Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài tập lịch sử văn minh: Sưu tầm, giới thiệu và đánh giá các thành tựu kiến trúc Ấn Độ giáo của văn minh Ấn Độ cổ trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.36 KB, 16 trang )

MỞ BÀI
Trải qua bề dày của lịch sử thế giới, có thể nói, nền văn minh Ấn Độ là một
nền văn minh nổi tiếng và thuộc về những nền văn minh cổ nhất thế giới. Với một
giai đoạn lịch sử lâu dài từ thời cổ đại cho đến thời kỳ trung đại, văn minh Ấn Độ
đã phát triển và đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ trên tất cả các lĩnh vực
như: chữ viết, văn học, tư tưởng tôn giáo… và đặc biệt là trên lĩnh vực nghệ thuật,
tiêu biểu nhất phải kể đến thành tựu kiến trúc Ấn Độ giáo. Tìm hiểu kiến trúc Ấn
Độ giáo của nền văn minh Ấn Độ cổ trung đại sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về tầm
quan trọng của nền văn minh này, nó không chỉ có vai trò to lớn đối với đất nước
Ấn Độ nói riêng mà còn ảnh hưởng trên toàn thế giới nói chung, trong đó có Việt
Nam. Để nghiên cứu và đi sâu hơn về vấn đề này, sau đây em xin chọn đề tài : “
Sưu tầm, giới thiệu và đánh giá các thành tựu kiến trúc Ấn Độ giáo của văn
minh Ấn Độ cổ trung đại ” làm bài tập học kì của mình.
NỘI DUNG
I, Tổng quan một vài nét tiêu biểu về nền văn minh Ấn Độ nói chung và
thành tựu tiêu biểu về kiến trúc Ấn Độ giáo nói riêng
1, Nền văn minh Ấn Độ
Như chúng ta đã thấy, văn minh Ấn Độ cổ trung đại là một nền văn minh
xuất hiện từ rất sớm và nó chịu ảnh hưởng từ rất nhiều yếu tố để có thể phát triển
một cách phồn thịnh. Trước hết, điều kiện tự nhiên chính là yếu tố đầu tiên tạo nên
nền văn minh lâu đời ấy. Ấn Độ là một bán đảo ở Nam Á, có hình dáng gần như
hình tam giác và bị ngăn cách bởi dãy Himalaya, điều này khiến Ấn Độ trở thành
tiểu lục địa rộng lớn khép kín. Thiên nhiên Ấn Độ cũng vô cùng phong phú và đa
dạng với hau miền khí hậu ở hai khu vực Bắc Nam khác nhau rõ rệt. Đặc biệt về
sông ngòi, hằng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Himalaya theo hai con sông


Ấn và sông Hằng lại đem phù sa tới bồi đắp cho những cánh đồng ở Bắc Ấn giúp
cho nhân dân canh tác trồng trọt vì thế mà nông nghiệp luôn luôn giữ vai trò chủ
đạo trong việc phát triển kinh tế.
Về dân cư, Ấn Độ là một quốc gia đa sắc tộc, điều này đã tạo ra sự đa dạng


về tôn giáo, tư tưởng ở Ấn Độ.
Về điều kiện lịch sử, có thể chia thành bốn thời kì lớn bao gồm : Thời kì văn
minh lưu vực sông Ấn ( từ đầu thiên kỉ III đến giữa thiên kỉ II TCN ); Thời kì
VêĐa ( từ giữa thiên kỉ II đến giữa thiên kỉ I TCN ); Thời kì từ thế kỉ VI TCN đến
thế kỉ XII; Thời kì từ thế kỉ XIII – XIX. Việc trải qua nhiều thời kì như trên với sự
trị vì khác nhau của các vị vua đã tạo nên được nền văn minh Ấn Độ đặc sắc.
2, Kiến trúc Ấn Độ giáo
Tuy rằng có nhiều thành tựu trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng có thể
nói nghệ thuật về kiến trúc là một trong những thành tựu nổi bật nhất của nền văn
minh Ấn Độ cổ trung đại. Như ta đã biết, Ấn Độ một là nơi có nghệ thuật tạo hình
phát triển vượt bậc với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo. Khi nói đến nghệ
thuật kiến trúc của văn minh Ấn Độ cổ trung đại ta không thể không kể đến những
thành tựu kiến trúc Ấn Độ giáo. Các công trình kiến trúc Ấn Độ giáo được xây
dựng nhiều nơi trên đất nước Ấn Độ vào khoảng thế kỉ VII – XIII. Những thành
tựu kiến trúc Ấn Độ giáo của văn minh Ấn Độ cổ trung đại chủ yếu là đền, tháp và
nhiều công trình có giá trị lớn khác. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến kiến trúc của
nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và ảnh hưởng sâu sắc đến kiến trúc của Việt
Nam nói riêng.
II, Những thành tựu tiêu biểu về kiến trúc Ấn Độ giáo của văn minh Ấn
Độ thời cổ trung đại


1, Khu Đền tháp Ellora
Đặc điểm nổi bật trong toàn bộ quần thể hang động Ellora chính là những
công trình tôn giáo được thiết kế và xây dựng theo lối kiến trúc chạm khắc trên đá
nguyên khối rất độc đáo. Có tất cả 34 động đền thờ và động tu viện của đạo Phật,
đạo Hindu và đạo Giai-na nằm bên trong khuôn viên quần thể hang động Ellora.
Trong đó, hang động Phật giáo gồm 12 công trình (động số 1 - 12), hang động
Hindu giáo gồm 17 công trình (động số 13 – 29), hang động Giai-na giáo gồm 5
công trình (động số 30 – 34). Những công trình kiến trúc cổ xưa này đã được xây

dựng vào thế kỷ V – thế kỷ X..Công trình nổi bật nhất trong quần thể hang động
Phật giáo ở Ellora là động số 5 với chiều sâu là 35.66 m và chiều ngang 17 m, có
hành lang bao quanh và 24 cột đá đỡ trần động. Trên tường động được chạm khắc
tượng của các vị bồ tát, các hoa văn, họa tiết cũng rất tinh xảo và sinh động.
Được xem là trọng tâm trong toàn bộ quần thể kiến trúc cổ tại Ellora là hang
động số 16 (còn gọi là Kailasha) của Hindu giáo. Đây là một thiết kế để nhắc nhở
Mount Kailash, nơi ở của Chúa Shiva - tựa như đứng một mình, một ngôi đền phức
tạp và đa tầng, nhưng nó đã được chạm khắc từ một tảng đá duy nhất. Động được
tạc theo hướng từ trên xuống dưới và từ ngoài vào trong. Phần chính của công trình
kiến trúc này là ngôi đền thờ chính giữa được tạc tách rời với phần núi bao quanh.
Người ta nói rằng ngôi đền này được tạc qua mười thế hệ và phải mất 200 năm mới
hoàn thành.
Cổng chính của ngôi đền, chúng ta sẽ thực sự choáng ngợp bởi sự quy mô và
hùng vĩ của các hạng mục kiến trúc nơi đây. Đối xứng hai bên của ngôi đền là hai
thạch trụ và hai con voi đá uy nghiêm đứng chầu. Chính giữa là ngôi đền đặc trưng
của Hindu giáo với một lầu trên cao thờ Linga. Mặt sau của ngôi đền là hàng loạt
voi đá như tạo thành bệ đỡ cho ngôi điện thờ nằm phía trên. Tường của các vách


núi bao bọc xung quanh là các gian phòng triển lãm hai tầng. Tất cả những hạng
mục kiến trúc nơi đây đều vô cùng tuyệt diệu, thể hiện trình độ đỉnh cao của nghệ
thuật khắc đá Ấn Độ.
Nằm tách biệt với quần thể hang động Phật giáo và Hindu giáo khá xa là hệ
thống 4 hang động của Giai-na giáo. Hang động số 32 là hang động nổi bật nhất
trong bốn hang động ở đây. Phía trước gian chính thờ một vị thánh Giai-na giáo là
cổ tháp với nhiều nét điêu khắc độc đáo. Nằm lệch về một phía của cổ tháp là một
thạch trụ và một con voi đá thay vì từng cặp được tạc đối xứng như đền Kailas. Từ
đó có thể khẳng định rằng đền tháp Ellora là một trong những công trình vô cùng
đặc sắc, tiêu biểu cho kiến trúc Ấn Độ giáo lúc bấy giờ.
2, Khu Đền tháp Khajuraho

Đến một thành phố nhỏ ở cao nguyên miền Trung bắc Ấn. Nơi đây có ngôi
đền về giới tính nổi tiếng của người dân sông Hằng với cái tên Khajuraho. Kiến
trúc của Khajuraho mang phong cách kiến trúc của miền Bắc Ấn Độ. Điểm chung
lớn nhất giữa chúng là nhìn bên ngoài trông chúng đều lộn xộn như nhau, điều này
lại tương phản với kiến trúc của người Hồi giáo. Nhưng nhìn kỹ sẽ cảm nhận được
vẻ đẹp đằng sau những cái lộn xộn đó. Giống như nhiều ngôi đền nổi tiếng ở Ân
Độ, Khajuraho nằm ở nơi cách xa làng xóm. Bao quanh hàng trăm mét vuông là
rừng rậm hoặc thảo nguyên. Chùa chính của Khajuraho được xây dựng tại khu vực
trung tâm, hơn 20 ngồi đền lớn nhỏ nằm rải rác trên bình nguyên trong phạm vi
6km2. Ðược xây dựng dần dần trong hai thế kỷ X và XI, nơi đây từng có hơn 80
ngôi chùa nhưng trải qua sự bào mòn của thiên nhiên, hơn 50 ngôi chùa đã bị sụp
đổ. Những quần thể kiến trúc còn tồn tại được chọn làm Di sản văn hoá thế giới.
Kiến trúc của Khajuraho chịu ảnh hưởng đậm nét của kiến trúc Ấn Độ. Đó là
tượng được khắc từ dưới lên trên, từ thô ráp đến tinh xảo, từ con người, động vật


đến thần tiên, các tầng lớp được phân cấp rõ ràng. Điểm khác biệt ở Khajurah là dù
ở thế giới phàm trần hay tiên cảnh thì phần lớn họ đang trong tư thế âu yếm nhau.
Hơn thế nó còn được biểu đạt muôn hình vạn trạng, thậm chí cả động vật đang giao
phối cũng có. Nơi đây nổi tiếng bởi các bức tượng trong và ngoài chùa đều có liên
quan đến cảnh giao hoan. Có người cho rằng mục đích của người xưa làm vậy là
để chống sét vì thần sét và trinh tiết ở Ấn Độ có liên quan mật thiết với nhau. Thần
sét đại diện cho người con gái đồng trinh, vì vậy khi nhìn thấy những bức tượng
như vậy, cô sẽ xấu hổ mà lẩn tránh. Trong ngôi đền này không chỉ một hai bức
tượng có liên quan đến cảnh quan hệ mà là hàng trăm, hàng nghìn bức tượng đều
thế.
Đây là một trong những thành tựu vô cùng nổi bật của kiến trúc Ấn Độ thời
cổ trung đại, được đánh giá là một trong những khu đền độc đáo và xuất sắc nhất
Ấn Độ.
3, Thánh tích nổi tiếng Mahabalipuram

Mahabalipuram là một cụm kiến trúc đặc biệt gồm những ngôi đền to, nhỏ
khác nhau nằm chen nhau được tách trực tiếp vào những tảng đá lớn liền khối như
các catha (thiên xa) và một đền thờ Chiva có tên là Đền ven biển cũng được xây
hoàn toàn bằng đá. Bên cạnh các ngôi đền đều có những tượng lớn: voi, sư tử, bò...
Trong số tám thiên xa bằng đá, khối nổi bật lên là Năm ratha đứng cạnh nhau mang
tên những người anh em nhà Pandava trong sử thi Mahabharata và người vợ chung
của họ Yudisthira, Đharmaradja, Ácguiman Bhima và Nakula. Nhưng mỗi thiên xa
đá khối có vóc dáng riêng của nó như thân vuông, mỗi cạnh dài 8,85mét, cao 12,2
mét và bộ mái ba tầng thu nhỏ dần về phía đỉnh. Hai tầng mái phía dưới có hành
lang bao quanh và được tô điểm bằng các tháp nhỏ, còn tầng thứ ba hay tầng trên
cùng lại là cả một khối vòm tròn lớn. Nếu Đharmaradja ratha có hình vuông thì


Bhimaratha nằm ngay bên cạnh lại là kiến trúc hình chữ nhật dài 14,6 mét, cao
7,90 mét và có bộ mái hoàn toàn khác: mái dài, hai cánh cong như lưng voi. Ở đây,
dường như tất cả các ngôi đền ở Mahabalipuram đều được trang trí bằng điêu khắc.
Đáng kể nhất và có giá trị nhất về nghệ thuật điêu khắc của Mahabalipuram là bức
phù điêu đá khổng lồ. Nó đã mô tả được các câu chuyện huyền thoại về dòng sông
Hằng linh thiêng. Với nhiều ngôi đền độc đáo và những hình phù điêu khổng lồ
quả là điều kỳ diệu của nghệ thuật miền nam Ấn Độ. Không phải ngẫu nhiên mà có
các nhà khoa học đã ví khu đền Mahabapuram như đỉnh Everest của nghệ thuật cổ
Trung đại của Ấn Độ.
4, Thành phố thánh Bhuvanesvar
Được xây dựng trên vùng đầm lầy ven biển Orissa, thành phố thánh
Bhuvanesvar được nhắc đến như là một trong những kỳ quan của Ấn Độ. một nền
nghệ thuật có chiều dài lịch sử từ thế kỷ III trước công nguyên, đến thế kỷ XVI với
bốn giai đoạn phát triển.Thời kỳ xây dựng rầm rộ nhất vào thế kỷ VII với hàng
ngàn ngôi đền được dựng lên. Tuy nhiên, những ngôi đền đẹp nhất của ngôi đền
này còn nguyên vẹn quy mô và dạng thức kiến trúc hiện nay chỉ còn khoảng 30
công trình. Hầu hết những công trình này được xây dựng xung quanh hồ Bindu

Sagar, nơi mà theo truyền thuyết của Ấn Độ giáo, hội tụ và chứa đựng các dòng
nước thánh ở Ấn Độ. Các ngôi đền này dù khác nhau về kiểu dáng nhưng kiến trúc
của chúng như thể một hòn núi nhô lên từ lòng đất với hai dạng chính: Rekha hình nón dạng tổ ong với chóp hình nón và Bhadra giống như dạng kim tự tháp
được đắp cao. Phía trước nhiều ngôi đền đựơc đánh dấu bằng một cổng dẫn bằng
đá trang trí rất hoa lệ và chỗ để thắp đuốc trong các buổi lễ tế. Cấu trúc của các đền
thờ này được xây bằng những vòm khung với tay đỡ, những tảng đá lớn được xếp
như những kim tự tháp lõm chồng lên nhau.Nếu như đền Parashurameshwar, ngôi
đền cổ nhất ở Bhuvanesvar, được tạo hình với mái vòm nổi tiếng với các cửa sổ


mắt cấp bằng đá và những chú lùn nhảy múa thì cách đó vài 3 trăm mét, ngôi đền
Muktesvak được gọi là “giấc mơ trên đá sa thạch” với bề mặt được tạo hình bởi
hình ảnh các vị thần, các đôi nam nữ khoả thân.Với những gì còn lại sau những
xâm thực của thiên nhiên, bằng sự huy hoàng và tráng lệ vẫn đang hiện diện và
sống động như cuộc sống hiện tại, Bhuvanesvar được xem là niềm tự hào của kiến
trúc Ấn Độ giáo.
III, Đánh giá, nhận xét những thành tựu kiến trúc Ấn Độ giáo của văn
minh Ấn Độ cổ trung đại và ảnh hưởng của nó đến kiến trúc Việt Nam
1, Đánh giá, nhận xét những thành tựu kiến trúc Ấn Độ giáo của văn
minh Ấn Độ cổ trung đại
Các công trình kiến trúc đều mang đậm nét tôn giáo và ảnh hưởng mạnh mẽ
từ đạo Hindu, từ đó tạo nên những giá trị lịch sử hết sức sâu sắc, ghi nhận các bước
phát triển của Ấn Độ giáo, nghệ thuật kiến trúc điêu khắc vào thời gian này đã đạt
đến độ tinh sảo, khẳng định sức sáng tạo của con người và đã làm phong phú thêm
kho tàng kiến trúc văn hoá nhân loại. Đây là những thành tựu kỹ thuật vô cùng
xuất sắc, nó để lại cho chúng ta những di sản có giá trị lớn không chỉ về mặt tôn
giáo tín ngưỡng mà còn về các ngành khoa học như khảo cổ và xây dựng. Qua thời
gian dài, cho dù bị tàn phá bởi tự nhiên và chiến tranh nhưng các công trình này
vẫn giữ được nét kiến trúc độc đáo đặc trưng, chúng có sức sống lâu bền, đi vào
tiềm thức của người dân Ấn Độ nói riêng và toàn nhân loại nói chung.

2, Ảnh hưởng kiến trúc Ấn Độ giáo của văn minh Ấn Độ thời cổ trung
đại đến kiến trúc Việt Nam
Ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ giáo cũng được thể hiện rõ nét ở khu vực
Trung và Nam bộ ở Việt Nam, đặc biệt là trên các công trình điêu khắc ở tháp
Chăm Mỹ Sơn, các mảng điêu khắc vũ nữ Trà Kiệu, tượng Apsara, các động tác


múa có ảnh hưởng từ các điệu múa nghi lễ, múa cung đình Ấn Độ đã được bản địa
hóa. Nghệ thuật và kiến trúc qua bố cục đền tháp mang ảnh hưởng lớn của phong
cách Ấn Độ. Khu thánh địa có một tháp chính (kalan) và nhiều tháp phụ nhỏ bao
bọc xung quanh. Các tháp đều có hình chóp, biểu tượng của đỉnh Meru thần thánh,
nơi cư ngụ của các vị thần Hindu. Cổng tháp thường quay về phía Đông để tiếp
nhận ánh sáng Mặt Trời. Nhiều tháp có kiến trúc rất đẹp với hình những vị thần
được trang trí nhiều loại hoa văn. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ
Linga hoặc hình tượng của thần Shiva - thần bảo hộ của các triều vua Chămpa.
Tại khu tháp cổ Mỹ Sơn, người ta thấy có nhiều hiện vật tiêu biểu trong đó
đặc biệt là có những tượng vũ nữ, các thần linh thờ phụng của dân tộc Chăm,
những con vật thờ, cũng như những cảnh sinh hoạt cộng đồng.. Nhìn chung, trong
toàn bộ hiện vật, người ta có thể thấy được những nét độc đáo riêng biệt của kiến
trúc và điêu khắc Chăm có nguồn cảm hứng từ nghệ thuật Ấn Độ là Ajanta,
Badami và Ellora.
Ngoài ra, sự ảnh hưởng đậm nét của văn hóa Ấn Độ thông qua văn hóa
Chăm còn thể hiện rõ nét với nhiều phong cách khác nhau ở các tháp cổ ở Đồng
Dương (Thăng Bình, Quảng Nam), ở Tam An (Tam Kỳ, Quảng Nam, hay ở di tích
tháp Chăm mới được phát hiện ở xóm Cấm, Hòa Thọ Đông (Cẩm Lệ, Đà Nẵng)…
Như vậy, qua những công trình kiến trúc còn tồn tại ở di tích văn hóa Mỹ
Sơn và ở nhiều khu vực khác, chúng ta có thể thấy những biểu hiện của sự giao lưu
giữa các nền văn hóa, đặc biệt là sự kết tinh rực rỡ của các yếu tố văn hóa của nền
văn minh Ấn Độ nói chung và kiến trúc Ấn Độ giáo nói riêng ở trên mảnh đất
thánh địa này.

KẾT BÀI


Văn minh Ấn Độ là một nền văn minh phát triển, những giá trị của văn minh
Ấn Độ nói chung và thành tựu rực rỡ trên lĩnh vực kiến trúc Ấn Độ giáo nói riêng
đã trở thành một bộ phận quan trọng của văn minh nhân loại và có sức lan tỏa rất
mạnh mẽ, nhất là lan tỏa tới khu vực Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Tuy mỗi
phong cách kiến trúc tiêu biểu cho một khung niên đại nhất định thể hiện quá trình
phát triển rực rỡ hoặc lụi tàn, song văn minh Ấn Độ đã để lại những giá trị mang
đặc trưng riêng “bí ẩn nhưng huyền diệu, chân thực nhưng hùng vĩ, tâm linh
nhưng lại rất đời thường”. các công trình kiến trúc đó đã đóng góp cho nền văn
minh nhân loại và kho tàng văn hóa thế giới những thành tựu kiến trúc vẫn còn
sống mãi với thời gian.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Lịch sử văn minh thế giới – Vũ Dương Ninh ( Chủ biên ) – Nhà xuất bản
giáo dục
2, Lịch sử thế giới cổ đại – Lương Ninh ( Chủ biên ) - Nhà xuất bản Giáo
dục
3, />ArticleID=92197&ChannelID=3.
4, />ArticleID=103718&ChannelID=100.
5,o/ArticleDetail.aspx?
articleid=60877&sitepageid=276.
6,

/>
va-tay-nam-a/1108-khajuraho-mot-ngoi-den-doc-dao-trong-van-hoa-an-do.html



PHỤ LỤC
Một số hình ảnh tiêu biểu về kiến trúc Ấn Độ giáo của nền văn minh Ấn
Độ cổ trung đại
Khu đền tháp Khajuraho

Khu đền Khajuraho có thể được coi là một bảo tàng ngoài trời với hàng triệu
hình chạm khắc tinh xảo trên đá sa thạch. Khắp bề mặt các ngôi đền, từ những bậc
đá lên tới tận đỉnh tháp, là các bức tượng bằng đá diễn tả cảnh sinh hoạt của người
Ấn Ðộ thời cổ đại. Qua những câu chuyện lịch sử trên đá này, chúng ta có thể hình
dung ra mức độ phát triển của xã hội Ấn Độ hàng ngàn năm trước. Đây là một
trong những thành tựu vô cùng nổi bật của kiến trúc Ấn Độ thời cổ trung đại, được
đánh giá là một trong những khu đền độc đáo và xuất sắc nhất Ấn Độ, được
UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới vì “những giá trị sáng tạo nghệ thuật
độc nhất vô nhị”.


Khu Đền tháp Ellora

Quần thể hang động Ellora là công trình kiến trúc thể hiện rõ nhất thời kỳ
lịch sử Mohammd Bin Tughlak – người cai trị ở Delhi, Ấn Độ vào thế kỷ 14. Cấu
trúc phía bên trong hang động khá phức tạp với những hành lang và lối đi ngược
xuôi. Một số hang động có 2 tầng hoặc 3 tầng và có hành lang riêng. Tổng thể
những công trình kiến trúc hang động ở Ellora tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp,
mang đến cho người ta một cảm giác bình yên khi đến thăm nơi đây.
Thánh tích nổi tiếng Mahabalipuram


Thánh tích nổi tiếng Mahabalipuram được biết đến với nhiều ngôi đền độc
đáo và những hình phù điêu khổng lồ quả là điều kỳ diệu của nghệ thuật miền nam
Ấn Độ. Không phải ngẫu nhiên mà có các nhà khoa học đã ví khu đền

Mahabapuram như đỉnh Everest của nghệ thuật cổ Trung đại của Ấn Độ.Họ sử
dụng vật liệu bằng đá để xây dựng và điêu khắc, chứng tỏ nghệ thuật chạm khắc
đến mức tinh vi. Họ muốn làm ra một tác phẩm để lại cho mọi thế hệ sau này
chiêm ngưỡng.
Thành phố thánh Bhuvanesvar

Thành phố của những ngôi đền này được so sánh như một “toà thánh" của
Ấn Độ bởi sự hùng vĩ của những ngôi đền tượng trưng cho núi vũ trụ Mêru.Với
những gì còn lại sau những xâm thực của thiên nhiên, bằng sự huy hoàng và tráng
lệ vẫn đang hiện diện và sống động như cuộc sống hiện tại, Bhuvanesvar được xem
là niềm tự hào của kiến trúc Ấn Độ giáo. Và như đại thi hào Tagor đã viết,
Bhuvanesvar là “nơi ở của Thượng đế được bao phủ bởi những cái thiện và cái ác,
cái vĩ đại cũng như cái tầm thường và những hoạt động của con người... Cuộc sống
này là đền thánh đời đời của ngài”.


Một số hình ảnh về sự ảnh hưởng của kiến trúc Ấn Độ giáo đến kiến trúc Việt
Nam


Tháp Chăm – Mỹ Sơn


Kiến trúc Chăm luôn dựa vào môtíp của Ấn Độ giáo để rồi biến hoá thành
cái riêng mình. Các tháp Chăm hướng về hình khối đơn giản, vốn cũng chịu ảnh
hưởng của Ấn Độ giáo như ở Ấn Độ, đền tháp Ăngko (Campuchia), tháp
Borobudur (Indonesia). Tháp Chăm luôn hướng về sự cân xứng, đẹp mắt, vừa độc
đáo vừa có cá tính, kĩ thuật, bí quyết riêng mà đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn.
Đó là thành tựu, là nét bản sắc riêng biệt, cho thấy sự tiếp biến văn hóa tài tình, sức
sáng tạo, tài ba độc đáo của những nhà kiến trúc, điêu khắc Chăm xưa.




×