Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.27 KB, 35 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
I. KHÁI NIỆM CHIẾN LƯỢC KINH DOANH.
1. Các quan điểm tiếp cận chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp.
Thuật ngữ chiến lược có nguồn gốc từ rất lâu, trước đây thuật ngữ này
lần đầu tiên được sử dụng trong quân sự. Ngày nay, thuật ngữ này đã được
sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực: kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội. Đặc
biệt là trong lĩnh vực kinh tế ở cả phạm vi vĩ mô và vi mô. Ở phạm vi vĩ mô
chúng ta có thể có các khái niệm như: “chiến lược phát triển ngành”, “chiến
lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu”, ở phạm vi vi mô thuật ngữ chiến
lược cũng có sự kết hợp với các khái niệm, phạm trù quản lý doanh nghiệp
hình thành các thuật ngữ “chiến lược marketing”, “chiến lược sản xuất”,
“chiến lược kinh doanh”...
Sự xuất hiện khái niệm chiến lược kinh doanh không chỉ đơn thuần là
vay mượn khái niệm mà bắt nguồn từ sự cần thiết phản ánh thực tiễn khách
quan của quản lý doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Sau đây chúng ta tìm hiểu một số cách tiếp cận chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.1 Quan điểm cổ điển.
Quan điểm này xuất hiện từ trước những năm 1960, theo quan điểm này
thì doanh nghiệp có thể kế hoạch hóa, tối ưu hóa tất cả các yếu tố đầu vào để
từ đó tạo ra được lợi thế cạnh tranh dài hạn nhằm đạt được mục tiêu hiệu
quả và tối ưu hóa lợi nhuận. Vì vậy, trong thời kỳ này các doanh nghiệp sử
dụng nhiều hàm sản xuất và máy tính nhằm tối ưu hóa lợi nhuận.
Thực tế, đến năm 1970 cách tiếp cận này mất ý nghĩa, vì đã không đề cập
đến môi trường bên ngoài của doanh nghiệp và toàn bộ hoạt động của doanh
nghiệp đều do kế toán trưởng và giám đốc chỉ đạo. Mặt khác, lúc này đã hình
thành các khu vực như Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Tây Âu, Đông âu... chi phối lên toàn
bộ hoạt động của các doanh nghiệp. Lúc đó xuất hiện sự cạnh tranh giữa các


khu vực, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tiếng nói chung phối hợp lẫn nhau
và phải tính đến các yếu tố của cạnh tranh.
1.2 Quan điểm tiến hoá .
Quan điểm này coi “Doanh nghiệp là một cơ thể sống và nó chịu tác động
của môi trường bên ngoài, đồng thời cơ thể sống tự điều chỉnh chính mình để
thích nghi với môi trường kinh doanh”. Như vậy, quan điểm này không thừa
nhận doanh nghiệp như là một hộp đen, mà trái lại doanh nghiệp như là một
hệ thống mở chịu tác động của môi trường bên ngoài, “Doanh nghiệp không
thể ngồi bên trong bốn bức tường mà phải mở cửa sổ để quan sát bầu trời
đầy sao”, nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh và phát hiện nguy cơ có thể đe dọa
doanh nghiệp.
1.3 Quan điểm theo qúa trình.
Theo quan điểm này doanh nghiệp muốn thành công trên thị trường thì
cần phải có một quá trình hoạt động kinh doanh lâu dài. Và trong những
quãng thời gian đó doanh nghiệp tích luỹ dần kinh nghiệm hoạt động của
mình để từ đó nâng lên thành mưu kế trong kinh doanh.
Theo tính toán của Trường Đại học Havard Mỹ thì: Doanh nghiệp phải
mất từ một đến ba năm mới bước vào thị trường, từ ba đến năm năm mới
giữ vững trên thị trường và lớn hơn tám năm mới thành công. Do đó doanh
nghiệp phải có kế hoạch dài hạn, phải xây dựng chiến lược phát triển lâu dài
trong thị trường cho mình.
1.4 Quan điểm hệ thống.
Quan điểm này cho rằng các doanh nghiệp kinh doanh chính là môĩ phần
tử của hệ thống kinh tế. Trong hệ thống kinh tế đó thì các doanh nghiệp có
quan hệ với nhau, bị chi phối chặt chẽ với nhau và chịu tác động bởi môi
trường của nó ( môi trường của hệ thống kinh tế bao gồm tập hợp các phần
tử, các phân hệ như: môi trường chính trị, luật pháp, văn hoá xã hội…) hoặc
hệ thống kinh tế tác động lên môi trường của nó. Do đó mỗi doanh nghiệp
( phần tử ) khi tổ chức hoạt động kinh doanh thì không chỉ xem xét đến bản
thân doanh nghiệp mà phải chú ý tới cả sự ảnh hưởng của các phần tử khác

trong cùng hệ thống( môi trường ngành) cũng như ngoài hệ thống. Và người
ta gọi đó là môi trường bên ngoài của doanh nghiệp. Vì vậy, việc phân tích
môi trường của doanh nghiệp là một vấn đề cần thiết.
Tóm lại, cho dù các quan điểm trên có tiếp cận phạm trù chiến lược dưới
góc độ nào, thì chúng cũng nhằm một mục đích chung của mình là tăng
trưởng nhanh, bền vững và tối ưu hoá lợi nhuận trong môi trường ngày càng
biến động và cạnh tranh gay gắt.
2. Các khái niệm về chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp.
2.1 Các khái niệm .
Do có các cách tiếp cận khác nhau về chiến lược mà các quan niệm về
chiến lược được đưa ra cũng khác nhau, cho đến nay vẫn chưa có một khái
niệm chung, thống nhất về phạm trù này. Có thể nêu có một số quan niệm như
sau:
- M.Porter cho rằng: “Chiến lược là nghệ thuật tạo lập các lợi thế cạnh
tranh”.
- Alain Threatart trong cuốn “Chiến lược của Công ty” cho rằng: “Chiến
lược là nghệ thuật mà doanh nghiệp dùng để chống lại cạnh tranh và giành
thắng lợi”.
- “Chiến lược là nhằm phác hoạ những quỹ đạo tiến triển đủ vững chắc
và lâu dài, xung quanh quỹ đạo đó có thể sắp đặt những quyết định và những
hành động chính xác của doanh nghiệp”. Đó là quan niệm của Alain Charles
Martinet, tác giả cuốn sách “Chiến lược”, người đã được nhận giải thưởng
của Havard L’expandsion năm 1983.
- Nhóm tác giả Garry D.Smith, DannyR. Arnold, Bopby G.Bizrell trong
cuốn “Chiến lược và sách lược kinh doanh” cho rằng "Chiến lược được định
ra như là kế hoạch hoặc sơ đồ tác nghiệp tổng quát dẫn dắt hoặc hướng tổ
chức đi đến mục tiêu mong muốn. Kế hoạch tác nghiệp tổng quát này tạo cơ
sở cho các chính sách( định hướng cho việc thông qua quyết định ) và các thủ
pháp tác nghiệp ”.

- Quan niệm của Alfred Chandle ( trường Đại học Harward) cho rằng: “
Chiến lược kinh doanh bao hàm việc ấn định các mục tiêu cơ bản dài hạn của
đơn vị kinh doanh, đồng thời lựa chọn cách thức hoặc tiến trình hoặc tiến
trình hành động và phân bổ các nguồn lực thiết yếu để thực hiện các mục tiêu
đó ”.
Nhìn chung các quan niệm trên về thuật ngữ chiến lược đều bao hàm và
phản ánh các vấn đề sau:
+ Mục tiêu của chiến lược.
+ Thời gian thực hiện.
+ Quá trình ra quyết định chiến lược.
+ Nhân tố môi trường cạnh tranh.
+ Lợi thế và yếu điểm của doanh nghiệp nói chung và theo từng hoạt
động nói riêng.
Như vậy, ta thấy chiến lược của doanh nghiệp là một “sản phẩm” kết
hợp được những gì môi trường có? Những gì doanh nghiệp có thể? Và những
gì doanh nghiệp mong muốn?
Tóm lại, trong hoạt động của doanh nghiệp, chiến lược là: “Một nghệ
thuật thiết kế, tổ chức các phương tiện nhằm đạt tới các mục tiêu dài
hạn và có mối quan hệ với một môi trường biến đổi và cạnh tranh”.
2.2 Đặc trưng của chiến lược kinh doanh .
Để hiểu rõ hơn về phạm trù chiến lược kinh doanh chúng ta cần xem xét
những đặc trưng của nó để từ đó phân biệt nó với các khái niệm, phạm trù có
liên quan.
Chiến lược kinh doanh có những đặc trưng cơ bản sau:
- Chiến lược kinh doanh thường xác định rõ những mục tiêu cơ bản,
những phương hướng kinh doanh của từng doanh nghiệp trong từng thời kỳ
và được quán triệt một cách đầy đủ trong tất cả các mặt hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển
liên tục và bền vững (lớn hơn 1 năm).
- Chiến lược kinh doanh đảm bảo huy động tối đa và kết hợp tối đa việc

khai thác và sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai,
phát huy những lợi thế và nắm bắt cơ hội để giành ưu thế trên thương
trường kinh doanh.
- Chiến lược kinh doanh phải được phản ánh trong suốt một quá trình
liên tục từ việc xây dựng chiến lược, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá và
điều chỉnh chiến lược.
- Chiến lược kinh doanh phải có tư tưởng tiến công giành thắng lợi trên
thương trường kinh doanh (phải tận dụng triệt để lợi thể của mình để dành
thắng lợi).
- Chiến lược kinh doanh thường được xây dựng cho một thời kỳ tương
đối dài (3 năm đến 5 năm), xu hướng rút ngắn xuống tuỳ thuộc vào đặc thù
của từng ngành hàng.
Từ những đặc trưng nêu trên ta dễ dàng phân biệt phạm trù chiến lược
với những khái niệm, phạm trù liên quan. Khái niệm gần gũi nhất với chiến
lược là “kế hoạch”, trong thực tế nhiều khi người ta nhầm lẫn hai khái niệm
này với nhau.
Xét theo trình tự thì chiến lược kinh doanh được hình thành trên cơ sở
phân tích, chuẩn đoán môi trường, đến lượt nó chiến lược lại làm cơ sở cho
các kế hoạch triển khai thực hiện chiến lược.
Đặc trưng nổi bật của chiến lược là tính định hướng và xác định những
giải pháp, chính sách lớn ở những mục tiêu chủ yếu, còn ở các kế hoạch tính
cân đối định hướng là chủ đạo, tất cả các mục tiêu đều được lượng hoá, liên
kết với nhau thành một hệ thống chỉ tiêu phản ánh toàn diện hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3- Các loại chiến lược kinh doanh.
Tùy theo mỗi cách phân loại khác nhau mà chúng ta có các loại chiến
lược kinh doanh khác nhau:
a. Căn cứ vào phạm vi của chiến lược:
+ Chiến lược kinh doanh tổng quát:
Chiến lược kinh doanh tổng quát đề cập đến những vấn đề quan trọng

nhất, bao quát nhất và có ý nghĩa lâu dài, quyết định những vấn đề sống còn
của doanh nghiệp, phương châm dài hạn, mục tiêu dài hạn.
+ Chiến lược kinh doanh từng lĩnh vực: giải quyết những lĩnh vực cụ thể
trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó thực hiện chiến lược
tổng quát, như: chiến lược sản phẩm, chiến lược marketing, chiến lựơc tài
chính, chiến lược con người, chiến lược công nghệ,…
b. Căn cứ vào tầm quan trọng của chiến lược kinh doanh:
+ Chiến lược kinh doanh kết hợp, bao gồm: kết hợp phía trước, kết hợp
phía sau, kết hợp theo chiều ngang, kết hợp theo chiều dọc.
+ Chiến lược kinh doanh theo chuyên sâu: thâm nhập thị trường, phát
triển thị trường, phát triển sản phẩm…
+ Chiến lược kinh doanh mở rộng: đa dạng hoá đồng tâm, đa dạng hoá
theo chiều ngang, đa dạng hoá hoạt động theo kiểu hỗn hợp.
+ Các chiến lược kinh doanh đặc thù, bao gồm: liên doanh, thu hẹp hoạt
động, thanh lý…
c. Căn cứ theo quá trình chiến lược, một số nhà kinh tế cho rằng
chiến lược kinh doanh bao gồm:
+ Chiến lược định hướng, bao gồm những định hướng lớn về chức năng ,
nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược trên cơ sở phán đoán môi trường và phân tích
nội bộ doanh nghiệp. Chiến lược định hướng là phương án chiến lược cơ bản
của doanh nghiệp.
+ Chiến lược hành động, bao gồm: các phương án hành động trong
những tình huống khác nhau và những điều chỉnh trong quá trình triển khai
chiến lược.
d. Căn cứ vào nguồn của tổ chức có thể có những loại hình chiến
lược:
+ Chiến lựơc do khởi thảo: chiến lược này bắt nguồn từ các mục tiêu của
doanh nghiệp do ban quản trị cao cấp xác định, nó có thể cho phép có sự tuỳ ý
khá lớn hoặc cũng có thể được lý giải hết sức đầy đủ và chặt chẽ.
+ Chiến lược do gợi mở : bắt nguồn từ các tình huống trong đó các nhân

viên đã vạch ra những trường hợp ngoại lệ cho cấp quản lý phía trên.
+ Chiến lược do ngầm định: do cấp dưới suy diễn những điều nhất định-
đúng hoặc sai- từ các quyết định và hành vi của cấp trên.
+ Chiến lược do sức ép: sinh ra từ những áp lực bên ngoài như các hiệp
hội và các cơ quan nhà nước.
e. Căn cứ vào cấp làm chiến lược kinh doanh ta có:
+ Chiến lược kinh doanh cấp công ty: là chiến lược tổng quát, xác định
được những mục tiêu dài hạn và những phương thức để đạt được những
mục tiêu đó trong từng thời kỳ.
+ Chiến lược kinh doanh cấp cơ sở: là chiến lược xác định những mục tiêu
cụ thể và cách thức để đạt được những mục tiêu đó trong lĩnh vực của mình
trên cơ sở các mục tiêu tổng quát của cấp trên.
+ Chiến lược kinh doanh cấp chức năng: là chiến lược tập trung hỗ trợ
cho chiến lược kinh doanh cấp công ty và cấp cơ sở.
4- Nội dung chủ yếu của chiến lược kinh doanh.
Như phần trên đã đề cập, do có nhiều quan niệm khác nhau về chiến lược
kinh doanh cho nên cũng có nhiều quan niệm về nội dung của chiến lược. Tuy
nhiên, có thể nhận định một điểm chung nhất giữa các quan niệm đó là: chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp là chiến lược tổng quát của doanh nghiệp
trong lĩnh vực kinh doanh. Nó đề cập đến những vấn đề quan trọng nhất, có ý
nghĩa lâu dài, quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Chiến lược kinh
doanh bao gồm các chiến lược chung và chiến lược bộ phận có liên kết hữu cơ
với nhau tạo thành chiến lược kinh doanh hoàn chỉnh bao trùm mọi hoạt
động của doanh nghiệp. Bất kỳ một chiến lược kinh doanh nào, dù là chiến
lược tổng quát hay chiến lược bộ phận, về cơ bản, có những nội dung chủ yếu
sau:
4.1. Quan điểm tư tưởng của doanh nghiệp mà hạt nhân là triết lý
kinh doanh của doanh nghiệp đó. Nó trả lời câu hỏi đâu là niềm tin cơ bản,
giá trị nguyện vọng và các ưu tiên triết lý của doanh nghiệp.
4.2. Chiến lược kinh doanh xác định các mục tiêu cho doanh

nghiệp trong từng thời kỳ, từng phạm vi hoạch định chiến lược. Mặt khác
chiến lược kinh doanh hướng cho doanh nghiệp biết phải tập trung vào
những khâu xung yêú nào và xác định những mục tiêu hợp lý cho doanh
nghiệp.
4.3. Chiến lược kinh doanh nhằm xác định phương thức thực
hiện mục tiêu. Phương thức này được lựa chọn trong số tất cả các phương
án được xây dựng thông qua các kỹ thuật phân tích về khả năng hiện taị của
doanh nghiệp để từ đó lựa chọn cho doanh nghiệp một phương thức hợp lý.
4.4. Chiến lược kinh doanh ,cuối cùng, thể hiện quyết định lựa
chọn phương án chiến lược. Trong quyết định đó, đề cập các giải pháp cụ
thể đối với các mặt hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở phân tích, đánh
giá thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh, và hơn thế, dự kiến được các
kết quả có thể đạt được.
II- SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1-Tầm quan trọng và lợi ích của chiến lược kinh doanh.
1.1 Tầm quan trọng của chiến lược kinh doanh.
Việc xây dựng ( hoạch định) và thông tin về chiến lược là một trong số
những hoạt động quan trọng nhất của người quản lý cao cấp. Một tổ chức
không có chiến lược cũng giống như con tàu không có bánh lái. Thực vậy, hầu
hết những thất bại trong công việc làm ăn đều có thể là do việc thiếu một
chiến lược, hoặc chiến lược sai lầm, hoặc thiếu việc triển khai một chiến lược
đúng đắn. Nếu không có một chiến lược thích hợp được thực thi một cách có
hiệu quả thì thất bại hầu như là chắc chắn.
Đôi khi người ta thờ ơ với việc lập kế hoạch chiến lược bởi vì những
người quản lý không hiểu đầy đủ về (1): chiến lược là gì và vì sao chúng lại
quan trọng đến vậy, (2) làm thế nào để chiến lược khớp với toàn bộ quá trình
lập kế hoạch, (3) xây dựng chiến lược như thế nào và (4) làm thế nào để thực
thi chiến lược bằng cách gắn liền chúng với quá trình ra các quyết định hiện
tại.

1.2. Lợi ích của chiến lược kinh doanh.
Chiến lược kinh doanh đem lại những lợi ích thiết thực cho doanh
nghiệp đó là:
+ Nó giúp doanh nghiệp thấy rõ hướng đi của mình trong tương lai để
các quản trị gia xem xét và quyết định doanh nghiệp nên đi theo hướng nào
và khi nào thì đạt mục tiêu.
+ Nó giúp cho các quản trị gia luôn luôn chủ động trước những thay đổi
của môi trưòng: giúp cho các quản trị gia thấy rõ cơ hội và nguy cơ xảy ra
trong kinh doanh hiện tại dể phân tích, đánh giá, dự báo các điều kiện môi
trường kinh doanh trong tương lai. Từ đó giúp doanh nghiệp tận dụng được
các cơ hội, đẩy lùi nguy cơ để chiến thắng trong cạnh tranh, giành thắng lợi.
+ Nó giúp cho doanh nghiệp khai thác và sử dụng tối đa các tài nguyên,
tiềm năng của mình. từ đó phát huy được sức mạnh ttối đa của doanh nghiệp
để phát triển đi lên.
+ Giúp cho doanh nghiệp phân bổ các nguồn lực của mình vào các lĩnh
vực, trong từng thời điểm một cách hợp lý.
+ Giúp cho doanh nghiệp tăng sự liên kết, gắn bó của các nhân viên,
quản trị viên trong việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Để từ đó
tạo ra dược sức mạnh nội bộ của doanh nghiệp.
+ Giúp cho doanh nghiệp tăng số bán, tăng năng suất lao động và tăng
hiệu quả quản trị, tránh được các rủi ro, tăng khả năng phòng ngừa và ngăn
chặn các vấn đề khó khăn xảy ra đối với doanh nghiệp.
2-Tính tất yếu khách quan phải hoạch định chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế nước ta hiện
nay.
Đánh giá hiện trạng
Dự báo nhu cầu Ước tính chi phí bình quânTập hợp chi phí đầu tư cùng loại của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới
Sơ đồ1: SƠ ĐỒ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC THỜI BAO CẤP
Trong thời kỳ bao cấp, khái niệm chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp ít được sử dụng bởi vì các doanh nghiệp không có trách nhiệm xây

dựng chiến lược kinh doanh. Nguyên nhân chủ yếu là trong thời kỳ này các
doanh nghiệp hoạt động sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh mà cấp trên đưa
xuống. Chiến lược kinh doanh trong thời kỳ này chỉ là một mắt xích kế hoạch
hoá nền kinh tế quốc dân do cấp trên đảm nhiệm. Tư duy đều tập trung cho
rằng nhà nước có trách nhiệm hàng đầu trong việc hoạch định chiến lược
phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong tất cả các lĩnh vực: xã hội, sản
xuất... Chính Phủ quản lý và vận hành toàn bộ quá trình phát triển của đất
nước. Do đó, hầu hết các doanh nghiệp đều xây dựng chiến lược theo một
khuôn mẫu cứng nhắc (Sơ đồ 1):

Từ đó dẫn đến kết quả là:
• Phải thực hiện các khối lượng công việc đồ sộ để cung cấp kịp thời các
dịch vụ hạ tầng.
• Tốc độ đầu tư và mở rộng cơ sở hạ tầng thấp.
• Nguồn lực bị thiếu hụt, mất cân đối và đồng bộ trong việc phát triển.
• Các chiến lược đưa ra thường không mang tính thực tế bởi vì nó thường
cao hơn thực tế đạt được.
• C ác chiến lược đưa ra rất chung chung, không mang tính cụ thể.
• Các phương pháp sử dụng để xây dựng chiến lược còn đơn giản, hầu hết
chỉ dựa vào kinh nghiệm và áp dụng một cách máy móc theo mô hình của
các nước xã hội chủ nghĩa.
Trên thực tế, trong thời kỳ bao cấp các doanh nghiệp đã không xây dựng
chiến lược kinh doanh hoặc làm hạn chế sự phát huy tính ưu việt của chiến
lược kinh doanh do chưa thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết phải xây
dựng chiến lược kinh doanh.
Từ 1986 thực hiện đường lối đổi mới đất nước và đặc biệt là đổi mới
nền kinh tế với quan điểm xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phát
triển kinh tế nhiều thành phần chuyển sang hạch toán kinh doanh theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp đã giành được quyền tự chủ trong
kinh doanh, tự phải tìm ra con đường đi riêng cho phù hợp để có thể tồn tại

và phát triển trong cơ chế mới. Do đó, chiến lược kinh doanh là không thể
thiếu được trong tình hình mới.
Hiện nay, khi chuyển sang kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, đa
số các doanh nghiệp phải đối mặt với những điều kiện kinh doanh ngày càng
khó khăn, phức tạp mang tính biến động và rủi ro cao, song việc làm cho
doanh nghiệp thích nghi với sự thay đổi môi trường là hết sức cần thiết, quyết
định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Thực tế, những bài học
thành công hay thất bại trong kinh doanh đã chỉ ra có những nhà tỷ phú xuất
thân từ hai bàn tay trắng nhờ có được chiến lược kinh doanh tối ưu và ngược
lại cũng có những nhà tỷ phú, do sai lầm trong đường lối kinh doanh của
mình đã trao cơ ngơi kinh doanh của mình cho địch thủ trong một thời gian
ngắn. Sự đóng cửa những Công ty làm ăn thua lỗ và sự phát triển của những
doanh nghiệp có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh cao, thực sự phụ thuộc
một phần đáng kể vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp đó, đặc biệt
trong nền kinh tế thị trường.
Sự tăng tốc của các biến đổi môi trường, sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt cùng với việc ngày càng khan hiếm các nguồn tài nguyên dẫn đến sự gia
tăng nhu cầu về phía xã hội, từ nội bộ của doanh nghiệp và cá nhân khác
nhau đã làm cho chiến lược kinh doanh ngày càng có một tầm quan trọng lớn
với một doanh nghiệp.
Sự cần thiết khách quan phải xây dựng chiến lược kinh doanh đối với
các doanh nghiệp được thể hiện trên một số mặt sau:
• Chiến lược kinh doanh giúp các doanh nghiệp thấy rõ mục đích và hướng
đi của mình.
• Điều kiện môi trường mà các doanh nghiệp gặp phải luôn biến đổi nhanh.
Những biến đổi nhanh thường tạo ra những cơ hội và nguy cơ bất ngờ.
Việc xây dựng các chiến lược kinh doanh giúp các doanh nghiệp tận dụng
tối đa các cơ hội và hạn chế ở mức thấp nhất các nguy cơ, từ đó tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
• Chiến lược kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp gắn liền các quyết định

đề ra với điều kiện môi trường liên quan, hay nói cách khác là giúp các
doanh nghiệp đề ra các quyết định chủ động.
• Xây dựng chiến lược sẽ giúp cho các doanh nghiệp tạo ra chiến lược kinh
doanh tốt hơn thông qua việc sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, tạo
cơ sở tăng sự liên kết, tăng sự liên kết của các nhân viên với các quản trị
viên trong việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
• Chiến lược kinh doanh giúp cho các doanh nghiệp sử dụng nguồn lực một
cách hợp lý nhất.
Với toàn bộ những lý do trên có thể khẳng định việc xây dựng chiến lược
kinh doanh tốt trong các doanh nghiệp là vô cùng quan trọng đối với các
doanh nghiệp trong nước cũng như trên thế giới, có thể coi “Chiến lược kinh
doanh như là cái bánh lái của con tàu, đưa con tàu vượt trùng dương đến bờ
thắng lợi”.
III- HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC KINH DOANH Ở MỘT DOANH
NGHIỆP.
1. Những yêu cầu và căn cứ hoạch định chiến lược kinh
doanh.
1.1 Yêu cầu.
Khi xây dựng( hoạch định ) chiến lược kinh doanh các doanh nghiệp cần
phải đáp ứng những yêu cầu sau:
- Phải bảo đảm tăng thế mạnh của doanh nghiệp và dành được ưu thế
cạnh tranh trong thương trường kinh doanh.
- Doanh nghiệp phải xác định được thị trường mục tiêu. Từ đó xác định
được vùng an toàn trong kinh doanh và xác định rõ được phạm vi kinh doanh,
xác định rõ mức độ rủi ro cho phép.
- Phải xác định được rõ những mục tiêu then chốt và những điều kiện cơ
bản để thực hiện mục tiêu đó.
- Phải nắm bắt được thông tin và có một khối lượng thông tin tri thức
nhất định. Đặc biệt là những thông tin về thị trường; về khách hàng; về đối
thủ cạnh tranh…

- Bên cạnh những chiến lược hiện tại, các doanh nghiệp còn phải biết
xây dựng được chiến lược dự phòng, chiến lược thay thế.
- Phải biết nắm bắt thời cơ, tận dụng tối đa cơ hội và phải có một chút
liều lĩnh.
1.2. Những căn cứ.
Như chúng ta biết một trong những mục tiêu của doanh nghiệp là tối ưu
hoá lợi nhuận thông qua việc cung cấp những sản phẩm và dịch vụ cho khách
hàng. Để có được các sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho khách hàng doanh
nghiệp cần phải sử dụng các yếu tố đầu vào, quy trình công nghệ để sản xuất
ra chúng hay nói cách khác doanh nghiệp phải sử dụng tốt các yếu tố bên
trong của mình. Tuy nhiên, không phải chỉ riêng có doanh nghiệp sản xuất
những hàng hoá và dịch vụ đó, mà cũng có những doanh nghiệp khác cùng
sản xuất ( đối thủ cạnh tranh). Vì vậy, để thu hút khách hàng nhiều hơn thì
những sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp phải có mẫu mã, chất lượng hơn
sản phẩm của đối thủ cạnh tranh hay nói cách khác họ giành được thắng lợi
trong cạnh tranh.
Từ lập luận đó ta đi đến xác định các căn cứ quan trọng nhất cho việc
hoạch định chiến lược kinh doanh gồm:
+ Khách hàng.
+ Đối thủ cạnh tranh.
+ Doanh nghiệp.
Các nhà kinh tế coi lực lượng này là “bộ ba chiến lược” mà các doanh
nghiệp phải dựa vào đó để xây dựng chiến lược kinh doanh của mình.
a. Khách hàng .
Đại diện cho nhân tố “cầu” của thị trường, khái niệm khách hàng chứa
đựng trong đó vô số nhu cầu, động cơ, mục đích khác nhau của những nhóm
người khác nhau. Từ đó hình thành nên các khúc thị trường cá biệt mà các
doanh nghiệp không thể bao quát toàn bộ. Chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp phải căn cứ vào khách hàng có nghĩa là nó phải tìm ra trong tập hợp
các khách hàng một hoặc một số nhóm khách hàng hình thành nên một khúc

thị trường có lượng đủ lớn cho việc tập trung nỗ lực của doanh nghiệp vào
việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên thị trường đó.
Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải phân chia tập hợp khách hàng
thành từng nhóm, những khúc khác nhau theo các tiêu thức như: trình độ văn
hoá, thu nhập, tuổi tác, lối sống... Bằng cách phân chia này doanh nghiệp xác
định được cho mình khúc thị trường mục tiêu, từ đó tập trung nguồn lực để
thoả mãn nhu cầu của thị trường.
b. Đối thủ cạnh tranh.
Điều dễ hiểu là các đổi thủ cạnh tranh cũng có những tham vọng, những
phương sách, những thủ đoạn như doanh nghiệp đã trù liệu. Do vậy, chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp cần hướng vào việc tạo ra sự khác biệt so
với các đối thủ của mình trên những lĩnh vực then chốt bằng cách so sánh các
yếu tố nói trên của doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh.
Sự khác biệt chủ yếu cần xác định được là những ưu thế mà doanh
nghiệp đã có hoặc có thể tạo ra bao gồm cả những giá trị hữu hình và vô hình.
Các giá trị hữu hình gồm:
+ Năng lực sản xuất sản phẩm.
+ Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ sản xuất kinh doanh.
+ Hệ thống kênh phân phối, tiếp thị.
Các giá trị vô hình gồm:
+ Danh tiếng và sự tín nhiệm của khách hàng.
+ Chất lượng, kiểu dáng sản phẩm.
+ Bí quyết công nghệ.
+ Lợi thế về địa điểm kinh doanh, vị trí sản xuất gần nguồn nguyên vật
liệu.
+ Các bạn hàng truyền thống, các mối quan hệ với chính quyền các cấp.
+ Trình độ lành nghề của công nhân, kinh nghiệm của cán bộ quản lý.
c. Doanh nghiệp (thực lực của doanh nghiệp).
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cần phải căn cứ vào thực lực
của doanh nghiệp nhằm khai thác tối đa các nguồn lực và sử dụng nó vào các

lĩnh vực, chức năng có tầm quan trọng quyết định đối với sự thành công của
doanh nghiệp trong việc kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ đã xác định. Các
lĩnh vực, chức năng cần phải xác định có thể lựa chọn theo các căn cứ cụ thể
như sau:
+ Đầu tư vào sản phẩm, dịch vụ nào?
+ Đầu tư vào giai đoạn công nghệ nào?
+ Tập trung mở rộng quy mô hay phấn đấu giảm thấp chi phí?
+ Tổ chức sản xuất đồng bộ hay mua bán thành phẩm về lắp ráp?
Việc xác định đúng các lĩnh vực, chức năng của doanh nghiệp sẽ tạo điều
kiện để doanh nghiệp hướng mọi nỗ lực của mình vào các khâu then chốt
nhằm tạo ra ưu thế của doanh nghiệp trên thị trường đã chọn.
Trên cơ sở những căn cứ trong bộ ba chiến lược nêu trên thì chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp có thể có độ tin cậy cần thiết. Song môi trường
kinh doanh không chỉ có những nhân tố trên mà từng trường hợp cụ thể
doanh nghiệp còn phải xét thêm các nhân tố khác thuộc môi trường vĩ mô
như: các nhân tố chính trị, pháp luật, khoa học công nghệ..., và môi trường vi
Xác định mục tiêu chiến lược (B3)
Xây dựng các phương thức chiến lược (B4)
Lựu chọn chiến lược tối ưu (B5)
Quyết định chiến lược (B6)
Khẳng định đường lối (B1) Nghiên cứu và dự báo (B2)
Sơ đồ 2: MÔ HÌNH CÁC BƯỚC HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC.
mô như: các nhà cung cấp, các sản phẩm thay thế…để xác định và lựa chọn
phương án chiến lược kinh doanh có độ tin cậy cao hơn.
2. Các quan điểm cần quán triệt khi hoạch định chiến lược
kinh doanh.
Khi hoạch định chiến lược kinh doanh chúng ta cần quán triệt những
quan điểm sau đây:
+ Hoạch định chiến lược kinh doanh phải căn cứ vào việc khai thác các
yếu tố then chốt của doanh nghiệp để dành thắng lợi.

+ Hoạch định chiến lược kinh doanh dựa vào việc phát huy các ưu thế và
các lợi thế so sánh.
+ Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên cơ sơ khai thác những
nhân tố mới, những nhân tố sáng tạo.
+ Hoạch định chiến lược kinh doanh dựa trên cơ sở khai thác triệt để các
nhân tố bao quanh nhân tố then chốt.
3.Các bước hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp.

×