Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

báo cáo thực tập giữa khóa một số vấn đề lý LUẬN về DOANH NGHIỆP FDI, HIỆP ĐINH THƯƠNG mại tự DO và HIỆP ĐỊNH đối tác XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.11 KB, 24 trang )

MỤC LỤC

1


CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH
NGHIỆP FDI, HIỆP ĐINH THƯƠNG MẠI TỰ DO VÀ HIỆP
ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
1. Khái quát về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
1.1 Lịch sử hình thành và diễn biến đàm phán Hiệp định TPP
1.1.1 Lịch sử hình thành Hiệp định TPP
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, hay còn gọi là Hiệp định thương
mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện nay có nguồn gốc từ Hiệp định hợp tác Kinh
tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership
Agreement – còn gọi là P4) - một Hiệp định thương mại tự do được ký kết ngày
3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa 4 quốc gia là Singapore, Chile, New Zealand
và Brunei. Hiệp định này khởi nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do
nguyên thủ 3 nước Chile, New Zealand và Singapore (P3) phát động đàm phán nhân
dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mexico. Tháng 4 năm 2005, Brunei xin
gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc,
biến P3 thành P4.
Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của
Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳvề khả
năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Phía Hoa Kỳ cũng bắt đầu tiến
hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghịviện về vấn đề
này.
Tháng 9/2008, Đại diện thương mại Hoa Kì (USTR) thông báo quyết định của
Hoa Kỳ tham gia đàm phán P4 mở rộng và chính thức tham gia một số cuộc thảo luận
về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính với các nước P4. Tháng 11 cùng năm, các nước
Australia, Peru và Việt Nam cũng bày tỏ sự quan tâm và tham gia đàm phán TPP,
nâng tổng số thành viên tham gia lên 8 nước (trừ Việt Nam đến 13/11/2010 mới tuyên


bố tham gia đàm phán với tư cách thành viên đầy đủ, các nước khác quyết định tham
gia chính thức ngay từ đầu). Cũng từ thời điểm này, đàm phán mở rộng P4 được đặt
tên lại là đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

2


Tuy nhiên đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối năm 2009 do phải chờ
đợi Hoa Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền mới của Tổng thống
Obama tham vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP. Tháng 12/2009, Đại diện
thương mại Hoa Kỳ mới thông báo quyết định của Tổng thống Obama về việc Hoa Kỳ
tiếp tục tham gia TPP.Chỉ lúc này đàm phán TPP mới được chính thức khởi động.
Về phía Việt Nam, từ năm 2006, qua nhiều kênh, Singapore đã rất tích cực mời
Việt Nam tham gia TPP - P4. Trước những cân nhắc cả về khía cạnh kinh tế và chính
trị, Việt Nam chưa nhận lời mời này của Singapore.Tuy nhiên, với việc Mỹ quyết định
tham gia TPP, và trước khi tuyên bố tham gia TPP, Mỹ đã mời Việt Nam cùng tham gia
Hiệp định này, Việt Nam đã cân nhắc lại việc tham gia hay không tham gia TPP.
Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư cách thành
viên liên kết.Tháng 11/2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách này,
Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP.Trước đó, tháng 10/2010, Malaysia
cũng chính thức tham gia vào TPP, nâng tổng số nước tham gia đàm phán lên thành 9
nước.
Như vậy, có 8 đối tác tham gia 3 Vòng đàm phán đầu tiên của TPP, bao gồm 4
nước thành viên P4 (là New Zealand, Brunei, Chile, Singapore) và 4 nước bên ngoài
(là Australia, Peru, Hoa Kỳ và Việt Nam). Malaysia là nước thứ 9 tham gia đàm phán
TPP từ Vòng đàm phán thứ 3.
Trong tương lai, số lượng các bên tham gia đàm phán còn có thể mở rộng thêm
bởi nhiều nước khác trong khu vực ASEAN và APEC đã tỏ thái độ quan tâm đến TPP,
đặc biệt là Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc, Indonesia và Thái Lan.
1.1.2 Diễn biến đàm phán Hiệp định TPP

Hiệp định TPP là Hiệp định mang tính mở rất cao, được kì vọng sẽ trở thành
một khuôn khổ thương mại toàn diện và là Hiệp định thương mại tự do khuôn mẫu của
thế kỷ 21. Tuy không phải là chương trình hợp tác trong khuôn khổ APEC nhưng các
thành viên APEC đều có thể gia nhập nếu quan tâm. Các đối tác mong muốn mở rộng
TPP và sử dụng TPP như một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng vềKhu vực Mậu dịch
Tự do Châu Á-Thái Bình Dương của APEC (FTAAP).Tính đến nay, các đối tác của
Hiệp định TPP đã trải qua 11 vòng đàm phán chính thức:

3


Vòng đàm phán thứ nhất: Vòng đàm phán chính thức thứ nhất của TPP được tổ
chức từ ngày 15-19 tháng 3/2010 tại Melbourne (Australia) với sự tham gia của hơn
200 quan chức của Australia, Hoa Kỳ, New Zealand, Chile, Singapore, Brunei, Peru và
Việt Nam. Kết quả đạt được từ vòng đàm phán này đã đem lại cho TPP một khởi đầu
mạnh mẽ.
Các nhà đàm phán TPP trao đổi quan điểm về hàng loạt các vấn đề sẽ được đưa
vào các cuộc đàm phán và nêu ra các phương pháp tiếp cận mới đối với những trở ngại
mà các doanh nghiệp trong khu vực gặp phải và các lĩnh vực mới nổi của thương mại
quốc tế như dịch vụ, thương mại điện tử và công nghệ xanh. Các bên cũng rất quan
tâm đến việc phát triển một khung đàm phán tốt nhất cho một hiệp định chất lượng cao
của thế kỷ 21 cũng như mục tiêu mở rộng hiệp định cho các quốc gia khác trong khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Vòng đàm phán thứ hai: Vòng đàm phán thứ hai của TPP được tổ chức tại San
Francisco (Hoa Kỳ) từ ngày 14 - 18 tháng 6/2010 đã đạt được những tiến triển đáng kể
cả về cấu trúc của Hiệp định cũng như hàng loạt các vấn đề cụ thể trong TPP.
Các nước TPP thống nhất rằng các Hiệp định thương mại song phương giữa các
nước TPP sẽ tiếp tục tồn tại song song với TPP, điều này sẽ giúp cho các doanh
nghiệp lựa chọn sử dụng hiệp định nào tốt hơn cho hàng hóa, dịch vụ hay đầu tư của
mình.Vòng đàm phán lần này cũng đạt được tiến bộ vững chắc về phương pháp tiếp

cận đàm phán về kết quả của tiếp cận thị trường và làm thế nào để phản ánh những kết
quả đó trong hiệp định.
Các trưởng đoàn đàm phán cũng đạt được sự thống nhất về hàng loạt các vấn đề
chung quan trọng của thế kỷ 21 định hướng cho các cuộc đàm phán liên quan đến thúc
đẩy sự tham gia của doanh nghiệp vừa và nhỏ và thúc đẩy tính thống nhất pháp lý,
v.v... Ngoài ra, các nhà đàm phán TPP cũng đạt được các tiến triển về hàng loạt các
vấn đề truyền thống của FTA bao gồm hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ,
sở hữu trí tuệ, các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, chính sách cạnh tranh, các vấn
đề pháp lý và xây dựng năng lực. Các cuộc thảo luận cũng tập trung vào loại điều
khoản nào quy định về thương mại và lao động, thương mại và môi trường phù hợp
với TPP.

4


Vòng đàm phán thứ ba: Vòng đàm phán thứ 3 của TPP được tổ chức tại Brunei
từ ngày 4 - 9 tháng 10/2010 với sự tham gia của thành viên mới – Malaysia.24 nhóm
đàm phán đã gặp gỡ và thảo luận về các vấn đề như hàng hóa công nghiệp, nông
nhiệp, các tiêu chuẩn, dịch vụ, đầu tư , dịch vụ ngân hàng, sở hữu trí tuệ, mua sắm
chính phủ, cạnh tranh, lao động và môi trường.
Các nhóm đàm phán đã bắt đầu soạn thảo các điều khoản (như các nhóm dịch
vụ và đầu tư) hoặc đang chuẩn bị để đưa ra dự thảo. Các cuộc đàm phán về mục tiêu
và phương pháp tiếp cận thị trường tiếp tục diễn ra với quan điểm hướng tới đạt được
mục tiêu chung về một hiệp định tham vọng cao thúc đẩy hội nhập khu vực, bao gồm
việc thông qua các quy tắc xuất xứ khu vực và đã thống nhất được phương pháp bắt
đầu các cuộc đàm phán về tiếp cận thị trường. Các nước TPP cũng tiếp tục đàm phán
về các cam kết nền và tọa đàm hỗ trợ kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực về các vấn đề
vệ sinh dịch tễ, lao động và môi trường liên quan đến thương mại.
Vòng đàm phán thứ tư: Vòng đàm phán thứ tư Hiệp định TPP được tổ chức tại
Auckland (New Zealand) từ ngày 6-10 tháng 12/2010, với sự tham gia của 9 nước

(Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam),
tiếp tục đạt được tiến bộ về tất cả các vấn đề đàm phán. Đây cũng là vòng đàm phán
đầu tiên Việt Nam tham gia với tư cách thành viên đầy đủ.
Với mục tiêu kết thúc đàm phán càng sớm càng tốt, các cuộc đàm phán đã diễn
ra khẩn trương ở cả 24 nhóm đàm phán. Các nhà đàm phán cũng kết thúc các công
việc chuẩn bị cho việc trao đổi các bản chào ban đầu về tiếp cận thị trường hàng hóa,
dự kiến diễn ra vào tháng 1/2011. Các bản chào ban đầu về dịch vụ và đầu tư cũng
được chuẩn bị để đưa ra vào tháng 3/2011.
Vòng đàm phán thứ năm: Vòng đàm phán thứ năm Hiệp định TPP diễn ra tại
Santiago (Hoa Kỳ) từ ngày 14-18 tháng 2/2011. Dự thảo hiệp định được đem ra thảo
luận ở hầu hết 24 nhóm đàm phán và đề xuất của các nước được xem xét một cách cẩn
thận. Sau đó, các nhà đàm phán hợp nhất các đề xuất đó lại và soạn thảo Dự thảo, cố
gắng thu hẹp khoảng cách giữa chúng nhưng vẫn cân nhắc đến lợi ích và quan ngại
của mỗi quốc gia.
Các đàm phán về tiếp cận thị trường đối với hàng hóa bắt đầu ở Santiago, sau
khi các bên trao đổi các bản chào ban đầu vào tháng 1/2011. Các bên cũng đồng ý trao

5


đổi các bản chào về tiếp cận thị trường đối với dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ
trước vòng đàm phán tới. Các bản chào dịch vụ và đầu tư sẽ được thực hiện theo
phương pháp “chọn - bỏ”, đối với tất cả các nước TPP.
Vòng đàm phán thứ sáu: Vòng đám phán này diễn ra tại Singapore từ 24/3 đến
1/4 năm 2011. Bản thảo hiện tại đang được đưa ra thảo luận trong mỗi nhóm đàm phán
và các cuộc thảo luận đã đạt được kết quả trong việc làm rõ hơn và hài hòa các khoảng
cách về vị thế. Các bản chào ban đầu về tiếp cận thị trường được trao đổi trước vòng
đàm phán này về dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ. Phù hợp với một hiệp định
TPP tham vọng cao, các bản chào đầu tư và dịch vụ được thực hiện trên cơ sở “chọn bỏ” (negative list) - một thực tiễn chưa từng xảy ra trước kia đối với một số nước TPP.
Các cuộc thảo luận cũng đạt được các tiến triển về các cam kết nền về các vấn

đề chung, như gia tăng sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào thương mại
quốc tế, tăng cường hài hòa pháp lý, thúc đẩy chuỗi cung ứng và sản xuất trong khu
vực.
Vòng đàm phán thứ bảy: Vòng đàm phán thứ bảy diễn ra tại TP Hồ Chí Minh
(Việt Nam) từ ngày 15-24 tháng 6/2011. Các bên đã làm việc nhằm củng cố các vấn đề
hiện tại và xem xét các đề xuất mới ở các nhóm làm việc, bao gồm sở hữu trí tuệ, dịch
vụ, minh bạch, truyền thông, hải quan và môi trường. Các bên tiếp tục thảo luận về
từng bản chào của các nước và phương pháp tiếp cận thị trường, các cam kết về lĩnh
vực dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ. Các đề xuất của Hoa Kỳ vềtăng cường sự
tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thương mại quốc tế, cải thiện sự hài
hòa pháp lý, tăng cạnh tranh và các chuỗi cung ứng được xem xét.
Vòng đàm phán thứ tám: Vòng đàm phán thứ tám diễn ra tại Chicago (Hoa Kỳ)
từ 6 -15 tháng 9/2011. Các bên đã đạt được tiến bộ trong củng cố và thu hẹp vị thế
giữa các bên đàm phán tại hơn 20 chương trong dự thảo văn kiện hiện tại. Đặc biệt,
quá trình đàm phán đạt được bước tiến quan trọng trong các vấn đề Hải quan, Kiểm
dịch động thực vật (SPS), các Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại (TBT), vấn đề
Viễn thông và Mua sắm Chính phủ. Các bên tiếp tục xem xét bản chào mới trong một
số các chương về môi trường, sở hữu trí tuệ (tại chương này, Hoa Kỳ đã chi tiết một số
điều khoản mới liên quan đến mặt hàng tân dược) và tính minh bạch.

6


Vòng đàm phán thứ chín: Vòng đàm phán này được tổ chức lại Lima (Peru) từ
ngày 19-28 tháng 10 năm 2011. Các bên đàm phán tiếp tục đạt được các tiến triển mới,
đặc biệt ở một số chương về các vấn đề Vệ sinh và dịch tễ (SPS), Rào cản Kỹ thuật đối
với Thương mại (TBT) và các Quy định về Nguồn gốc xuất xứ(ROOs). Một đề xuất
mới về vấn đề Doanh nghiệp Nhà nước (SOEs) cũng được đưa ra và được thảo luận
trong nhóm làm việc về Chính sách Cạnh tranh.Vòng đàm phán thứ 9 cũng đạt được
nhiều tiến bộ về tiếp cận thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, mua sắm chính

phủ.Ngoài ra, có một số đề xuất phức tạp và nhạy cảm cũng được đưa ra, bao gồm vấn
đề sở hữu trí tuệ và tính minh bạch.
Cuộc họp các Nhà lãnh đạo TPP bên lề Hội nghị cấp cao APEC 19: diễn ra
trong 2 ngày 12-13 tháng 11 năm 2011 tại Hawaii (Hoa Kỳ). Tại đây các Nhà lãnh đạo
TPP đã đưa ra được các văn kiện quan trọng bao gồm: Bản mô tả các lĩnh vực đàm
phán chính của Hiệp định TPP, Báo cáo của các Bộ trưởng thương mại gửi các Nhà
lãnh đạo TPP và Bản tuyên bố của các Nhà lãnh đạo TPP.
Vòng đàm phán thứ mười: Vòng này diễn ra tại Kuala Lumpur (Malaysia)
từngày 5 – 9 tháng 12 năm 2011. Tuy nhiên, chỉ có một vài nhóm đàm phán gặp mặt
và làm việc trong suốt tuần, bao gồm các nhóm đàm phán về nguồn gốc xuất xứ, dịch
vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Các nhóm đàm phán về tiếp cận thị trường hàng công
nghiệp, nông nghiệp và dệt may cũng có buổi gặp mặt. Các bên đã làm việc cùng nhau
để thảo ra một bản kế hoạch chi tiết nhằm kết thúc đàm phán ở cả hơn 20 nhóm đàm
phán, bao gồm cả các cuộc làm việc giữa kỳ.
Vòng đàm phán thứ mười một: Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 2 – 7 tháng
3 năm 2012 tại Melbourne (Australia). Trong các phiên họp, các nhà đàm phán tiếp tục
bàn về vấn đề pháp lý, đầu tý, các rào cản kỹ thuật thương mại, quy tắc xuất xứ, quyền
sở hữu trí tuệ, lao động, dịch vụ tài chính, đầu tý, nhập cảnh tạm thời, và các biện pháp
khắc phục hậu quả thương mại. Thêm vào đó, các nhà đàm phán cũng đã bắt đầu các
cuộc thảo luận về hợp tác quản lý và xây dựng năng lực thương mại.
Ngoài ra, các thành viên đã thảo luận về các vấn đề liên quan đến môi trường,
viễn thông, cạnh tranh, mua sắm chính phủ, thương mại điện tử, tiếp cận thị trường, và
các vấn đề hải quan. Bên lề các cuộc đàm phán, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế TPP

7


cũng tham gia vào Diễn dàn mở do Australia tổ chức, tạo điều kiện cho khoảng 250
bên liên quan thảo luận về các vấn đề quan tâm trong các cuộc đàm phán.
Vòng đàm phán thứ mười hai : Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 8 – 18

tháng 5 năm 2012 tại Dallas ( Hoa Kỳ). Trong vòng này, 9 quốc gia tham gia đàm
phán đã có những trao đổi quan trọng xung quanh đề xuất của Hoa Kỳ về vấn đề
doanh nghiệp nhà nước, một nội dung mới và đầy thách thức được đưa ra nhằm thiết
lập các quy định để đảm bảo rằng các doanh nghiệp nhà nước sẽ phải cạnh tranh bình
đẳng với các doanh nghiệp tư nhân. Các nhóm đàm phán cũng đã có những trao đổi
hiệu quả về các vấn đề mới liên quan đến thương mại, môi trường, kinh tế điện tử, và
sự phát triển của các chuỗi cung ứng hàng hóa trong khu vực
Vòng đàm phán thứ mười ba : Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 2 – 10 tháng
7 năm 2012 tại California ( Hoa Kỳ Các nhóm đàm phán đã đạt được tiến bộ quan
trọng trong các vấn đề như hải quan, dịch vụ xuyên biên giới, truyền thông, đầu tư
công, chính sách cạnh tranh, hợp tác và xây dựng năng lực. Thêm vào đó, các nhóm
đàm phán cũng đã đạt được nhiều thỏa thuận liên quan đến các vấn đề nguyên tắc xuất
xứ hàng hóa, đầu tư, dịch vụ tài chính, tạm nhập tái xuất… Đáng lưu ý, Hoa Kỳ đã đệ
trình một bản đề xuất mới về sở hữu trí tuệ liên quan đến các hạn chế và ngoại lệ đối
với bản quyền.. Bên cạnh những vấn đề nêu trên, 9 quốc gia đàm phán cũng tiếp tục
thảo luận chuyên sâu về các gói thuế quan đầy tham vọng mà có thể giúp các quốc gia
này tiếp cận thị trường của nhau trên các lĩnh vực dệt may, nông nghiệp và công
nghiệp. Họ cũng đã thảo thuận về việc làm thế nào để thúc đẩy các chuỗi cung ứng
trong khu vực nhằm tối đa hóa lợi ích của hiệp định.
Vòng đàm phán thứ mười bốn :Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 6 – 15
tháng 9 năm 2012 tại Virginia (Hoa Kỳ) Các nhóm đàm phán đã đạt được những tiến
triển ở một loạt các chương như tiếp cận thị trường, hải quan, nguồn gốc xuất xứ, rào
cản kỹ thuật đối với thương mại, các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ, dịch vụ xuyên biên
giới, truyền thông, mua sắm chính phủ và các vấn đề khác. Các tiến triển cũng đạt
được trong việc hình thành biểu thuế và các cam kết mở cửa thị trường cụ thể khác đối
với hàng hóa công nghiệp, nông nghiệp, dệt may, dịch vụ và đầu tư, và mua sắm chính
phủ. Đồng thời, 9 nước đàm phán cũng tiếp tục tập trung vào các vấn đề quan trọng từ
sở hữu trí tuệ đến lao động và môi trường và các chủ đề khác nhằm giải quyết những

8



vấn đề chính mà các nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, người nông dân và chủ trang
trại gặp phải trong thế kỷ 21.
Vòng đàm phán thứ mười lăm: Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 3 – 12 tháng
12 năm 2012 Aukland (New Zealand) Các nhà đàm phán từ 11 nước đã tập trung tìm
kiếm những giải pháp thực tế và có lợi chung đối với những vấn đề vẫn còn đang cân
nhắc, và tạm thời bỏ qua những vấn đề còn nhiều thách thức cho vòng đàm phán tới.
Cụ thể, các nước đã nỗ lực để kết thúc đàm phán về lời văn đối với 29 chương của
hiệp định bao gồm tất cả các vấn đề liên quan đến thương mại và đầu tư. Với rất nhiều
chương phía trước các bên đồng ý sẽ tiếp tục làm việc từ giờ cho đến vòng đàm phán
sau để có thể giải quyết một loạt các vấn đề như hải quan, truyền thông, rào cản kỹ
thuật đối với thương mại, vệ sinh dịch tễ…và hết sức tập trung và các chương mà còn
nhiều vấn đề chưa được thống nhất.
Vòng đàm phán thứ mười sáu: Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 4 – 13 tháng
3 năm 2013 tại Singapore. Vòng đàm phán tại Singapore cho thấy nhiều khó khăn mới
nảy sinh nếu các quốc gia khác gia nhập TPP. Ví dụ như tại Mexico, các bên liên quan
đang cố gắng tìm kiếm các ngoại lệ khỏi việc phải mở cửa hoàn toàn đối với một loạt
các mặt hàng như dệt may, giày dép và sản phẩm từ trứng, sữa.
Điểm tích cực là các vấn đề như hải quan , viễn thong, hài hòa pháp lý và phát
triển đã hoàn thành đàm phán, ngoại trừ một số quyết định chính trị chủ chốt sẽ được
đưa ra sau. USTR tuyên bố rằng các nhà đàm phán sẽ không quay lại những vấn đề
này cho đến “những vòng đàm phán cuối cùng”. Một trong những vấn đề then chốt cần
được giải quyết giữa Việt nam và Hoa Kỳ là hàng dệt may và đã có một vài dấu hiệu
tích cực trong vòng đàm phán này. USTR đã đưa ra định nghĩa về “nguồn cung ngắn
hạn (short – supply)” cho quy tắc xuất xứ nghiêm ngặt “từ sợi trở đi” (yarn – forward)
đối với dệt may mà Hoa Kỳ đề xuất trước đó. Về phía mình, Việt nam ít nhất cũng thể
hiện việc “sẵn sàng xem xét” hướng tiếp cận này. Việt Nam thể hiện rõ ràng mong
muốn được tìm hiểu kỹ càng hơn về những ngoại lệ này để xem đó có phải là một
“hướng đi tốt” hay không.

Vòng đàm phán thứ mười bảy: Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 15 – 24
tháng 5 năm 2013 tại Li – Ma (Peru). Tại Phiên đàm phán này, các Trưởng đoàn và các
Nhóm kỹ thuật đã tích cực thảo luận nhằm hướng đến mục tiêu kết thúc đàm phán

9


trong năm 2013 theo đúng kế hoạch đã được các Bộ trưởng các nước TPP thông qua
tại cuộc họp bên lề Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế APEC tổ chức vào tháng 4 năm
2013.Các nước nhận thấy thách thức vẫn còn trong một số lĩnh vực như sở hữu trí tuệ,
môi trường và cạnh tranh. Do tính chất phức tạp, các lĩnh vực đàm phán mở cửa thị
trường về hàng hóa, mua sắm chính phủ, dịch vụ và đầu tư cũng cần thêm thời gian và
nỗ lực đàm phán.
Vòng đàm phán thứ mười tám: Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 15 – 25
tháng 7 năm 2013tại Kota Kinabalu ( Malaysia). Ngày 23/7/2013, Nhật Bản chính
thức trở thành thành viên thứ 12 tham gia Hiệp định TPP. Tại phiên này, 13 nhóm đàm
phán đã thảo luận các lĩnh vực đầu tư, danh mục bảo lưu các biện pháp không tương
thích trong dịch vụ và đầu tư,cạnh tranh, mở cửa thị trường hàng hóa , quy tắc xuất xứ,
hàng rào kỹ thuật trong thương mại, dịch vụ tài chính, thương mại điện tử, di chuyển
thể nhân, sở hữu trí tuệ, môi trường, mua sắm chính phủ và các vấn đề về pháp lý và
thể. Riêng đối với lĩnh vực mở cửa thị trường đối với các sản phẩm công nghiệp, nông
nghiệp, dệt may, các nước đã thống nhất một chương trình làm việc cụ thể để thúc đẩy
đàm phán, hướng tới mục tiêu tự do hóa một các toàn diện
Vòng đàm phán thứ mười chín :Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 24 – 30
tháng 8 năm 2013 tại Brunei. Các nhóm đàm phán có thời gian kéo dài nhất trong
vòng này là nhóm đàm phán về Sở hữu trí tuệ (IPR) và nhóm về Tiếp cận thị trường.
Một vấn đề vẫn chưa được giải quyết trong chương IPR cũng như các quy định chung
về quyền sở hữu trí tuệ trong dược. Trong vòng đàm phán 18 tại Malaysia, Hoa Kỳ đã
giải thích cho các nước TPP khác về lý do pháp luật của Hoa Kỳ quy định 12 năm cho
bảo hộ độc quyền dữ liệu đối với dược phẩm sinh học, nhưng đã không đưa ra một đề

xuất cụ thể nào cho vấn đề này để thảo luận.
Vòng đàm phán thứ hai mươi : Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 7 – 10 tháng
12 năm 2013 tại Singapore. Tại đây, Nhật và Hoa Kỳ - hai nước bất đồng về các vấn
đề gai góc như mức thuế quan của Nhật đối với nông sản và buôn bán ô tô đã không
thể san lấp cách biệt tại hội nghị này, gây cản trở cho cuộc đàm phán. Vòng đàm phán
thứ hai mươi đã kể thúc với những kết quả không được như mong đợi
Vòng đàm phán thứ hai mươi mốt: Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 22 – 25
tháng 2 năm 2014 tại Singapore.Cho dù vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục phải thảo

10


luận, nhưng qua các cuộc họp song phương, các bên đã tìm được những tiếng nói
chung về lĩnh vực tiếp cận thị trường - một trong những vấn đề quan trọng còn tồn tại
nhiều khác biệt.
Sở dĩ tiếp cận thị trường - khái niệm khá rộng bao gồm các lĩnh vực từ hàng
hóa, dịch vụ đến mua sắm chính phủ - trở thành trở ngại lớn nhất trong đàm phán TPP
giữa 12 quốc gia bởi đụng chạm đến nhiều lĩnh vực mang tính cốt lõi đối với các nước.
Trước khi diễn ra cuộc đàm phán đầu tiên trong năm 2014 này, với mục đích phá vỡ
rào cản thương mại trên một loạt lĩnh vực, các bộ trưởng cho rằng họ đã gần đạt được
thỏa thuận cuối cùng. Tuy nhiên, sự khác biệt về thuế quan đối với hàng hóa nhập
khẩu - đặc biệt giữa Mỹ và Nhật Bản - đã được chứng minh là vẫn còn nhiều khó
khăn. Trong khi Mỹ muốn bảo hộ cho thị trường ô tô con thì Nhật Bản không muốn
cắt giảm thuế nhập khẩu đối với 5 mặt hàng nông sản trong đó có gạo, thịt bò
Có thể thấy tiến trình đàm phán Hiệp định TPP đang diễn ra một cách nhanh
chóng và cởi mở giữa các quốc gia nhằm tiến tới một Hiệp định thương mại tự do tiêu
chuẩn cao, một hình mẫu của FTA thế hệ mới thế kỷ 21 với mức độ mở cửa mạnh mẽ
ở tất cả các ngành, có tác động lớn đến thương mại giữa các đối tác của Hiệp định TPP.
1.2 Những nội dung cơ bản của Hiệp định TPP
1.2.1 Đặc trưng chính của Hiệp định TPP

Với việc đặt nhiều kì vọng vào Hiệp định TPP nhằm mục tiêu tăng cường
thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên TPP, thúc đẩy sợ đổi mới, tăng trưởng
kinh tế và phát triển và hỗ trợ, tạo thêm và duy trì việc làm, trong Bản mô tảcác lĩnh
vực đàm phán chính của Hiệp định TPP được đưa ra vào ngày 12/11/2011, các Bộ
trưởng thương mại các nước thành viên TPP đã xác định 5 đặc trưng giúp Hiệp định
TPP trở thành một hiệp định mang tính bước ngoặt về thương mại của thế kỉ 21.
Những đặc điểm này bao gồm:
 Tiếp cận thị trường toàn diện: bãi bỏ thuế và các rào cản thương mại hàng hóa,

dịch vụ và đầu tư, nhằm tạo ra những cơ hội mới cho người lao động và doanh
nghiệp cũng như những lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng.
 Hiệp định khu vực toàn diện: tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất và chuỗi

cung ứng giữa các thành viên TPP, hỗ trợ mục tiêu tạo việc làm, nâng cao mức

11


sống, cải thiện phúc lợi xã hội và tăng cường phát triển bền vững ở các nước
thành viên.
 Các vấn đề thương mại xuyên suốt: hình thành trên cơ sở những thỏa thuận đã
được thực hiện trong khuôn khổ APEC và các diễn đàn khác, và thông qua việc
đưa vào Hiệp định TPP 4 vấn đề mới, xuyên suốt, gồm:
• Gắn kết môi trường chính sách: Các cam kết sẽ thúc đẩy thương mại
giữa các nước thành viên thông qua việc tạo ra môi trường trao đổi
thương mại gắn kết và hiệu quả.
• Tạo thuận lợi thúc đẩy năng lực cạnh tranh và kinh doanh: Các cam kết
sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và khu vực của từng nền
kinh tế TPP và thúc đẩy hội nhập kinh tế và tạo thêm việc làm trong khu
vực thông qua phát triển chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực.

• Doanh nghiệp vừa và nhỏ: Các cam kết sẽ giải quyết những quan ngại
của doanh nghiệp vừa và nhỏ về khó khăn trong việc hiểu và vận dụng
các hiệp định thương mại, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và
nhỏgiao thương quốc tế.
• Phát triển: Tự do hóa thị trường một cách toàn diện và mạnh mẽ, cải
thiện thương mại và đầu tư, tăng cường kỷ cương và những cam kết
khác, bao gồm việc thiết lập cơ chế giúp các thành viênTPP thực thi hiệu
quả và tận dụng được tối đa những lợi ích mà Hiệp định mang lại, qua đó
góp phần tăng cường vai trò của những thể chế quan trọng đối với quản
lý và phát triển kinh tế, và từ đó góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy
những ưu tiên phát triển kinh tế của từng thành viên TPP.
 Những vấn đề mới trong thương mại: thúc đẩy thương mại và đầu tư đối với các
sản phẩm và dịch vụ mang tính sáng tạo, trong đó có nền kinh tế kỹ thuật số và
công nghệ xanh, và đảm bảo một môi trường kinh doanh cạnh tranh trong toàn
bộ khu vực TPP.
 Hiệp định mở: cho phép cập nhật hiệp định khi phù hợp để giải quyết các vấn

đề thương mại nảy sinh trong tương lai cũng như các vấn đề mới phát sinh
trong quá trình mở rộng Hiệp định để kết nạp thêm những thành viên mới.
1.2.2 Các vấn đề đàm phán chính của Hiệp định TPP
Hiệp định TPP được đàm phán theo cách tiếp cận cả gói, bao gồm toàn bộcác
lĩnh vực then chốt về thương mại và có liên quan đến thương mại. Không chỉcập nhật

12


các cách tiếp cận truyền thống đối với những vấn đề đã có trong các FTA trước đây,
Hiệp định TPP bao gồm thêm nhiều vấn đề mới, đang nổi và xuyên suốt.Hơn hai mươi
nhóm đàm phán đã làm việc tích cực nhằm đạt được thỏa thuận vềmở cửa thị trường
hàng hóa, dịch vụ và mua sắm chính phủ của các thành viên TPP khác.Tất cả chín

nước thành viên cũng nhất trí thông qua những tiêu chuẩn cao nhằm đảm bảo các bên
sẽ cùng chia sẻ tất cả lợi ích và nghĩa vụ của Hiệp định. Một bộ các cam kết mới,
xuyên suốt nhằm mục tiêu cắt giảm chi phí, tạo thuận lợi phát triển dòng chảy và mạng
lưới thương mại thông thoáng hơn giữa các thành viên TPP, khuyến khích sự tham gia
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thương mại quốc tế, và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và nâng cao mức sống. Các vấn đề chính đang đàm phán được mô tả trong Bản
mô tả các lĩnh vực đàm phán chính của Hiệp định TPP bao gồm:
 Cạnh tranh: Các thành viên TPP đã cam kết về việc thiết lập và duy trì các luật

và cơ quan quản lý cạnh tranh, thủ tục công bằng trong việc thực thi luật cạnh
tranh, minh bạch hóa, bảo vệ người tiêu dùng, quyền riêng tư về hành động và
hợp tác kỹ thuật.
 Hợp tác và nâng cao năng lực: Các thành viên đã triển khai một số hoạt động
hợp tác và nâng cao năng lực nhằm đáp ứng các yêu cầu cụ thể và đang lên kế
hoạch về những hoạt động bổ sung nhằm hỗ trợ các nước đang phát triển đạt
được các mục tiêu của Hiệp định.
 Cung cấp dịch vụ qua biên giới: Các thành viên TPP đã thống nhất phần lớn các

vấn đề cốt lõi liên quan đến cung cấp dịch vụ qua biên giới, đảm bảo một thị
trường công bằng, mở và minh bạch cho thương mại dịch vụ.
 Hải quan: Các nhà đàm phán đã đạt được thỏa thuận trong các vấn đề chính về

hải quan cũng như về tầm quan trọng của hải quan dễ dự báo, minh bạch và sự
kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan hải quan của các thành viên.
 Thương mại điện tử: Đàm phán đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong

việc giải quyết thuế hải quan trong môi trường số, việc chứng nhận các giao
dịch điện tử và bảo vệ người tiêu dùng. Các đề xuất khác về luồng thông tin và
việc xử lý các sản phẩm số đang tiếp tục được thảo luận.
 Môi trường: Các thành viên TPP đã thống nhất các điều khoản về các cấp

độbảo vệ môi trường và việc thực thi luật. Ngoài ra các vấn đề khác như đánh
bắt thủy sản và các vấn đề bảo tồn khác, đa dạng sinh học, sự xâm lấn của các

13


sinh vật lạ, biến đổi khí hậu, hàng hóa và dịch vụ môi trường đang được thảo
luận.
 Dịch vụ tài chính: Các thành viên TPP đang đàm phán về đầu tư vào các thểchế
tài chính và thương mại qua biên giới trong dịch vụ tài chính sẽ giúp đảm bảo
tính minh bạch, không phân biệt đối xử, đối xử công bằng với các dịch vụ tài
chính mới, các biện pháp bảo vệ đầu tư và một cơ chế giải quyết tranh chấp
hiệu quả để thực hiện những biện pháp bảo vệ này.
 Mua sắm chính phủ: Các nhà đàm phán TPP về cơ bản đã thống nhất các
nguyên tắc và cam kết về các hoạt động mua sắm chính phủ nhằm đảm bảo các
hoạt động này sẽ được thực hiện công bằng, minh bạch và không phân biệt đối
xử.
 Sở hữu trí tuệ: Các thành viên TPP đã nhất trí tăng cường và xây dựng các
quyền và nghĩa vụ dựa trên Hiệp định WTO về những khía cạnh liên quan đến
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) nhằm đảm bảo một cách tiếp cận
hiệu quả và cân bằng đối với vấn đề quyền sở hữu trí tuệ giữa các nước thành
viên TPP.
 Đầu tư: Các thành viên TPP đang tiếp tục đàm phán về sự bảo vệ cơ bản
vềpháp lý đối với các nhà đầu tư và các hoạt động đầu tư của mỗi quốc gia
thành viên TPP trong lãnh thổ các thành viên TPP khác cũng như cơ chế giải
quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư và Nhà nước một cách nhanh chóng, công
bằng và minh bạch trên cơ sở cơ chế phù hợp bảo vệ Nhà nước.
 Lao động: Các nhà đàm phán đang tiếp tục thảo luận các cam kết về bảo
vệquyền lao động và các cơ chế nhằm đảm bảo hợp tác, phối hợp và đối thoại
về các vấn đề lao động mà các thành viên cùng quan tâm.

 Các vấn đề pháp lý: Các thành viên TPP đã đạt được tiến bộ về các điều khoản

liên quan đến thực thi hiệp định, các trường hợp ngoại lệ đối với các nghĩa vụ
của hiệp định cũng như về các quy tắc xử lý vấn đề minh bạch trong việc xây
dựng các điều luật, quy định hay các quy tắc khác.
 Tiếp cận thị trường hàng hóa: Các thành viên TPP đã thống nhất đưa ra các cam
kết quan trọng cao hơn các nghĩa vụ của WTO hiện nay, cũng như xóa bỏ các
rào cản phi thuế quan hiện nay. Ngoài ra, các bên cũng đang cân nhắc các vấn
đề liên quan đến cấp giấy phép xuất nhập khẩu, cạnh tranh xuất khẩu hàng nông
nghiệp và an ninh lương thực, cam kết ở mức cao với hàng dệt may,v.v...

14


 Quy tắc xuất xứ: Các thành viên TPP đã nhất trí xây dựng một bộ quy tắc xuất

xứ chung khách quan, minh bạch và dễ dự đoán nhằm xác định một sản phẩm
có xuất xứ từ khu vực TPP hay không. Ngoài ra, các đề xuất xây dựng một hệ
thống chứng nhận xuất xứ ưu đãi đơn giản, hiệu quả cũng đang được thảo luận.
 Các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động, thực vật (SPS): Các quốc gia
thành viên đã nhất trí tăng cường và phát triển nội dung này dựa trên các quyền
và nghĩa vụ hiện tại của các bên theo Hiệp định về kiểm dịch động thực vật
(SPS) của WTO.
 Các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT):Hiệp định TPP sẽ củng cố và
phát triển các quyền và nghĩa vụ hiện tại quy định ở Hiệp định về Các rào cản
kỹ thuật đối với thương mại (TBT) của WTO. Hiệp định bao gồm các 21cam
kết về lộ trình thực hiện, các thủ tục đánh giá sự phù hợp, các tiêu chuẩn quốc
tế, cơ chế thể chế và minh bạch hóa.
 Viễn thông: Các thành viên TPP ngoài việc thống nhất một hiệp định rộng, thể
hiện sự cần thiết về tiếp cận mạng lưới một cách hợp lý dành cho các nhà cung

cấp thông qua kết nối và tiếp cận cơ sở vật chất, đang tiếp tục thảo luận về tăng
cường tính minh bạch của quá trình ban hành chính sách và bảo đảm quyền
khiếu nại các quyết định.
 Di chuyển thể nhân: Các thành viên TPP về cơ bản đã kết thúc các điều khoản

chung về tăng cường tính minh bạch và hiệu quả trong quá trình giải quyết nhập
cảnh tạm thời, đồng thời thúc đẩy hợp tác kỹ thuật hiện tại giữa các nước TPP.
 Các biệp pháp phòng vệ thương mại: Các thành viên TPP đã nhất trí khẳng định

các quyền và nghĩa vụ của mình trong WTO và xem xét các vấn đề mới liên
quan đến những nghĩa vụ mới xây dựng trên cơ sở những quyền lợi và nghĩa vụ
hiện hành trong lĩnh vực minh bạch hóa và quy trình tố tụng.
1.3 Tự do hóa thương mại dịch vụ trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP)
1.3.1 Cách tiếp cận với tự do hóa thương mại dịch vụ trong Hiệp định TPP
Hiệp định TPP áp dụng cách tiếp cận “chọn – bỏ” – cách tiếp cận phổ biến
trong các FTA thế hệ sau. Cách tiếp cận được thực hiện như sau:Dự thảo mới nhất của
Hiệp định TPP quy định những nghĩa vụ cơ bản của các Thành viên trong việc mở cửa
thị trường và tự do hóa hoạt động thương mại dịch vụ cho nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài. Có 06 nghĩa vụ chủ yếu, bao gồm:
15


 Dành đối xử quốc gia (MFN).
 Dành đối xử tối huệ quốc (NT).
 Loại bỏ một số điều kiện đầu tư, hoặc điều kiện để được hưởng ưu đãi đầu tư,

trái với nghĩa vụ đối xử quốc gia và không áp dụng các biện pháp hạn chếsố
lượng đối với sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ.
 Loại bỏ các hạn chế, cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp

dịch vụ qua biên giới (Phương thức 1 và 2) và thành lập hiện diện thương mại
trên lãnh thổ nước mình để cung cấp dịch vụ (Phương thức 3).
 Loại bỏ yêu cầu “phải hiện diện ở nước sở tại” để được phép cung cấp dịch vụ

qua biên giới (Phương thức 1 và 2).
 Loại bỏ yêu cầu về quốc tịch của nhân sự quản lý cao cấp của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
Khi thông qua đàm phán, các thành viên được quyền bảo lưu một số biện pháp
không phù hợp với các nghĩa vụ nêu trên (được gọi là các biện pháp không tương
thích – non-conforming measures) Các biện pháp này được liệt kê theo lĩnh vực
hoặc chủ đề trong Danh mục bảo lưu của Thành viên kèm theo Hiệp định. Đặc biệt
với một hiệp định có tính mở cao như Hiệp định TPP, Danh mục bảo lưu cần phải
rất rõ ràng và chi tiết.
Hiệp định TPP cho phép 2 Danh mục bảo lưu, gồm:
 Danh mục I gồm các biện pháp phù hợp với các nghĩa vụ về đầu tư và dịch vụ,

được quy định trong pháp luật hiện hành hoặc điều ước quốc tế đã có hiệu lực
thi hành. Các biện pháp đã bảo lưu trong Danh mục I sẽ được tiếp tục áp dụng
theo đúng mô tả trong Danh mục. Hiệp định TPP không hạn chếquyền của
Thành viên điều chỉnh, sửa đổi pháp luật hiện hành có liên quan đến các biện
pháp này nhưng chỉ được điều chỉnh, sửa đổi theo hướng “tự do hơn”, hoặc ít ra
không kém thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, một khi đã được điều chỉnh theo hướng
tự do hơn thì việc điều chỉnh đó mặc nhiên trở thành nghĩa vụ ràng buộc mới,
các Thành viên không được rút lại nữa và cũng không cần phải điều chỉnh lại
Danh mục bảo lưu trong TPP.
 Danh mục II gồm các lĩnh vực, vấn đề mà các Thành viên bảo lưu quyền ban
hành mới (hoặc duy trì thực tiễn áp dụng) các biện pháp không phù hợp với các
nghĩa vụ về đầu tư và dịch vụ. Đây chủ yếu là những biện pháp chưa xuất hiện
hoặc chưa được đưa vào pháp luật và điều ước quốc tế hiện hành của mỗi
16



Thành viên. Danh mục này có tính linh hoạt cao hơn Danh mục I bởi các bên
được quyền ban hành, điều chỉnh, sửa đổi pháp luật có liên quan theo cả 2
hướng “tự do hơn” hoặc “hạn chế hơn”, không phải tuân thủ nguyên tắc “không
kém thuận lợi hơn” và “mặc nhiên trở thành nghĩa vụ mới” như Danh mục I.
1.3.2 Mục tiêu của các nước tham gia Hiệp định TPP trong lĩnh vực thương mại dịch
vụ
Hiệp định TPP có ý nghĩa vô cùng quan trọng với chính sách thương mại toàn
cầu vì nó được coi là giải pháp cho Vòng đàm phán Doha bế tắc, giúp giảm thuế quan,
mở cửa thị trường đặc biệt thị trường dịch vụ. Nó là một thỏa thuận tiến bộ của các đối
tác có tư duy giống nhau, tránh được các thỏa thuận song phương phức tạp. Đối với
mối quan hệ thương mại Châu Á – Thái Bình Dương, Hiệp định giúp tăng cường phát
triển kinh tế và tạo công ăn việc làm cho các nước thành viên; đặc biệt củng cố mối
quan hệ Mỹ - Châu Á; đồng thời bổ sung và gây ảnh hưởng với các FTA khác trong
châu Á. Hiệp định TPP được coi là mô hình mẫu cho các FTA của thế kỉ 21 vì nó tự do
hóa toàn diện thị trường trong nước; giúp thống nhất các FTA đan xen chằng chịt giữa
các quốc gia đàm phán hiện nay; đặc biệt chú trọng vào các ngành mới như công nghệ,
dịch vụ và đầu tư và tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực doanh nghiệp vừa và nhỏ,
phát triển, lao động. Chính vì ý nghĩa to lớn như vậy mà các quốc gia tham gia đàm
phán Hiệp định TPP đều đặt rất nhiều kỳ vọng vào sự thành công của hiệp định.
Đối với Hoa Kỳ - đối tác lớn nhất của Hiệp định TPP, Châu Á được coi là
thịtrường đặc biệt quan trọng. Theo Cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ, khu vực
châu Á – Thái Bình Dương là chìa khóa thúc đẩy kinh tế toàn cầu, chiếm tới gần 60%
GDP toàn cầu và khoảng 50% thương mại quốc tế. Từ năm 1990, thương mại hàng
hóa ở khu vực đã tăng 300% trong khi đầu tư quốc tế vào khu vực này tăng 400%.Việc
gia nhập đàm phán TPP mang tính chiến lược với Hoa Kỳ, thể hiện quyết tâm cao của
nước này trong việc tiếp cận hoàn toàn vào thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng này.
Mục tiêu chính của Hoa Kỳ khi gia nhập Hiệp định TPP là:
Thứ nhất, giải quyết tình trạng việc làm trong nước bằng cách đẩy mạnh

xuấtkhẩu sang thị trường các nước châu Á. Tại Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC diễn
ra vào ngày 13/12/2010, Tổng thống Obama đã phát biểu:” Ở khu vực này, Hoa
Kỳnhận thấy cơ hội vô cùng lớn để tăng cường xuất khẩu vào một trong những

17


thịtrường tăng trưởng nhanh nhất thế giới...” Chính ông đã nhấn mạnh mục tiêu của
Hoa Kỳ là tăng gấp đôi sản lượng xuất khẩu trong vòng 5 năm kể từ năm 2010, và điều
này sẽ tạo ra 2 triệu việc làm tại Hoa Kỳ.
Thứ hai, ngầm giải quyết sự mất cân bằng toàn cầu – một trong những nguyên
nhân của khủng hoảng kinh tế thế giới, do sự kết hợp giữa tình trạng thâm hụt thương
mại của Hoa Kỳ và thặng dư thương mại của các nước khu vực Đông Á. Hoa Kỳ
muốn kêu gọi các quốc gia với thặng dư thương mại lớn phát triển nhu cầu trong nước
của mình, chứ không chỉ tập trung xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
Cuối cùng, việc gia nhập Hiệp định TPP cũng thể hiện rõ mục tiêu của Hoa Kỳ
để khắc phục tình trạng bị đứng ngoài một khu vực kinh tế có tốc độ phát triển nhanh
nhất thế giới – khu vực châu Á – Thái Bình Dương do việc gia tăng các FTA trong khu
vực này mà không có sự tham gia của Hoa Kỳ. Thêm vào đó, điều này cũng có ý nghĩa
giúp Hoa Kỳ chống lại những ảnh hưởng ngày càng gia tăng của thương mại Trung
Quốc trong khu vực và trên thế giới. Với các nước có trình độ thấp hơn khi tham gia
đàm phán TPP, các nước mong muốn có thể nâng cao trình độ thương mại dịch vụ
trong nước, mở cửa và đón nhiều cơ hội đầu tư hơn, phát triển kinh tế và tạo thuận lợi
trong thương mại. Bản thân các nước này cũng có cơ hội tiếp cận với thị trường rộng
lớn từ các quốc gia khác để thúc đẩy xuất khẩu những thế mạnh của mình

18


2.Tổng quan về doanh nghiệp FDI.

2.1. Khái niệm:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng , có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định , được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện
kinh doanh (Bộ luật doanh nghiệp – 2005 )
FDI là một hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư của một nước đầu tư
toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư cho một dự án ở nước khác nhằm giành quyền
kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát dự án đó (PGS.TS Vũ Chí Lộc – 2012)
Như vậy doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp sử dụng vốn dưới dạng tiền hoặc
hiện vật của các tổ chức cá nhân nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh, được
đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật,hoạt động kinh doanh nhằm mục đích
thu lợi nhuận.
2.2.Phân loại
Đầu tư nước ngoài được thông qua nhiều hình thức như: hợp đồng hợp tác kinh
doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, hợp đồng
xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC),
cho thuê thiết bị.
Ngoài ra các nhà đầu tư nước ngoài còn được đầu tư vào các khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao dưới các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên
doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Dưới hình thức sẽ gồm các loại hình doanh nghiệp FDI sau :
Liên doanh: Là hình thức đầu tư do hai bên cùng nhau góp vốn theo một tỷ lệ
nhất định để thành lập một doanh nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban giám đốc
điều hành riêng và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
ăn chia lợi nhuận và gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ vốn góp.
Về thực chất đấy là sự chung vốn giữa nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài với nhà
đầu tư nước sở tại để hình thành nên một doanh nghiệp thống nhất về cơ cấu tổ chức,
kinh tế kỹ thuật. Nói cụ thể hơn, đó là sự góp riêng thành một vốn chung, tạo nên một
cơ sở vật chất chung để thực hiện một nhiệm vụ chung, cùng hưởng lãi và chịu sẻ rủi
ro theo phần vốn góp.


19


Hình thức này thường được tiến hành khi cả hai bên cùng có lợi. Đó là lúc mà
nhà đầu tư nước ngoài cần dựa vào đối tác nước sở tại để có thể tiếp xúc với môi
trường đầu tư mới khi mà họ chưa thật sự hiểu biết nhiều về nó, một nơi mà tuy hứa
hẹn nhiềm tiềm năng nhưng rất có thể cũng ẩn chưa nhiều rủi ro và nguy cơ.
Hình thức liên doanh cũng giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài có thể nhanh
chóng giải quyết các thủ tục cần thiết cho việc đầu tư. Có thể nói bằng hình thức này
họ đã tạo ra được một “tay trong”, người am hiểu về luật pháp, thông lệ và tập quán
của nước sở tại, và là một yếu tố quan trọng giúp họ nhanh chóng thực hiện được
nguyện vọng đầu tư của mình, điều mà một mình họ khó có thể thực hiện được. Còn
nhà đầu tư trong nước cần đủ vốn để họ được phép kinh doanh trong những ngành
nghề có mức vốn tối thiểu theo quy định, cần khoa học công nghệ và cả kinh nghiệm
quản lý, thông tin về thị trường, về bạn hàng… do đó hình thức góp vốn kinh doanh là
hình thức được cả hai bên lựa chọn, đặc biệt là khi bắt đầu đầu tư vào thị trường mới.
Chính phủ các quốc gia chậm phát triển rất cọi trọng hình thức này vì nó giúp
nước sở tại tiến bộ nhanh về nhiều mặt như tạo thêm công ăn việc làm, giúp tiếp thu
công nghệ mới, phương pháp quản lý hiện đại, ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong làm
việc công nghiệp, giúp nước sở tại có thể chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng
tích cực. Hơn nữa, sự có mặt trực tiếp của thành viên nước sở tại có thể nắm bắt được
ý đồ đầu tư của các chủ tư bản nước ngoài và kịp thời điều hành nếu hoạt động của
doanh nghiệp này làm phương hại đến lợi ích quốc gia, đến lợi ích của người lao động
nước mình…..đồng thời cũng thông qua hoạt động điều hành quản lý doanh nghiệp mà
có thể nhanh chóng nắm bắt được thị trường, được bạn hàng quen của các chủ đầu tư
nước ngoài để có thể vươn lên làm chủ tương lai.
Đầu tư độc lập, tạo ra các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đây là hình
thức độc lập đầu tư của các chủ đầu tư nước ngoài, là việc các chủ đầu tư nước ngoài
bỏ 100% vốn, xây dựng doanh nghiệp của mình trên lãnh thổ của nước sở tại và chịu
hoàn toàn trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh cũng như tự mình gánh chịu

mọi rủi ro nếu có. Nước sở tại không góp phần vốn nhưng cung cấp cho bên nước
ngoài các dịch vụ cần thiết và cho thuê đất đai, sức lao động… Tuy nhiên doanh
nghiệp loại này cũng có nhiều loại có loại hoạt động như một doanh nghiệp nội địa có

20


loại hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu mậu dịch
tự do.
Hợp tác kinh doanh dựa trên cơ sở hợp đồng hợp đồng hợp tác kinh
doanh:Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân
chia kết quả kinh doanh để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập pháp
nhân mới. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được ký kết giữa đại diện có thẩm
quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định rõ việc phân chia
kết quả kinh doanh cho mỗi bên theo tỷ lệ vốn góp hoặc theo thoả thuận giữa các bên.
Trong quá trình kinh doanh các bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo
dõi giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các bên hợp doanh có nghĩa
vụ đối với nhà nước sở tại một cách riêng rẽ. Quyền lợi, nghĩa vụ của các bên được
quy định rõ trong hợp đồng.
Đầu tư theo hình thức xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT):BOT(xây
dựng- vận hành- chuyển giao) là mô hình liên kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với
cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ
tầng ( kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình) trong một thời gian nhất định
để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ
công trình cho nước chủ nhà.
Đầu tư theo hình thức xây dựng- chuyển giao- kinh doanh (BTO):Hợp đồng
BTO là văn bản kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam với các nhà
đầu tư nước ngoài xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựnrihg xong nhà đầu
tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam
dành cho nhà đầu tư kinh doanh trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và

lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT):Hợp đồng xây dựng- chuyển giao là
hình thức hợp đồng kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà
đầu tư nước ngoài để xây dựng kết cấu hạ tầng. Sau khi xây xong nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tạo điều
kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận hợp lý.
Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con (Holding company):Là một công
ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở mức đủ kiểm soát hoạt động quản ly và điều
hành công ty đó thông qua việc gây ảnh hưởng hoặc lựa chọn thành viên hội đồng
quản trị. Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần, và đã tạo ra rất
nhiều thuận lợi:

21


Cho phép các nhà đầu tư huy động vốn để triển khai nhiều dự án khác
nhau; tạo đk thuận lợi cho họ điều phối hđ và hỗ trợ các công ty trực thuộc
trong việc tiếp thị, tiêu thụ hàng hóa…
• Quản lý các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một thể thống
nhất về việc ra quyết định và lập kế hoạch chiến lược điều phối các hoạt động
và tài chính cả nhóm công ty.
• Lập kế hoạch chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh mục đầu
tư.
• Cung cấp cho các công ty con các dịch vụ như: kiểm toán nội bộ, quan hệ đối
ngoại, phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát triển.
Hình thức công ty cổ phần:Là hình thức doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, các cổ đông chỉ chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã góp
vào doanh nghiệp cổ đông. Đặc trưng của nó là quyền phát hành chứng khoán ra công

chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác.
Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập M&A (Merger & Acquisition):Là một
hình thức liên quan tới việc mua lại và hợp nhất với một doanh nghiệp nước ngoài
đang hoạt động. Với hình thức này có tận thể tận dụng lợi thế của đối tác ở nơi tiếp
nhận đầu tư tận dụng thị trường, tiết kiệm thời gian, giảm thiểu rủi ro.


+ Sáp nhập doanh nghiệp là hình thức một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị sáp nhập.
+ Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hay nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành doanh nghiệp mới.
Hình thức công ty hợp doanh:Là doanh nghiệp phải có ít nhất 2 thành viên hợp
danh, có thể có thành viên góp vốn. Các thành viên là cá nhân có trình độ chuyên
môn, có uy tín nghề nghiệp, có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý
của công ty, không được tham gia quản lý công ty và hoạt động kinh doanh. Hình
thức đầu tư này phù hợp với các DN nhỏ, nhưng vì có những ưu điểm rõ nét nên cũng
được các DN lớn quan tâm. Việc cho ra đời hình thức công ty hợp danh tạo thêm
nhiều cơ hội cho nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp với yêu cầu, lợi ích
của họ.
Mỗi loại hình đầu tư nói trên có những mặt ưu điểm và nhược điểm nhất định
đối với nhà đầu tư cũng như đối với nước chủ nhà.Các nhà đầu tư thường thích hình
thức độc lập, tức là bỏ 100% vốn để hình thành doanh nghiệp. Nhưng đôi khi độc lập
cũng sẽ gây khó khăn và có khi phải gánh chịu nhiều rủi ro đặc biệt khi đầu tư vào một

22


môi trường mới, mà ở đó mọi luật lệ chưa rõ ràng hoặc hay thay đổi. Trong trường hợp

này nhà đầu tư thường chọn biện pháp mềm dẻo hơn đó là liên doanh.
Tuy nhiên khi những tính toán này không được các nhà đầu tư nước ngoài chấp
nhận sẽ dẫn đến tình trạng bên đối tác nước ngoài rút lui, đi tìm thị trường đầu tư khác
thông thoáng hơn, có lợi cho họ hơn và như vậy mục tiêu đề ra là thu hút FDI sẽ không
thực hiện được. Vì thế phải tính toán sao cho cả hai bên cùng có lợi.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ Luật doanh nghiệp ,2005
2. Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) 2011, Tuyên bố chung

của các Nhà lãnh đạo các nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP)
3. PGS.TS Vũ Chí Lộc, 2012 ,Giáo trình Đầu tư quốc tế. NXB Đại học Quốc Gia

II. Tài liệu trên Internet
1. Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam, 2014, Đàm phán Hiệp định Đối tác

thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) />truy cập ngày 2/8/2014
2. Wikipedia ,2014 ,Trans – Pacific Partnership

truy cập ngày 19/7/2014
3. Bộ Ngoại Giao Việt Nam, Giới thiệu chung về Hiệp định xuyên Thái Bình
Dương (TPP)
/>923115344 truy cập ngày 19/7/2014

24




×