
chọn người bào chữa và người bào chữa có yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải tạm
hoãn phiên tòa để người bào chữa có đủ thời gian tiếp xúc với bị cáo và nghiên
cứu hồ sơ vụ án.
- Để tăng cường việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, Luật
Trợ giúp pháp lý cần mở rộng phạm vi hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý.
Đồng thời, cần quy định trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng trợ giúp
pháp lý miễn phí hoặc là thành viên của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà
người bị buộc tội không có yêu cầu lựa chọn luật sư bào chữa thì cơ quan tiến
hành tố tụng phải có văn bản đề nghị Trung tâm trợ giúp pháp lý (nếu thuộc đối
tượng trợ giúp pháp lý) hoặc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (nếu thuộc
thành viên Mặt trận) cử người bào chữa cho họ. Trường hợp người bị buộc tội từ
chối người bào chữa là trợ giúp viên pháp lý hoặc bào chữa viên nhân dân thì
vẫn tiếp tục các hoạt động tố tụng. Nếu vi phạm thì tùy từng trường hợp có thể
trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc hủy án để xét xử lại.

- Trại tạm giam, nhà tạm giữ và cơ sở giam giữ cần tạo điều kiện cho người
bị buộc tội muốn tự mình bào chữa được tiếp xúc với các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan. Hội đồng xét xử cần tạo điều kiện và cho phép bị cáo có
quyền mang các tài liệu, văn bản liên quan để thực hiện quyền bào chữa của
mình.7
KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên về nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” trong
tố tụng hình sự, ta có thể thấy được tầm quan trọng và tác động của nguyên tắc
7 ThS Hà Thái Thơ & ThS Huỳnh Xuân Tình, Đảm bảo quyền bào chữa theo quy định của Hiến pháp
2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Tạp chí Lý luận chính trị số 7 – 2016.

14


này tới quá trình thực hiện tố tụng của các chủ thể có thẩm quyền. Từ đó, góp
phần hình thành những kiến nghị sửa đổi để các quy định này trên thực tiễn sẽ
được áp dụng một cách đúng đắn và hiệu quả hơn, góp phần tích cực vào công
cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, cải cách tư pháp của nước ta.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013;
2. BLTTHS của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2015;
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2018;
4. Nguyễn Ngọc Chí, Giáo trình các nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng
hình sự: dành cho chương trình đào tạo Sau đại học, Nxb. Đại học QG HN, Hà

Nội, 2018;
5. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Phạm Mạnh Hùng (biên soạn), Giáo
trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội,
2016;
6. Phạm Mạnh Hùng (chủ biên), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015,
Nxb Lao Động , Hà Nội, năm 2018;
7. ThS Hà Thái Thơ & ThS Huỳnh Xuân Tình, Đảm bảo quyền bào chữa
theo quy định của Hiến pháp 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Tạp chí Lý
luận chính trị số 7 – 2016;
8. ThS, NCS Tôn Thiện Phương, Quyền bào chữa của người bị buộc tội
theo BLTTHS năm 2015, Tạp chí Kiểm sát số 10 – 2016.

16


MỤC LỤC

Trang

17



×