Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.74 KB, 50 trang )


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. KHÁI NIỆM KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ KHÁI NIỆM KHỞI TỐ
VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
“Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó
cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết
định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án.”
1
* Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng và là giai đoạn
tố tụng độc lập bởi giai đoạn này có nhiệm vụ riêng mang đặc thù về chủ thể tố
tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Chủ thể có quyền khởi tố vụ án hình sự
là những cơ quan có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS 2003. Nhiệm vụ
của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay không có dấu hiệu tội
phạm để từ đó ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự – những
văn bản tố tụng đặc trưng của giai đoạn này. Tuy nhiên, tính độc lập của giai
đoạn khởi tố vụ án cũng như các giai đoạn khác trong quá trình tố tụng chỉ mang
tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau; giai đoạn
trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai
đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Quyết định khởi tố vụ án là cơ sở pháp lý đầu
tiên để thực hiện các hoạt động điều tra. Khi chưa có quyết định khởi tố vụ án
thì không được tiến hành các hoạt động điều tra cũng như áp dụng các biện pháp
ngăn chặn.
2
Quyết định khởi tố vụ án làm phát sinh quan hệ pháp luật TTHS
giữa cơ quan có thẩm quyền, người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng.
* Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự bao gồm cơ quan tiến hành
1


. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà N?i 2006, tr. 235.
2
. Trừ trường hợp khám nghiệm hiện trường để thu thập dấu vết tội phạm; bắt người trong trường hợp khẩn cấp,
tạm giữ và khám xét trong các trường hợp này.
tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) và các cơ quan khác (Cơ quan
Hải quan, Kiểm lâm, đơn vị Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển và các
cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra):
- Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự:
+ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra:
Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân quyết định khởi tố vụ án hình sự
đối với tất cả các tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ
quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân quyết định khởi tố vụ án hình sự
đối với những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định khởi tố vụ
án hình sự đối với những tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm
tội là cán bộ thuộc cơ quan tư pháp.
+ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Viện kiểm sát quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp: Khi thấy
quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan khác trong
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra, lực lượng Cảnh sát biển, đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải
quan, Kiểm lâm không có căn cứ thì Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định đó và ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự. Viện kiểm sát cũng có quyền quyết định khởi
tố vụ án hình sự trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
+ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử
Hội đồng xét xử khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên toà

phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
- Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan khác
+ Đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình thì có thẩm quyền khởi tố vụ án.
+ Các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình
sự khi thực hiện nhiệm vụ mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra của mình.
* Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay không có
dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ
án. Để thực hiện nhiệm vụ này cơ quan có thẩm quyền sau khi tiếp nhận tố giác,
tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, trong phạm vi thẩm quyền của mình
và thời hạn luật định phải tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh các tin tức
về tội phạm bằng những biện pháp như:
- Kiểm tra giấy tờ tuỳ thân, hộ khẩu, đăng ký tạm trú của người bị tố cáo;
yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân có liên quan đến sự
việc cung cấp những tài liệu cần thiết.
- Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có liên quan giải thích rõ sự
việc nhằm mục đích làm rõ dấu hiệu tội phạm. Khi yêu cầu giải thích, cơ quan
có thẩm quyền không được áp dụng các biện pháp hỏi cung hoặc cưỡng chế tố
tụng đối với người được yêu cầu giải thích.
- Khi cần thiết phải kiểm tra nội bộ cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội thì
phải yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan tự kiểm tra hoặc yêu cầu cơ quan thanh
tra tiến hành thanh tra để làm rõ sự việc.
- Nếu bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì tiến
hành lấy lời khai của người bị bắt.
- Trong trường hợp cần thiết thì khám nghiệm hiện trường và tiến hành các
biện pháp khác theo quy định của BLTTHS để xác định dấu hiệu tội phạm.

* Quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự
Quyết định khởi tố vụ án hình sự được ra khi cơ quan có thẩm quyền khởi
tố xác định có dấu hiệu tội phạm. Đây là cơ sở pháp lý để thực hiện việc điều
tra. Trong quyết định khởi tố vụ án, bên cạnh thời gian, điều khoản của BLHS,
họ tên, chức vụ của người ra quyết định còn phải ghi rõ căn cứ khởi tố vụ án.
Việc ghi rõ căn cứ khởi tố vụ án trong quyết định giúp cho người có thẩm quyền
ra quyết định phải cân nhắc kỹ, tránh sự hời hợt, qua loa, đồng thời nâng cao
trách nhiệm của người có thẩm quyền. Để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự,
Điều 100 BLTTHS 2003 chỉ quy định một căn cứ duy nhất để khởi tố đó là dấu
hiệu tội phạm đã được xác định. Đồng thời điều luật cũng quy định các cơ sở để
xác định dấu hiệu tội phạm. Các cơ sở đó bao gồm: Tố giác của công dân; Tin
báo của cơ quan tổ chức; Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ
quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác trong Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; Người phạm tội tự thú.
Như vậy, 5 nguồn thông tin trên đây mới chỉ là những cơ sở ban đầu để cơ
quan có thẩm quyền xác minh, thẩm tra để từ đó xác định có hay không có căn
cứ để khởi tố vụ án. Hay nói cách khác, những nguồn thông tin đó chưa phải là
căn cứ khởi tố mà chỉ là nguồn, là cơ sở hàm chứa những thông tin cho phép đi
đến kết luận có dấu hiệu tội phạm hay không để khởi tố vụ án hình sự. Điều này
phù hợp với quy định của Điều 100 BLTTHS 2003 vì điều luật chỉ quy định 5
nguồn thông tin này là cơ sở để xác định dấu hiệu tội phạm từ đó làm căn cứ
khởi tố vụ án.
3
Theo quy định của BLTTHS 2003 khi xác định có sự việc xảy ra và sự việc
đó có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án.
Còn nếu thấy có một trong bảy căn cứ được quy định tại Điều 107 BLTTHS 2003
thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Quyết định
không khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý của người có thẩm quyền khởi tố

3
. Theo Giáo trình luật tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội, 5 nguồn thông tin trên là cơ sở khởi tố
vụ án hình sự. Xem Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà
Nội 2006, tr. 245.
xác định thông tin về tội phạm hoặc một sự việc nào đó không có căn cứ khởi tố
vụ án hình sự. Các căn cứ đó bao gồm: Không có sự việc phạm tội; Hành vi
không cấu thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa
đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản
án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
1.1.2. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại lần đầu tiên được quy
định trong BLTTHS 1988 và sau đó, trên cơ sở kế thừa, BLTTHS 2003 tiếp tục
quy định với những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với đòi hỏi của thực tế. Tuy
nhiên, cả hai BLTTHS đều không đưa ra khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của người bị hại. Mặc dù vậy, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại được xem là trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự, cho nên
nó sẽ có những đặc điểm chung của khởi tố vụ án hình sự.
Đối với các vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, giai
đoạn khởi tố vẫn được xác định là giai đoạn mở đầu của quá trình tố tụng. Tuy
nhiên, trong giai đoạn khởi tố của những vụ án hình sự chỉ được khởi tố khi có
yêu cầu của người bị hại cần có yêu cầu khởi tố vụ án từ phía người bị hại. Nếu
không có yêu cầu khởi tố của người bị hại thì Cơ quan điều tra không được ra
quyết định khởi tố vụ án. Đây là điểm khác biệt so với giai đoạn khởi tố của các
vụ án hình sự khác.
Về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Như đã
phân tích ở trên, cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án gồm các cơ quan tiến
hành tố tụng và các cơ quan khác. Nhưng với những vụ án hình sự được khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại, không phải cơ quan nào trong số các cơ quan có

thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự đều được khởi tố. Các cơ quan như đơn vị Bộ
đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển… do chỉ
có thẩm quyền khởi tố vụ án khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực
quản lý của mình nên có thể khẳng định các cơ quan này không có thẩm quyền
khởi tố vụ án do người bị hại yêu cầu. Còn về phía các cơ quan tiến hành tố
tụng, thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại chỉ thuộc
về một số cơ quan nhất định, đó là Cơ quan cảnh sát điều tra trong Công an nhân
dân và Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân. Viện kiểm sát, Toà
án, Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và Cơ
quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao không có thẩm quyền khởi tố
những vụ án hình sự chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại do các cơ
quan này chỉ được quyền khởi tố vụ án trong những trường hợp nhất định hoặc
đối với một số loại tội phạm cụ thể theo quy định. Chẳng hạn như Cơ quan an
ninh điều tra trong Công an nhân dân ra quyết định khởi tố vụ án đối với các tội
xâm phạm an ninh quốc gia hay Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao có thẩm quyền khởi tố vụ án về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà
người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp. Từ đây có thể thấy, mặc dù
luật không quy định rõ nhưng có thể khẳng định rằng chỉ những cơ quan nào có
thẩm quyền khởi tố đối với 11 trường hợp phạm tội được quy định tại khoản 1
Điều 105 BLTTHS 2003 thì cơ quan đó mới có thẩm quyền khởi tố đối với các
vụ án chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.
Trong các vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, để xác định
dấu hiệu tội phạm thì sau khi có yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại Cơ quan
Điều tra phải tiến hành các hành vi tố tụng như đối với các vụ án thông thường.
Nếu chưa có yêu cầu của người bị hại, Cơ quan điều tra vẫn có thể xác minh,
kiểm tra tin báo, tố giác về tội phạm nhưng không được ra quyết định khởi tố vụ
án. Trong một số trường hợp, người bị hại không biết họ có quyền yêu cầu khởi
tố vụ án thì Cơ quan điều tra phải thông báo cho người bị hại biết, hỏi họ có yêu
cầu khởi tố vụ án không và hướng dẫn họ làm các thủ tục cần thiết.
Đối với các vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, một vấn đề

được đặt ra là yêu cầu của người bị hại là cơ sở để xác định dấu hiệu tội phạm
hay là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự?
Có quan điểm cho rằng "yêu cầu của người bị hại là một dạng đặc biệt của
tố giác".
4
Giữa yêu cầu của người bị hại và tố giác của công dân có nhiều điểm
tương đồng: Một là,"tố giác hay yêu cầu của người bị hại đều là việc thông báo
với các cơ quan có trách nhiệm về một tội phạm đã xảy ra".
5
Hai là, chủ thể tố
giác và người yêu cầu khởi tố đều là cá nhân; Ba là, cả tố giác và yêu cầu của
người bị hại đều được thể hiện dưới dạng văn bản hoặc lời nói. Bên cạnh đó,
BLTTHS 2003 cũng chỉ quy định trình tự, thủ tục để giải quyết tố giác của công
dân, nên "nếu cho rằng yêu cầu của người bị hại không phải là một dạng của tố
giác thì yêu cầu đó sẽ được giải quyết theo trình tự, thủ tục nào?".
6
Tuy nhiên,
yêu cầu của người bị hại không hoàn toàn là tố giác: Chủ thể yêu cầu khởi tố vụ
án chỉ có thể là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại, còn
chủ thể tố giác có thể chính là người bị hại hoặc bất kỳ người nào biết về sự việc
đó; Yêu cầu khởi tố vụ án là quyền của người bị hại còn tố giác vừa là quyền
vừa là nghĩa vụ của công dân; Nội dung của yêu cầu khởi tố ngoài báo tin về tội
phạm còn là sự mong muốn pháp luật trừng trị kẻ phạm tội còn nội dung tố giác
là báo tin về tội phạm (thời gian, địa điểm…). Nhưng cũng có quan điểm cho
rằng yêu cầu khởi tố vụ án là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố vụ án vì "trong quyết định khởi tố phải ghi rõ căn cứ khởi tố, một trong
những căn cứ khởi tố các tội quy định tại Điều 88 BLTTHS
7
là yêu cầu của
người bị hại".

8
Quan điểm này chưa thực sự hợp lý vì theo quy định tại Điều 100
BLTTHS 2003, dấu hiệu của tội phạm đã được xác định là điều kiện cần và đủ
để cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án. Đối với các trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố
vụ án trên cơ sở sự kết hợp của hai yếu tố: có dấu hiệu của tội phạm và có yêu
cầu của người bị hại. Nếu không có dấu hiệu của tội phạm thì dù người bị hại có
yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền cũng không được ra quyết định khởi tố vụ án và
4
. Nguy?n H?i Long, Trao d?i v? éi?u 88 BLTTHS, T?p chớ TAND s? 3/1996, tr.15
5
. Tài li?u dó d?n, tr. 15
6
. Tài li?u dó d?n, tr. 15
7
. éi?u 88 BLTTHS 1988 tuong ?ng éi?u 105 BLTTHS 2003 (Tỏc gi? chỳ thớch)
8
. Tài li?u dó d?n, tr. 15
ngược lại, nếu không có yêu cầu của người bị hại thì dù xác định có dấu hiệu
của tội phạm cơ quan thẩm quyền cũng không được khởi tố vụ án. Hay nói cách
khác, với vụ án hình sự khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, điều kiện cần là
yêu cầu khởi tố của người bị hại và điều kiện đủ đó là có dấu hiệu tội phạm đã
được xác định. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là nếu không có yêu cầu của
người bị hại thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định không khởi tố vụ án vì quyết
định không khởi tố vụ án chỉ đựoc ra khi có một trong bảy căn cứ được quy định
tại Điều 107 BLTTHS 2003.
Từ những phân tích trên đây có thể nói khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại là việc ra quyết định khởi tố do cơ quan có thẩm quyền tiến
hành theo yêu cầu của người bị hại sau khi xác định một sự việc xảy có dấu hiệu
của một số tội phạm theo quy định của BLHS 1999.

1.2. KHÁI NIỆM CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU
CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI VÀ CƠ SỞ CỦA VIỆC THIẾT LẬP CHẾ ĐỊNH
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1.2.1. Khái niệm chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một chế định pháp
luật. “Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung
giống nhau nhằm để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng”.
9
Như
vậy, theo định nghĩa này, chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm pháp
luật có đặc điểm chung và cùng điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định,
không đòi hỏi các quy phạm này phải được sắp xếp trong cùng một chương,
mục. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một chế định như
thế. Thuật ngữ chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại đã
được một số tác giả đề cập.
10
Trong BLTTHS 2003, chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu người bị
9
. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội 2006, tr. 402.
10
. Vũ Gia Lâm, Vấn đề đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án trong TTHS, Tạp chí Luật học, Hà Nội 2003, số……,
tr 45; Nguyễn Hữu Cầu, Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại đối với tội cố ý gây thương tích -
Một số bất cập nảy sinh từ thực tiễn, Tạp chí TAND số 6 /2002, tr. 17.
hại không được quy định thành một chương riêng và các quy định của chế định
tập trung xung quanh hai vấn đề là yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và rút yêu cầu
khởi tố vụ án của người bị hại.
Thứ nhất, vấn đề yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại được quy định tại
khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 với nội dung “Những vụ án về các tội phạm
được quy định tại khoản 1, các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121,

122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người
bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.” Quy định này đã chỉ ra
chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và các trường hợp chỉ được khởi
tố khi có yêu cầu của người bị hại. Ngoài ra vấn đề này còn được điều chỉnh bởi
khoản 3 Điều 51 BLTTHS 2003, theo đó nếu vụ án do người bị hại yêu cầu
được Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố và giải quyết theo thủ tục chung thì
tại phiên tòa, người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời
buộc tội. Trong trường hợp Hội đồng xét xử tuyên bị cáo vô tội thì người đã yêu
cầu phải nộp tiền án phí theo quy định tại khoản 3 Điều 99 BLTTHS 2003.
Thứ hai là vấn đề rút yêu cầu khởi tố vụ án của người đã yêu cầu. Khoản 2
Điều 105 BLTTHS 2003 quy định người đã yêu cầu khởi tố có quyền rút yêu cầu
của mình. Việc rút yêu cầu khởi tố vụ án của người đã yêu cầu dẫn đến hai hậu
quả pháp lý là vụ án được đình chỉ và người đã yêu cầu phải nộp tiền án phí. Theo
quy định tại khoản 2 Điều 164 BLTTHS 2003 thì Cơ quan điều tra ra quyết định
đình chỉ điều tra nếu người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trong giai đoạn điều tra.
Viện kiểm sát và Toà án sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án nếu trong giai đoạn truy
tố và giai đoạn xét xử nhưng trước ngày mở phiên toà sơ thẩm người đã yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu của mình (khoản 1 Điều 168 và Điều 180 BLTTHS 2003).
Riêng với việc nộp án phí thì theo quy định tại khoản 3 Điều 99 BLTTHS 2003,
nếu vụ án bị đình chỉ theo khoản 2 Điều 105 thì người bị hại phải nộp áp phí.
Như vậy, xét một cách tổng thể các quy phạm trong chế định khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại không có sự tập trung. Trong số các quy
phạm pháp luật của chế định này, Điều 105 BLTTHS 2003 được xem là quy
phạm trung tâm của chế định. Không chỉ quy định về chủ thể có quyền yêu cầu
khởi tố vụ án, các trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu, rút yêu cầu khởi tố,
Điều 105 BLTTHS 2003 còn quy định căn cứ để Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án được tiếp tục tiến hành tố tụng khi người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu và
căn cứ để người bị hại yêu cầu khởi tố lại vụ án hình sự. Bên cạnh đó, Điều 105
BLTTHS 2003 còn là điều luật dẫn chiếu. Khoản 3 các Điều 51, Điều 99, khoản 2

Điều 164, khoản 1 Điều 169, Điều 180 BLTTHS 2003 khi quy định về các vấn đề
khác của chế định đều có sự dẫn chiếu đến Điều 105 BLTTHS 2003.
Vậy, chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là tổng
hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình giải quyết yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại và việc rút yêu
cầu khởi tố vụ án của họ nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại,
đồng thời đảm bảo lợi ích Nhà nước, xã hội.
1.2.2. Cơ sở của việc thiết lập chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại
a. Cơ sở lý luận
Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề quyền
con người luôn là trung tâm của mọi cuộc cách mạng và tiến bộ xã hội. Với
quan điểm duy vật về lịch sử, triết học Mác- Lênin nói riêng, chủ nghĩa Mác-
Lênin nói chung đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về quyền con người, khẳng
định mối quan hệ gắn bó biện chứng giữa các quyền tự do cơ bản với các điều
kiện và biện pháp đảm bảo thực hiện quyền con người trong thực tế.
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là công cụ sắc bén
được Nhà nước sử dụng để quản lý và duy trì trật tự xã hội. Chính vì vậy, mọi
công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp
luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời. Có như vậy, mới giữ vững được
kỷ cương phép nước, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong xã hội đó, con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Chính vì vậy mà họ luôn
được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Họ không chỉ được bảo đảm các quyền tự
do dân chủ mà còn “có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm”.
11
Còn riêng với người bị
hại, họ là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do hành vi phạm
tội gây ra, quyền lợi của họ bị xâm hại, vì vậy Nhà nước đã quy định cho họ có

một quyền đặc biệt, đó là quyền được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Quy định
này nhằm mục đích tạo điều kiện cho người bị hại được cân nhắc, tính toán
việc khởi tố vụ án hình sự có gây bất lợi cho họ hay không? Tuy nhiên, những
trường hợp người bị hại được yêu cầu khởi tố cũng chỉ nằm trong giới hạn mà
Nhà nước và xã hội chấp nhận được nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều
được xử lý kịp thời, việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đúng người,
đúng tội và đúng pháp luật.
Trước khi có BLTTHS 1988, người bị hại không được pháp luật quy định
có quyền yêu cầu khởi tố vụ án mà thậm chí trong nhiều trường hợp người bị hại
làm đơn xin giảm nhẹ hoặc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt một cách
có tình, có lý cho người phạm tội cũng không được Toà án chấp nhận. Quan
niệm phổ biến lúc đó không chấp nhận việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại bởi: “Quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và
người phạm tội, trong đó với tư cách là người bảo vệ lợi ích của toàn xã hội,
Nhà nước có quyền khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội, buộc
người phạm tội phải chịu trách nhiệm tương ứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm mà họ đã gây ra”.
12
Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng cho
rằng, những vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại là các vụ
án tư tố, quyền yêu cầu của người bị hại là quyền tư tố bởi đó “là việc nhân
danh lợi ích cá nhân, riêng tư để tố giác hành vi sai phạm, tội phạm nào đó"
13
và "tư tố là một hình thức… mà pháp luật dành cho những người bị hại hoặc
11
. Điều 71 Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
12
. Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề lý luận về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, Tạp chí kiểm sát,
tháng 1/2006, tr 29.
13

. Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội, Bàn về quyền công tố, Hà Nội 2003, tr. 55
người thân thích của họ sử dụng để khởi kiện, khởi tố chống lại người thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội, xâm phạm các quyền và lợi ích cá
nhân”.
14
Như vậy, quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại sẽ mâu thuẫn với
quyền công tố của Nhà nước, vì quyền công tố là nhân danh lợi ích công cộng,
lợi ích Nhà nước để phát giác, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật. Một trong
những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS Việt Nam là nguyên tắc công tố, tức là
mọi hành vi phạm tội đều phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và Nhà nước
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bằng Hiến pháp, bằng pháp luật
và bằng cơ chế đảm bảo thực hiện. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại đến
quyền và lợi ích của công dân đều sẽ bị Nhà nước xử lý nghiêm minh.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu, tham khảo pháp luật của một số nước đặc biệt là
pháp luật tố tụng của Liên Xô, các nhà lập pháp cũng nhận thấy “quyền tư tố” của
người bị hại được xã hội chấp nhận khi nó ở trong giới hạn nhất định và không
làm ảnh hưởng đến quyền công tố của Nhà nước. Do đó, BLTTHS 1988 đã chính
thức ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
Khởi tố theo yêu cầu của người bị hại theo quy định của BLTTHS 1988 chỉ
áp dụng đối với những hành vi phạm tội có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp,
không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thuộc hai nhóm tội là các tội
xâm phạm sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người và các tội xâm phạm
quyền tự do dân chủ của công dân. Sau đó khi BLHS 1999 ban hành, do có sự
sửa đổi bổ sung trong phân nhóm tội phạm cũng như khi áp dụng vào thực tế,
chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại có những điểm hạn
chế, thiếu sót nên khi xây dựng BLTTHS 2003, bên cạnh việc ghi nhận chế định
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trên cơ sở kế thừa các quy
định của BLTTHS 1988, chúng ta đã có những sửa đổi, bổ sung nhất định.
Việc BLTTHS 2003 tiếp tục ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của người bị hại cho thấy sự cần thiết của chế định này trong hệ thống

pháp luật tố tụng hình sự của nước ta. Một mặt góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
14
. Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội, Bàn về quyền công tố, Hà Nội 2003, tr. 55
của người bị hại, mặt khác, vẫn bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, xã hội. Chế
định này thể hiện tính dân chủ, sự tôn trọng và cảm thông trước những thiệt hại
mất mát của người bị hại.
b. Cơ sở thực tiễn
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng có nhiệm vụ quan trọng, có tính
chất quyết định đến các hoạt động, các giai đoạn khác của quá trình tố tụng. Tuy
nhiên, không phải cứ phát hiện có dấu hiệu tội phạm rồi khởi tố vụ án là cơ quan
có thẩm quyền sẽ bảo vệ lợi ích của người bị hại một cách tốt nhất. Trong thực
tế, có những người bị hại chỉ bị thiệt hại về thể chất, có người bị hại chỉ bị thiệt
hại về tài sản, nhưng cũng có những người bị thiệt hại cả về thể chất, tinh thần
và tài sản. Đối với những thiệt hại về tài sản do tội phạm gây ra thì có thể khôi
phục được, còn đối với thiệt hại về tinh thần hoặc thể chất thì chỉ có thể bù đắp
được phần nào mà không thể khôi phục lại được như cũ. Trong đó, thiệt hại về
tinh thần là thiệt hại không thể tính toán được vì đó là những tổn thương vô
hình, những sợ hãi hoặc ám ảnh mà người bị hại không muốn nhắc lại và càng
không muốn bị công khai. Đối với những trường hợp này, cách tốt nhất là để
cho người bị hại và người gây thiệt hại chủ động giải quyết với nhau. Còn nếu
người bị hại thật sự muốn kẻ gây thiệt hại phải bị pháp luật trừng phạt thì sẽ yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền khởi tố và giải quyết vụ án.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu người bị hại là một chế định được quy
định và áp dụng khá phổ biến trong pháp luật một số nước.
Tại khoản 2 Điều 20 BLTTHS Liên Bang Nga quy định: “Các vụ án hình
sự về các tội phạm quy định tại các Điều 115, 116, khoản 1 Điều 129 và Điều
130 BLHS Liên Bang Nga được coi là các vụ án tư tố. Các vụ án này chỉ được
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ”.
Còn Điều 105 BLTTHS Trung Quốc quy định: “Những vụ án hình sự do người
bị hại tố cáo hoặc có tình tiết giảm nhẹ sẽ do một thẩm phán điều hành việc xét

xử”. Như vậy, pháp luật TTHS Trung Quốc cũng đã gián tiếp ghi nhận quyền
yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại.
Bên cạnh những quốc gia ghi nhận chế định khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại trong Luật TTHS thì có những quốc gia lại quy định yêu cầu khởi
tố của người bị hại là một yếu tố cấu thành tội phạm. Điều 22 Bộ luật hình sự
Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào quy định: “Chỉ bị coi là tội phạm khi có đơn
kiện của người bị hại. Nếu hành vi không nguy hiểm cho xã hội và nếu người bị
hại không có đơn kiện thì toà án sẽ không kết tội trong các trường hợp: Xâm
phạm thân thể giữa những người thân (nếu không gây thương tích nặng hay gây
thiệt hại về sức khoẻ), xúc phạm, vu khống, có hành vi thô bạo đối với thi thể
hay danh dự của người đã chết, xâm phạm tài sản của họ hàng thân thiết, xâm
phạm thô bạo đối với danh dự, bí mật riêng tư của gia đình, cá nhân. Việc
người bị hại rút đơn kiện sẽ chấm dứt quá trình tố tụng tại toà án”.
15
Hay Điều
135 BLHS Nhật Bản quy định: “Các tội phạm quy định tại chương các tội xâm
phạm bí mật chỉ được khởi tố theo đơn yêu cầu của người bị hại”. Còn luật hình
sự Cộng hoà dân chủ Đức đã đưa yêu cầu khởi tố của người bị hại như một yếu
tố cấu thành tội phạm đối với một số tội như: Vô ý gây thương tích, xâm phạm
đến sở hữu riêng, sử dụng xe không có giấy phép, xâm phạm sở hữu giữa những
người thân thuộc.
16

Như vậy, dù được quy định trong luật TTHS hay luật hình sự thì chế định
khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại vẫn thể hiện sự quan tâm của Nhà
nước đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người bị hại.
ở Việt Nam, qua thực tiễn xét xử cũng như thực tế cho thấy, mặc dù bị thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra nhưng có trường hợp người bị hại không muốn
đưa ra xử lý vì có thể ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín và tương lai
của họ hoặc giữa người bị hại và kẻ gây thiệt hại có những mối quan hệ nhất

định. Trong quá trình áp dụng chế định này cho thấy, mặc dù còn có nhiều
vướng mắc nhưng quy định này đã từng bước phát huy hiệu quả, quyền và lợi
ích của người bị hại đã được bảo vệ tốt hơn.
CHƯƠNG 2
15
. Bộ Tư pháp, Pháp luật hình sự một số nước. Tạp chí dân chủ và pháp luật số chuyên đề năm 1998.
16
. Võ Thọ, Một số vấn đề của Bộ luật tố tụng hình sự, NXB Pháp lý, năm 1995
NỘI DUNG CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
2.1. YÊU CẦU KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất.
a. Người bị hại
Khái niệm người bị hại lần đầu tiên được quy định trong Thông tư số 16/TATC ngày
27/09/1974 của TANDTC. Theo đó, người bị hại được định nghĩa "là công dân đã bị kẻ phạm
pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất, tài sản, hoặc xâm phạm về tinh thần (như bị lăng nhục,
đánh, giết, trộm cắp, lừa đảo )". Định nghĩa đã chỉ ra người bị hại là cá nhân, không thể là cơ
quan, tổ chức, đồng thời đối tượng tác động của tội phạm là thể chất, tinh thần hoặc tài sản của cá
nhân đó.
Sau đó, BLTTHS 1988 đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm người bị hại tại
khoản 1 Điều 39 như sau: "Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về
tài sản do tội phạm gây ra".
Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLTTHS 2003, "người bị hại là người bị thiệt hại
về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra".
Như vậy, giữa hai khái niệm về người bị hại trong hai BLTTHS không có sự thay đổi về
chất mà chỉ có sự thay đổi về hình thức, văn phạm ngắn gọn hơn. Đây có thể được coi là một
quy phạm định nghĩa nêu ra khái niệm pháp lý về người bị hại. Quy phạm này chứa đựng các

dấu hiệu để xác định người bị hại.
Về chủ thể, người bị hại chỉ có thể là cá nhân - một con người cụ thể. Pháp nhân hay tổ
chức không được coi là người bị hại.
Về thiệt hại, người bị hại bị tội phạm xâm phạm đến thể chất, tinh thần hoặc tài sản.
Thiệt hại về thể chất là bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ như bị giết, bị gây thương
tích… Thiệt hại về tinh thần là bị xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín như bị xỉ nhục,
vu khống, thoá mạ, miệt thị… Thiệt hại về tài sản là tài sản của người bị hại bị cướp, bị cưỡng
đoạt, bị trộm cắp…
Về nguồn gốc, thiệt hại của người bị hại do tội phạm trực tiếp gây ra bởi cái mà tội
phạm hướng đến chính là thể chất, tinh thần hoặc tài sản của người bị hại. Nhưng thế nào là
"do tội phạm gây ra?", theo tác giả Đinh Văn Quế: "khoa học luật hình sự chỉ coi là tội phạm
khi có đủ 4 yếu tố cấu thành và khi đã là tội phạm rồi thì lúc đó mới có người bị hại trong vụ
án hình sự".
17
Bên cạnh ba dấu hiệu luật định thì xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong TTHS khi họ được cơ
quan tiến hành tố tụng công nhận là người bị hại thông qua hành vi triệu tập họ đến khai báo
với tư cách người bị hại. Trong nhiều trường hợp, hành vi phạm tội không bị phát hiện và xử
lý hoặc không xác định được người bị thiệt hại thì mặc dù trên thực tế có người bị thiệt hại về
thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội trực tiếp gây ra nhưng người đó cũng không
thể trở thành người bị hại trong vụ án hình sự.
b. Người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
18
So với Điều 88 BLTTHS 1988, Điều 105 BLTTHS 2003 có quy định thêm
một chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, đó là người đại diện hợp
pháp của người bị hại. Đây được coi là một tiến bộ trong kỹ thuật luật pháp.
Không phải tất cả những người đại diện hợp pháp của người bị hại đều có quyền
yêu cầu khởi tố vụ án. Người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ có quyền
yêu cầu khởi tố vụ án khi người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược

điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Thứ nhất, khi người bị hại là người chưa thành niên. "Những người bị hại chưa
thành niên là những người theo quan điểm lập pháp của chúng ta chưa có đầy đủ
năng lực hành vi để thực hiện quyền chủ thể của mình. Họ chưa ý thức được một
cách đầy đủ những thiệt hại mà hành vi phạm tội gây ra cho họ và thiếu các điều
kiện chủ quan để tự bảo vệ những lợi ích của mình”.
19
Do đó, việc người đại diện
hợp pháp của người bị hại tham gia tố tụng là cần thiết và việc họ có quyền yêu
cầu khởi tố vụ án hình sự để bảo vệ quyền lợi cho người bị hại là hợp lý.
Thứ hai, khi người bị hại có nhược điểm về tâm thần. Khoản 1 Điều 105
BLTTHS 2003 sử dụng thuật ngữ "[người bị hại] có nhược điểm về tâm thần" là
không chính xác vì trên thực tế, người bị hại có thể trong tình trạng tâm thần hoặc
có nhược điểm về tâm thần. Nhược điểm về tâm thần là hạn chế trong việc nhận
17
. Đinh Văn Quế, Pháp luật hình sự thực tiễn và xét xử, NXB Lao động xã hội, 2003
18
. Sau đây gọi là người đại diện hợp pháp của người bị hại,
19
. Viện Khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự 2003, NXB Tư pháp, tr. 218.
thức hoặc điều khiển hành vi. Còn trong trường hợp người bị hại hoàn toàn không
có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì phải xác định là người bị hại tâm
thần chứ không phải là người bị hại có nhược điểm về tâm thần. Những người bị
hại tâm thần hoặc có nhược điểm về tâm thần bị hạn chế về khả năng hoặc không
có khả năng tự thể hiện được ý chí để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
nên người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Thứ ba, khi người bị hại là người có nhược điểm về thể chất. Người có
nhược điểm về thể chất là những người bị khuyết tật về thể chất như bị mù, bị
câm, bị điếc… Nhược điểm này tuy không làm mất khả năng nhận thức, điều
khiển hành vi của người bị hại nhưng có thể làm cho người bị hại không thể hiện

được hoặc thể hiện không đầy đủ yêu cầu của mình. Do đó, pháp luật quy định
cho người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
2.1.2. Các trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
Khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định 11 trường hợp mà cơ quan có
thẩm quyền chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của người bị hại:
a. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS: Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
20
Hậu quả của tội cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 1 là gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có tỷ lệ thương tật từ
11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy
định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS như: dùng hung khí nguy
hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại (điểm a), thực hiện hành vi nhiều lần đối với
cùng một người hoặc với nhiều người (điểm c)… Mức hình phạt cao nhất đối
với những trường hợp phạm tội thuộc khoản này là cải tạo không giam giữ đến
ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Như vậy, đây là hành vi phạm tội
ít nghiêm trọng, có thể giải quyết bằng bồi thường dân sự hoặc biện pháp
20
. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác. Xem Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2006, tập I, tr.404.
khác… Do đó, pháp luật quy định đối với những trường hợp này chỉ được khởi
tố khi có yêu cầu của người bị hại.
b. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 105 BLHS: Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh
So với hậu quả của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của người khác được quy định tại Điều 104 – BLHS, thì hậu quả của tội phạm

này ở mức nghiêm trọng hơn (tỉ lệ thương tật là từ 31% trở lên). Tuy nhiên, đây
lại là hậu quả của trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
21
- do lỗi của người bị
hại nên pháp luật hình sự quy định đây là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự và chế tài áp dụng cho những trường hợp phạm tội ở khoản 1 có thể là
hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến hai năm. Vì vậy mà BLTTHS 2003 quy định đây là một trong những
trường hợp chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại.
c. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 106 BLHS: Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng
22
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định là một tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Chủ thể thực hiện
hành vi phạm tội là nhằm bảo vệ lợi ích của mình, của Nhà nước hoặc của tổ
chức…nhưng do vượt quá giới hạn phòng vệ cho phép. Người bị hại là người có
lỗi vì họ đã gây ra tình huống nguy hiểm trước. Do đó, mặc dù hậu quả của hành
vi nguy hiểm là nghiêm trọng nhưng chủ thể tội phạm chỉ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự nếu có đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại
d. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 108 BLHS: Tội vô ý gây
21
. Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế
được hành vi phạm tội của mình. Xem Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC. Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội là do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng
của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân của người phạm tội gây ra. Xem Trường Đại học
luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2006, tập I, tr.380
22
. Theo quy định tại khoản 2 Điều 15 BLHS, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng
quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
23
Hành vi này do chủ thể tội phạm thực hiện với lỗi vô ý, vi phạm các quy tắc
đảm bảo an toàn về sức khoẻ con người trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội. Tỷ lệ thương tật tối thiểu là 31% và phải là hậu quả của hành vi phạm tội.
Mức hình phạt cao nhất của tội phạm này là đến hai năm tù (có thể có hình phạt
bổ sung). Người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có yêu cầu khởi
tố vụ án từ người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại.
đ. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 109 BLHS: Tội vô ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do lỗi vô ý; họ không cố
tình và cũng không có mâu thuẫn với người bị hại. Họ không mong muốn hậu
quả xảy ra.
Quy tắc an toàn trong trường hợp này là quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính. Do đó, đòi hỏi chủ thể phải có trách nhiệm cao hơn trong việc tuân
thủ các quy tắc này. Đây được xem là trường hợp phạm tội nặng hơn so với
trường hợp phạm tội do vô ý được quy định tại Điều 108 BLHS. Chính vì vậy,
khung hình phạt của tội này được quy định nặng hơn. Mức hình phạt cao nhất có
thể đến ba năm tù (có thể có hình phạt bổ sung). Tuy nhiên, tội phạm này vẫn
thuộc trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003.
e. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 111 BLHS: Tội hiếp dâm
24
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi giao cấu với phụ nữ trái ý
muốn của họ bằng các thủ đoạn: dùng vũ lực (dùng sức mạnh vật chất để đè bẹp
sự kháng cự của nạn nhân như xô ngã, bóp cổ nạn nhân…); đe doạ dùng vũ lực
(đe doạ gây thương tích, đe doạ giết…) nhằm làm tê liệt ý chí của nạn nhân; lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được (người phụ nữ bị ốm, bị say rượu…); thủ
23
. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác được hiểu là hành vi vô ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên. Xem Viện khoa học pháp
lý- Bộ tư pháp, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam 1999, NXB Chính trị quốc gia, tập II, quyển 1,
tr.88.
24
. Tội hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của
nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ. Xem Trường Đại học luật Hà Nội,
Giáo trình luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2006, tập I, tr.415
đoạn khác (cho dùng chất gây mê, lợi dụng sự kém hiểu biết…).
Điều 111 BLHS quy định 3 khung hình phạt. Chỉ khi nào tội phạm thuộc
khung hình phạt cơ bản được quy định tại khoản 1 (có mức hình phạt là từ hai
đến bảy năm tù) thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ mới có
quyền yêu cầu khởi tố vụ án.
f. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 113 BLHS: Tội cưỡng dâm
25
Người phạm tội có hành vi ép buộc bằng các thủ đoạn khác nhau người phụ
nữ lệ thuộc mình hoặc người phụ nữ đang ở trong tình trạng quẫn bách phải
miễn cưỡng giao cấu. Người bị hại là người phụ nữ bị lệ thuộc (sự lệ thuộc về
công tác, về kinh tế, nuôi dưỡng, tôn giáo) hoặc người phụ nữ đang trong tình
trạng quẫn bách (hoàn cảnh khó khăn, éo le…). Các thủ đoạn mà người phạm tội
sử dụng để khống chế nạn nhân có thể là đe doạ hoặc hứa hẹn… Từ đó, người
phụ nữ buộc phải giao cấu trong khi mình không muốn.
Điều 113 BLHS quy định ba khung hình phạt. Những tội phạm quy định ở
khoản 1 (mức hình phạt từ 6 tháng đến 5 năm tù) chỉ được khởi tố khi có yêu
cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại.
g. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 121 BLHS: Tội làm nhục
người khác
26
Hình thức biểu hiện của hành vi làm nhục người khác rất đa dạng, có thể là
những lời nói có tính chất thoá mạ, xỉ nhục, hạ thấp danh dự, chửi bới nhạo báng,
xúc phạm đến nhân phẩm nhưng cũng có thể là các hành vi, cử chỉ… có tính chất

bỉ ổi, xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác. Những
hành vi này có thể được thực hiện một cách trực tiếp, công khai trước mặt người
bị hại hoặc có thể được thực hiện gián tiếp thông qua những người khác.
Điều 121 BLHS quy định hai khung hình phạt, trong đó khung cơ bản được
quy định tại khoản 1 có mức hình phạt cao nhất là hai năm tù áp dụng đối với
trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng và không có tình tiết tăng nặng. Với những
25
. Tội cưỡng dâm là hành vi ép buộc bằng những thủ đoạn khác nhau người phụ nữ lệ thuộc mình hoặc người
phụ nữ đang trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu. Xem Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình
luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2006, tập I, tr.421.
26
. Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Xem Trường
Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2006, tập I, tr.431.
trường hợp phạm tội thuộc khoản này, nếu không có yêu cầu khởi tố từ phía
người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền không được khởi tố vụ án.
h. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 122 BLHS: Tội vu khống
Tội vu khống được hiểu là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa
đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Hành vi phạm tội của tội này có ba dạng: hành vi bịa đặt nhằm xúc phạm
danh dự hoặc nhằm gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác
(như đưa ra các thông tin không đúng sự thật, thông tin có nội dung xúc phạm đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín…); hành vi loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt
nhằm xâm phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác (người thực hiện hành vi không tự đưa ra thông tin không đúng sự
thật nhưng có hành vi loan truyền tiếp những thông tin mà người khác đã đưa
đến); hành vi bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm
quyền.
Khung cơ bản của tội này được quy định tại khoản 1 có mức hình phạt cao
nhất là đến hai năm tù, áp dụng cho trường hợp ít nghiêm trọng và không có tình

tiết tăng nặng. Trong trường hợp này, khi có yêu cầu của người bị hại thì cơ
quan có thẩm quyền mới được khởi tố vụ án.
i. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 131 BLHS: Tội xâm phạm
quyền tác giả
Tội phạm xâm phạm quyền nhân thân phi tài sản và quyền tài sản của tác
giả đối với tác phẩm được pháp luật bảo vệ.
Hành vi khách quan của tội phạm này bao gồm các dạng hành vi: chiếm
đoạt quyền tác giả; mạo danh tác giả trên các tác phẩm; sử dụng bất hợp pháp
nội dung của tác phẩm; công bố, phổ biến bất hợp pháp các tác phẩm.
Các hành vi trên cấu thành tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng hoặc khi
người thực hiện đã bị xử lý về hành chính hoặc bị kết án mà chưa được xoá án
tích về loại hành vi này.
Khoản 1 Điều 131 BLHS ngoài quy định về các dạng hành vi phạm tội còn
quy định về khung hình phạt cơ bản với mức hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến
200 triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm.
k. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS: Tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp
Tội phạm xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh
vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, đồng thời tội phạm cũng xâm phạm đến
lợi ích của tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ.
Hành vi khách quan của tội này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
như: hành vi chiếm đoạt (chiếm giữ bất hợp pháp) hoặc sử dụng bất hợp pháp
(sử dụng không được sự cho phép của chủ sở hữu hoặc sử dụng trong trường
hợp pháp luật cấm) các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ tại Việt Nam
như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại…
27
Hành vi trên cấu thành tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội này nhưng chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm.
Điều 171 quy định hai khung hình phạt, trong đó tại khung cơ bản (khoản

1) quy định hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc cải tạo
không giam giữ đến hai năm. Trong trường hợp này, người bị hại có thể yêu cầu
khởi tố vụ án để pháp luật bảo vệ quyền lợi cho mình.
Như vậy, 11 trường hợp phạm tội chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của
người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của họ hầu hết là những tội phạm
ít nghiêm trọng
28
(mức hình phạt cao nhất có thể là phạt tiền, cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ hoặc phạt tù đến hai hoặc ba năm), xâm phạm đến sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp của người bị hại
và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Chủ thể thực hiện tội phạm
này có thể là những người có mối quan hệ với người bị hại như người thân trong
gia đình, bạn bè, đồng nghiệp… Chính vì vậy việc khởi tố vụ án để truy cứu
27
. Khoản 2 Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
28
. Điều 8 – BLHS quy định: “ Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
hình phạt cao nhất đối với tội ấy là đến ba năm tù”
trách nhiệm hình sự người thực hiện tội phạm trong các trường hợp này có thể
gây thêm những tổn thất về tinh thần cho người bị hại. Do đó, pháp luật quy
định đối với các trường hợp trên chỉ được khởi tố vụ án khi có yêu cầu của
người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại. Quy định này
tạo điều kiện cho người bị hại và người thực hiện hành vi phạm tội giải quyết sự
việc với nhau bằng con đường thoả thuận, hoà giải. Người bị hại vừa được đền
bù một phần mất mát xảy ra, vừa giữ được tình cảm gia đình, bạn bè, đồng thời
giữ kín những chuyện đời tư của mình.
Tuy nhiên, pháp luật cho phép sự thể hiện ý chí của người bị hại trong việc
tự giải quyết các sự việc gây thiệt hại cho chính mình cũng chỉ trong giới hạn
mà xã hội chấp nhận được. Vì vậy, nếu như các tội phạm nói trên có tình tiết
thuộc các khung tăng nặng của điều luật tương ứng (khoản 2, 3, 4) thì cơ quan

tiến hành tố tụng sau khi xác định có dấu hiệu tội phạm sẽ quyết định khởi tố vụ
án mà không phụ thuộc vào ý chí của người bị hại hoặc của người đại diện hợp
pháp của họ. Trong trường hợp này hành vi phạm tội không chỉ xâm hại đến lợi
ích cá nhân người bị hại một cách nghiêm trọng mà còn gây nguy hại lớn cho xã
hội. Việc khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp này là cần thiết để góp phần
giữ vững kỷ cương pháp luật.
2.1.3. Hình thức, thời điểm yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại
Thứ nhất, về hình thức yêu cầu khởi tố. BLTTHS 2003 không có quy định
về vấn đề này, nhưng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-
VKSTC-BCA-BQP của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ Quốc
phòng ngày 07/09/2005 thì "yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc người đại
diện thể hiện bằng đơn yêu cầu có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ; nếu người bị
hại hoặc người đại diện đến trực tiếp trình bày thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát phải lập biên bản ghi rõ nội dung yêu cầu khởi tố và yêu cầu họ ký hoặc
điểm chỉ vào biên bản. Biên bản do Viện kiểm sát lập phải được chuyển ngay
cho cơ quan điều tra để xem xét vụ án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án". Như
vậy, yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp phải được thể hiện
bằng văn bản hoặc bằng lời nói đã được cơ quan có thẩm quyền ghi lại thành
văn bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người bị hại hoặc của người đại diện hợp
pháp của người bị hại mới được xem là yêu cầu đúng pháp luật. Với quy định
này có thể hiểu pháp luật muốn người có quyền yêu cầu khởi tố phải trực tiếp
thể hiện ý chí của mình và chịu sự ràng buộc nhất định với yêu cầu đó.
Thứ hai, thời điểm yêu cầu khởi tố vụ án. Đây là một vấn đề mà cả
BLTTHS 1988 và BLTTHS 2003 đều không có quy định. Tuy nhiên theo tinh
thần của khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003, thời điểm xuất hiện yêu cầu của
người bị hại hoặc của người đại diện hợp của người bị hại phải có trước thời
điểm ra quyết định khởi tố "chứ không thể cho thời điểm yêu cầu của người bị
hại phải xuất hiện chậm nhất là cùng thời gian với việc quyết định khởi tố vụ
án"
29

vì cơ quan tiến hành tố tụng "chỉ được khởi tố vụ án khi có yêu cầu của
người bị hại…". Đây là một quy định có tính chất bắt buộc đối với cơ quan có
thẩm quyền khởi tố. Còn nếu quyết định khởi tố vụ án rồi sau đó mới bổ sung
yêu cầu của người bị hại thì chế định "khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại" sẽ không có ý nghĩa.
2.1.4. Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Đối với những vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, khi đã được cơ quan
tiến hành tố tụng thụ lý và giải quyết thì hậu quả pháp lý đặc trưng nhất, đó là "người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà" (khoản 3 Điều 51
BLTTHS 2003). Việc người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày
lời buộc tội tại phiên toà được xem là hậu quả pháp lý đặc trưng vì nó chỉ phát sinh khi yêu
cầu khởi tố vụ án của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại được
chấp nhận và cũng chỉ có một chủ thể duy nhất trong số những người tham gia tố tụng được
trình bày lời buộc tội đó là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Còn nếu vụ án
không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp
pháp của họ thì những chủ thể này sẽ không được trình bày lời buộc tội tại phiên toà.
Lời buộc tội của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp là việc họ bày tỏ tâm tư
nguyện vọng của mình, họ tự phán xét hành vi phạm tội và mong muốn kẻ phạm tội phải bị
trừng phạt ở mức độ phù hợp với những thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Đa số, người bị hại
29
. Lê Sỹ Quế, Những khó khăn khi áp dụng Điều 88 B.L.T.T.H.S, Tạp chỉ TAND số 1/1996, tr.28

×