Tải bản đầy đủ (.pdf) (185 trang)

Giới từ tiếng việt biểu đạt ý nghĩa không gian thời gian và ứng dụng chúng trong việc dạy tiếng việt như một ngoại ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.51 MB, 185 trang )

ĐẠI HỌ*C QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌÌCC KHOA HỌC XẢ HỘI & NHÂN VÁN
KHOA T IẾ N G VIỆT & V A fN HOÁ VIỆT NAM CHO NGƯỜI Nước NGOÀI

GIỚE TỪ TIẾNG VIỆT
BIỂU ĐẠT Ý NCSHỈĨA KHÔNG GIAN - THỜI GIAN
VÀ ÚNG DỤNCG CHÚNG TRONG VIỆC DẠY
TIẾNG VDỂỆT NHƯ MỘT NGOẠI NGỮ
• *



A A ià SỐ t

# .

Q.X 2 0 0 1 - 0 5

Wgười thực hiện:
Ve&TSỈ.ỈĐŨNH THANH HUỆ
Ts í
MGUYỀN CHÍ HOÀ

UoL ỉ

J 'AL

HÀ NỘI - 2002 '


M Ụ C LỤ C



T rang

MỜĐẦU
C hư ơ ng m ộ t:

4-6
Đ ố i tư ơ n g n g h iê n cứu và n h ữ n g v ấ n đ ê

lý thuyết liên quan

7 - 55

I. Xác đ in h đôi tư ợ n g

7

II. Mhửng v ấ n đ ề lý th u y ế t liên q u a n đ ế n việc xác đ ịn h

đặc điểm của giới từ không gian - thời gian
1. Từ đồng âm khác loại trong quan hệ với từ đa chức

13
ỉ3

năng và việc chuyển loại từ
2. Giới từ không gian - thời gian trong tiếng Việt

19


3. Giới từ không gian - thời gian và từ chỉ hướng

38

4. Giới ngữ - một đơn vị cú pháp của tiếng Việt

47

C hư ơ ng hai: K h ảo sát đăc đ iể m n g ữ p h á p - n g ữ n g h ĩa
của các giới từ k h ô n g g ia n - th ò i g ia n

trong tiếng V iêt hiên đại
I. Một số nhận xét

56 - 100
56

II. Khảo sát đặc điểm ngừ pháp - ngữ nghĩa của các giới từ
không gian - thời gian

67

1. Tiểu loại thứ nhất : Giới từ TRONG, NGOÀI, TRƯÓC, SAU

67

2. Tiểu loại thứ hai: Giới từ TRÊN, DƯỚI

79


3. Tiểu loại thứ ba: Giới từ ở / TẠI

85

4. Tiểu loại thứ tư: Giới từ TỪ, ĐẾN

89

5. Giới ngữ: “X + đại íừ"

95

2


C h ư ơ n g ba: So s á n h dối ch iếu h o a t đ ô n g của giới từ,
giới n g ữ k h ô n g g ia n - thờ i g ia n tiê n g V iê t
với đ ơ n vị tư ơ n g đ ư ơ n g tiế n g A n h

101 - 160

I. D ẫ n l u ậ n

101

II. Đối chiếu các giới từ không gian - thời gian Việt - A nh

103

1.TRÊN


103

2. DƯỚI

108

3. TRONG

1 14

4. NGOÀI

123

5. TRƯỚC

127

6. SAU

133

7. Từ

136

8. TỪ... ĐẾN

139


9. Ở/TẠI

141

III. Đố: chiếu các giới ngữ không gian - thời gian
Việt - Anh

144

1. Dặc điểm tương đồng

144

2. Đặc điểm khác biệt

154

KẾT LUẬN

161-180

TÀI LỆU THAM KHẢO

181-185


M Ở ĐẦU

1.1. Từ loại giới từ cùng với danh từ, động từ, tiểu từ được quan tâm

nghiên cứu sớm nhất trong lịch sử nghiên cứu ngữ pháp học. Từ thế kỷ IV
trước Công nguyên, nhà ngôn ngữ cổ An Độ, Panini, đã phân loại từ trong
tiếng Xancơrit ra làm 4 loại; trong đó giới từ được ông xác định là "những từ
xác lập nghĩa của danh từ" [42.67]. Điều đó nói lcn sự gắn bó giữa hai từ loại
này mà cho đến thế kỷ 19, bằng những ngữ liệu kháo sát từ các ngôn ngữ
thuộc các loại hình khác nhau, đặc biệt ngữ liệu của ngôn ngữ đơn lập và dựa
trên những luận cứ khoa học, các nhà nghiên cứu mới khẳng định mối quan hệ
tất yếu giữa giới từ và danh từ trong hoạt động ngôn ngữ trong trường hợp khu
biệt ranh giới giữa giới từ với từ loại khác trong các cấu trúc cú pháp đồng
dạng, kiểu như:
- Đi vê nhà / Nói vê tình hình quốc tế
- Bỏ ra bàn / Chạy ra phố
- Lên trên nhà / Ngồi trên ghế

v.v...

1.2. Giới từ là từ loại phố cập trong tất cả các ngôn ngữ. Nhưng mỗi ngôn
ngữ cụ thế lại được hình thành từ "lời ăn tiếng nói" của chính dân tộc sản sinh
ra nó. Vì thế giới từ trong mỗi ngôn ngữ hàm chứa đặc thù riêng trong cách
dùng. Chẳng hạn:
Các giới từ - không gian tiếng Việt: Trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau
được dùng trong các câu khác nhau: Trẻ em nô đùa trong (ngoài, trên, dưới,
trước, sau) sân đều được chuyển dịch sang tiếng Anh bằng giới từ on: The
children are playing on the plaỵground. Hoặc một loạt câu tiếng Việt, trong
đó có các giới từ - không gian khác nhau. Ví dụ: Hắn nằm dưới giường kia
(He lies in bcd (over there); Mẹ em đang ở ngoài vườn (My mother is in thc
garden); Tiền đê trên tú đó (Money is in the safe); Chị tôi sống trong Huế
(My (elder) sister lives in Hue); Chị tôi sống ngoài Huế (My (elđer) sister

4



lives in Hue); Anh ấy ở ngoài Hà Nội (He is / lives in Hanoi) và Anh ấy ở
dưới Hà Nội (He is / lives in Hanoi) đều được dịch ra tiếng Anh bằng giới từ
in.
Cách dùng giới từ khác nhau ấy chỉ có thể giải thích bằng cách tư duy
khác nhau của hai dân tộc về định vị sự vật trong không gian. Nếu như người
Anh định vị sự vật trong không gian theo hướng chân trời (nằm ngang) thì
người Việt không chỉ dùng hướng chân trời để xác định vị trí của sự vật trong
không gian mà còn định vị nó qua điểm nliìn (Views) của người nói. Từ "điểm
nhìn”, không ít những giới từ có nghĩa dụng đối lập nhau như trên / dưới',
trong / ngoài; trước Ị sau trong những câu nói khác nhau lại biểu thị cùng một
nội dung phản ánh như nhau: Chị tôi sống trong Huế / Chị tôi sống ngoài Huế;
Tôi ngú trên giường / Tôi ngủ dưới giường v.v...
1.3.

Mực tiêu nghiên cứu của đề tài này là khảo sát những đặc điểm ngữ

pháp - ngữ nghĩa của các giới từ tiếng Việt biểu thị quan hệ vị trí của sự vật
trong không gian và thời gian (gọi tắt: giới từ không gian - thời gian) và so
sánh những đặc trung của chúng với những đem vị tương ứng của tiếng Anh
nhằm phục vụ cho việc dạy tiếng Việt thực hành như một ngoại ngữ.
Để tiếp cận với mục tiêu đã định, ngoài việc khảo sát, thống kê, phân loại hơn
ÌO.(XX) phiếu ngữ liệu trích từ các tác phẩm văn học, báo chí, đề tài cần xây dựng
một số cơ sở lý thuyết liên quan trực tiếp đến nội dung nghiên cứu.
Theo hướng nghiên cứu này, cơ cấu của nội dung nghiên cứu gồm 3
chương chính:
1. Xác định đối tượng nghiên cứu và những vấn đề lý thuyết liên quan.
2. Khảo sát đặc điểm ngữ pháp - ngữ nghĩa của các giới từ không gian thời gian trong tiếng Việt hiện đại.
3. So sánh đối chiếu những hoạt động của giới từ - giới ngữ không gian thời gian của tiếng Việt với những đơn vị tương đương trong tiếng Anh nhằm

tìm ra nét tương đồng và khác biệt giữa chúng.

5


Chưưng ba do Nguyễn Chí Hoà thực hiện, các chương còn lại và mở đầu,
kết luận do Đinh Thanh Huệ thực hiện.

6


CHƯƠNG MỘT

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN c ứ u
VÀ NHỬNG VẤN ĐỂ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN
I. XÁC tìỊNH ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN c ứ u

Trong tiếng Việt cũng như trong bất cứ ngôn ngữ nào khác, có những từ
biếu thị tên gọi của các điểm xác định trong không gian và thời gian. Chúng
phản ảnh cách nhận thức không gian - thời gian của dân tộc mang thứ tiếng đó
và liên quan đến đặc trưng văn hoá - tâm lý của dân tộc. Không gian, thời gian
là hai phạm trù đặc biệt không thể không nghiên cứu trong ngôn ngữ học.
Hầu hết các công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt đều đề cập
đến ý nghĩa phạm trù (từ loại) của lớp từ không gian - thời gian. Nhưng cho
đến nay vẫn chưa có tiếng nói chung giữa các nhà nghiên cứu về bản chất từ
loại của chúng. Có thể, bới vì số lượng từ không gian - thời gian theo quan
điểm của từng tác giả là không đồng đều. Chẳng hạn, trong công trình
"Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt", nhóm tác giả đưa ra 12 từ: trên, dưới,
trong, ngoài, trước, sau, xung quanh, giữa, đầu, đuôi, dọc, ngang [40.117];
trong khi đó B. c. nAHOMJIOB trong bài "Những từ không gian - thời gian

trong tiếng Việt" thì chỉ hạn định có 8 từ: trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau,
giữa và xung quanh [43b. 117]. Còn tác giả của cuốn "Nghiên cứu về ngữ pháp
tiếng Việt" [27a. 207 - 215] lại đưa ra một danh mục không hạn định, gồm tất
cả những từ mang khái niệm về không gian và thời gian trong tiếng Việt như:
ở, tụi , từ, đến, đông, tây, nam, bắc, hôm nay, trên, dưới, ngang, dọc, v.v... tức
là những từ trả lời cho câu hỏi "bao giờ" và "đâu".
Trong ngôn ngữ học, vấn đề từ loại của từ biểu đạt khái niệm không gian
- thời gian đã được chú ý từ lâu nhưng chưa phải là vấn đề đã được giải quyết
xong xuôi, nhất là việc xác định từ loại trong các ngôn ngữ đưn lập, trong đó
có tiếng Việt. Vé việc xác định bản chất từ loại của các từ không gian - thời

7


gian như những từ trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau, giữa, xung quanh, ở,
tụi, từ và đến, hiện đang tồn tại một số loại ý kiến tiêu biếu khác nhau sau
đây:
1. Một số nhà nghiên cứu mặc nhiên coi chúng như những giới từ, dựa
trên quan hộ ngữ pháp mà chúng biểu thị trong cấu tạo cụm từ.
Thí dụ: - Anh ấy đứng ngoài vườn.
- Quyên sách để ở bàn.
- Nó dậy từ sáu giờ sáng. [14. 122 - 124]
Thuộc loại ý kiến này, Diệp Quang Ban, Hoàng Hữu Trung trong "Ngữ
pháp tiếng Việt", viết: Trong, ngoài, trên, dưới, giữa chí ý nghĩa quan hệ về
phạm vi hoặc không gian nối kết từ ngừ làm thành tố phụ với thành tố chính
trong cụm từ. Ví dụ: Nước rút đi, chỉ có ... và vô số cặn rác đụn lại dưới gốc
hàng xoan. Cái gói lá gì bà bỏ trong rổ đấy? v.v...[2. 136]
2. Một số tác giả khác chỉ thừa nhận chúng là giới từ dưới góc độ
"chuyển loại"', coi chúng là hiện tượng "hư hoá" hoặc "ngữ pháp hoá" của thực
từ. Trèo lên trên (danh từ) / Trèo lên trên núi (giới từ) [35.92 - 93]. Thực tế

hoạt động ngôn ngữ của loại từ này, theo đó, đặt ra một vấn đề lý thuyết là
trên, dưới, trong, n g o à i... trong quá trình sử dụng đã "chuyển loại" thành giới
từ, hay trong tiếng Việt có 2 từ "đồng âm" (OMOHHMRH). Thừa nhận từ
"chuyển loại" không đồng nghĩa với quan điểm cho rằng "từ đa chức năng"
với "từ chuyển loại" là một từ. Đây là vấn đề mà chưa có văn bản chính văn
nào trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt đặt ra và giải quyết.
3. Loại ý kiến khác cho rằng các từ dẫn ra là những từ chỉ vị trí trong
không gian, trong đó có 5 từ (trước, sau, đầu, cuối, trong) còn chỉ ra thời gian
mà sự vật tồn tại trong không gian với luận giải: "ý nghĩa từ vựng của những
từ này xác định vị trí của chúng trong hệ thống tiếng Việt như là những từ
"trung gian" (nPOME)KyTOHOE CJIOBO) giữa thực từ thuần luý (danh từ) và từ
cú pháp (hư từ) [40. 117]. Tính chất hai mặt này của chúng thể hiện ở chỗ

8


chúng có thể làm thành tố phụ thuộc trong nhóm danh, nhóm động (kiểu như:
làng trên, xóm dưới, đi trước, về sau v.v...), thậm chí làm thành tố chính của
nhóm từ khi chúng kết hợp với đại từ chỉ định (ấy, này, đó, kia), (kiểu như:
trên ấy, trong này v.v...). Mặt khác, chúng có khuynh hướng được dùng như
giới từ. Chẳng hạn: Lá cờ phấp phới trên những ngôi nhà. [40. 118J
4.

Quan niệm cuối cùng cho rằng những từ mà chúng ta đang quan tâm

không có đạc trưng từ vụng - ngữ pháp của từ loại giới từ, mà chúng có dặc
trưng của th ể từ. Điển hình cho loại quan niệm này là tác giá của chuyên luận
về "Từ không gian - thời gian trong tiếng Việt" [43b] và tác giả của cuốn
"Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt" [27b], tuy đi sâu hơn, ở mỗi tác giả có
những luận cứ khác nhau và theo đó cách định danh cho nhóm từ này cũng

không giông nhau.
Nguyễn Kim Thản coi chúng là "Thời vị từ' [28.207 - 215] - một từ loại
riêng biệt, có cương vị như bất cứ từ loại nào trong hệ thống từ loại của tiếng
Việt

Theo tác giả, những từ thuộc từ loại này "biểu thị tên gọi của các điểm

xác định trong không gian và thời gian, có những đặc điểm ngữ pháp của thể
từ, nhưng không có đặc điểm riêng biệt của danh từ", nên chúng được biệt lập
thành từ loại "thời vị từ". "Trên, dưới, trong, ngoài, ..." không có đặc điểm của
danh từ, bởi vì khi chúng kết hợp với những từ chỉ định (trên này, trong ấy, ...)
thì ý nghĩa từ vựng của chúng "đã chuyển hoá", và nếu kết hợp với từ chỉ số
lượng, chi thuộc tính thì chúng bị hạn chế rất nhiều. Ngoại trừ điều đó ra,
chúng có thể đảm nhiệm chức năng ngữ pháp trong câu như chức năng danh từ
và chúng có thê đặt sau giới từ.
rFhí dụ :

1. Trên có thê phê bình dưới, mà dưới cũng phải phê bình trên.
2. Cấp dưới phái nghe cấp trên.
3. Việc này do trên quyết định.
4. Chỗ này là trên, còn đây lù dưới.

9


5. Từ trên đến dưới', ở trong ra; từ dưới ]cn.

(Dần theo Nguyễn Kim Thản)
Với những luận cứ trên, Nguyễn Kim Thản khắng định chúng là một từ
loại riêng biệt, mặc dù chính tác giả cũng bấy tỏ suy nghĩ: "Chúng tôi nghĩ:

coi thời vị từ là một tiểu loại đặc hiệt phụ thuộc vào danh từ, không phải là
không được. Bới vì những khuyết hãm về đặc điểm ngữ pháp của thời vị từ (so
sánh với danh từ) đều có thế giải thích bằng lý do lịch sử và ý nghĩa từ vựng.
Chẳng qua vì muốn đỡ tranh cãi vô ích, cho nên chúng tôi tách riêng ra mà
thôi. [27a .209]
Khi bàn về vấn đề thời vị từ và giới từ, ông đưa ra các luận cứ chính sau
đây để bác bỏ trên, dưới, trong, n g o à i,... là giới từ.
a. Đối với những giới từ thực thụ như giới từ ở, từ, tại không thể thêm
một giới từ nào khác vào trước chúng. Vì thế, trong kết cấu ở + trên + nhà; từ
+ dưới + nhà, các từ trên, dưới đứng trước danh từ (nhà) trong hai thí dụ dẫn ra
là từ đồng vị với danh từ [21'à. 395].

b. Trong kết hợp "ở trên, từ dưới" trong thí dụ (5), theo ông, "ở, trên, từ,
dưới" là 4 từ riêng biệt, chứ không phải "ở trên, từ dưới" là hai giới từ ghép
như Nguyễn Lân (Ngữ pháp Việt Nam, lớp 7) quan niệm. Bới vì, đã là từ, dù
là từ ghép (theo nghĩa từ phức) thì cấu tạo của nó luôn luôn ổn định, không (hể
chèn thêm yếu tố khác vào được. Thế mà giữa ỏ trên, từ dưới có thể thêm một
hay vài yếu tố, (ở ngay trên đầu, ờ mãi tận dưới đáy biển...). [21'à. 313]
c. Nếu là giới từ thực thụ thì giới từ không thế kết hợp với đại từ chỉ định,
(không nói: ở này, ở ấy) trừ trường hợp cách nói mang mầu sắc cá nhân, vì thế
chưa thể coi là "cách dùng mẫu mực".
Thí dụ: "Từấy trong tôi bừng nắng hạ." (Tố Hữu) [21'à. 393].
Trong chuyên luận của mình, B. c. riAH0HJỈOB phân tích cặn kẽ các ngữ

liệu liên quan đến trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau đê đi đến kết luận: "Qua
phãn tích ngữ liệu, chí có thể có một kết luận duy nhất hợp logích là những từ

10



không gian - thời gian là những từ thuộc nhóm từ loại riêng biệt". Bưi vì, sự
khác hiệt giữa những từ không gian - thời gian với danh từ là rất lớn, không
cho phép xem chúng là tiểu loại trong từ loại danh từ" [43b. 278].
Sự khác biệt đó, theo ông là ở chỗ:
Những từ không gian - thời gian làm chú ngữ (kiểu như: Trên là núi hay
Trên biển là núi.) còn chưa rõ ràng, vì kết cấu của câu dẫn ra không có cùng
một giá trị tương ứng với kết cấu câu có động từ LÀ (kiểu như: Con bò là
động vật). Trong câu: "Trên biển là núi) có thể thay động từ là bằng động từ
có (Trên biển có núi), trong khi đó không thể thay động từ là bằng động từ
có trong câu "Con bò là động vật".
Danh từ hay đại từ chỉ định ở vị trí phía sau từ không gian - thời gian (vị
trí thành tố phụ bên phải) với tư cách là định ngữ cho danh từ - thành tố trung
tâm - dễ dàng tiếp nhận một tiểu từ và từ biệt loại. Thí dự: Trước một cái cổng
rất to; trên cái này; trong khi đó, nếu thành tố trung tâm là danh từ đích thực
thì không thể có thành tố phụ phía sau (bên phải) là 2 loại từ trên.
Nhung coi chúng là "Từ loại riêng biệt " thì không được ông đề cập tới
trong bài viết của mình.
Trên đây là những quan niệm khác nhau về bản chất ý nghĩa phạm trù của
các từ "trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau, v.v... biểu thị khái niệm "không
gian - thời gian'' trong tiếng Việt hiện nay.
Trong 3 loại quan niệm đó, quan niệm cuối cùng được luận giải thông
qua ngữ liệu mà chúng hành chức trong hoạt động ngôn ngữ. Qua đó, nổi lên
bốn vấn đề lớn:
- Những từ đồng âm khác loại trong mối quan hệ với từ đa chức năng và
việc chuvển loại của từ là một từ hay nhiều từ ?
- Nếu cho rằng giới từ là từ quan hệ có chức năng duy nhất là nối kết các
đơn vị ngữ pháp theo quan hệ chính phụ, nhằm tạo ra một đơn vị cú pháp biểu
thị những ý nghĩa ngữ pháp và các chức năng khác nhau trong câu, thì các từ

11



trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau, ở, tại, từ, đến trong tiếng Việt có đích thực
lù giới từ không gian - thời gian hay không? Và, những đặc điểm của chúng
trong hoạt động ngôn ngữ theo cách tri nhận không gian của người Việt là đặc
điểm gì?
-

Phân biệt giới từ không gian - thời gian trong tiếng Việt với từ chỉ

hướng (Modificateur) trong các kết cấu cú pháp đồng dạng, kiểu như: Chạy
vào nhà/ Đặt trên bàn, v.v... dựa trên cơ sở nào?
Đó là những vấn đề lý thuyết liên quan trực tiếp đến việc xác định đối
tượng nghiên cứu của đề tài này mà chúng tôi sẽ luận giải tiếp theo.
Tuy trên đây là những quan niệm không đồng nhất về việc xác định ý
nghĩa phạm trù (từ loại) cho các từ: "trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau, ở, tại,
từ, đến" nhưng theo ngữ pháp truyền thống giới từ không gian - thời gian được
hiểu là từ quan hệ. Những từ thuộc từ loại này là những từ xác định quan hệ
giữa các đối tượng khách quan được phán ánh trong tư duy cúa con người.
Quan hệ dỏ có th ể là quan hệ giữa đối tượng này với đối tượng khác, hoặc
quan hệ giữa đối tượng với hiện tượng, cảnh huống. Ví dụ:
- Giơ tay trước mặt.
- Trong thời gian 5 năm, chúng ta phải hoàn thành dự án này một cách
tốt đẹp.
- Cây cam ngoài vườn đã bói quá.
- Các em vui chơi dưới ánh trăng rằm. v.v...
Cách xác lập quan hệ giữa các đối tượng như trên được khúc xạ vào ngôn
ngữ thông qua các giới từ "trước, trong, ngoài, dưới" chính là cách tri nhận
không gian của người Việt. Mỗi dân tộc có cách tri nhận không gian khác
nhau. Vì thế, cách dùng một giới từ không gian để biểu đạt quan hệ giữa các

đối tượng có thể có những nét tương đồng hoặc khác biệt. So sánh:
In the garden (tiếng Anh) = trong vườn (tiếng Việt)
In the box (tiếng Anh)

= trong hộp (tiếng Việt)

12


Nhưng, trong câu sau đây thì không phải hễ tiếng Anh dùng giới từ in thì
tiếng Việt nhất thiết phái dùng giới từ trong.
She lives in Ha Noi. —> Cô ấy sống ngoài Hà Nội.
—» Cô ấy sống dưới Hà Nội.
-» Cô ấy sống ở Hà Nội.
—» Cô ấy sống trên Hà Nội.
Vị trí hiện đang tồn tại của người miêu tả là người Việt có tác động quyết
định đến việc dùng các giới từ khác nhau trong những càu có cùng một nội
dung phản ánh. Điều đó có nghĩa cách tri nhận không gian của người Việt
không hoàn toàn giống như cách tri nhận không gian cúa người Anh trong
trường hợp này.
Tóm lại, đối tượng nghiên cứu của để tài này là giới từ không gian - thời
gian trong tiếng Việt dưới góc độ tri nhận không gian của người Việt và so
sánh hoạt động của chúng với đơn vị tương ứng trong tiếng Anh, nhằm tìm ra
nét tương đồng và khác biệt về cách dùng giới từ cùng một phạm trù trong hai
ngôn ngữ khác nhau.

II. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC XÁC ĐỊNH ĐẶC
ĐIẾM CỦA GIỚI TỪ KHÔNG G ỉ A N - THỜI GIAN

1. T ừ đồng âm khác loại trong quan hệ với từ đa chức năng và việc

chuyển loại của từ
Chuyên loại của từ là một quy luật phát triển tất yếu của ngôn ngữ.
Không thể cứ khư khư giữ lấy nguồn gốc mà quên mất sự phát triển của từ.
"Trong tiếng Hán, từ "tại" vốn là động từ nhưng về sau dùng làm giới từ.
Trong tiếng Việt, từ V

vốn là động từ, nhưng hiện nay được dùng như giới

từ. Ví dụ: "Tôi tin ở Đảng của giai cấp công nhân." Không ai phủ nhận quy
luật tất yếu ấy. Trong các ngôn ngữ thuộc loại hình phân tích tính (từ không
thay đổi hình thái trong mọi chức nũng) thì tiêu chí hình thái không còn là tiêu

13


chí đê nhận diện ra sự chuyển loại của từ. Trong ngôn ngữ, cũng có ý kiến cho
rằng một yếu tố đa chức năng cũng có thế là một từ và cũng có thế là nhiều từ.
Chẳng hạn: "Trong ngôn ngữ kiêu tiếng Hán, không phải một từ có nhiều chức
năng khác nhau mà thực tế là có một nhóm từ đồng ám. Những từ đồng âm đó
trong hệ thống phân phối của ngôn ngữ đều có những đặc điểm khác nhau.
Nếu một từ đồng âm mà thay đổi ý nghĩa và có một chức năng mới tức là nó
đã biến thành từ khác loại, đã tự thay đổi tính chất, đã chuyên sang một khu
vực khác trong hệ thống phân phối từ vựng' [Xem : A.E.CEPEEPEHMKOB, Vấn
dề từ loại, in trong "Hữu quan ngôn ngữ đích cá vấn đề". Nxb Bấc Kinh, 1959,
trang 23 - 24 - Bán dịch của Viện Ngôn ngữ]. Theo quan điểm này, chúng ta
sẽ có "từ đa loại", tuy những từ khác loại đó có cùng một vỏ cấu âm.
Thí dụ: - Lệnh trên thì phải thi hành.
- Trên trời có đám mây xanh.
Từ đa chức năng và từ loại của từ là hai vấn đề tuy khác biệt nhưng có
mối liên hệ với nhau.

Quan sát ngữ liệu dưới đây:
1. a/ Lao động là vinh quang.
b/ Học sinh tham gia lao động trong tháng hè.
c/ Năng xuất lao động phụ thuộc vào phương tiện, kỹ thuật hiện đại.
d/ Nhà có hai lao động chính.
2. a/ Họ đã hy sinh vì nền Độc lập, Tự do của dân tộc.
b/ V ì hạn hán, đồng ruộng khô cằn, nứt nẻ.
c/ V ì không đủ kinh phí nên tiến độ của các công trình xây dựng chậm
trễ, không bảo đám kế hoạch.
3. à‘ /T rên đã có lệnh kéo pháo vào trận địa, cho dù vất vả gian nan thậm
chí phải hy sinh. (Hữu Mai)
b/ Làng trên xóm dưới nô nức vào mùa lạc. (Nguyễn Khái)
c/ Ăn trên ngồi trốc. (Tục ngữ)

14


d/ Thật vậy, trên từ "các cụ lý trướng, thư ký", giữa đến các "quan
viên hàng xã" (...), ai nghe tin đau đớn cũng ... điềm nhiên và cho là
có thêm một chuyện mới để gặp người quen thì nói. (Nguyễn Công
Hoan)
đ/ Trên bước đường lưu lạc, nó ở với nhà này một ít lâu rồi bỏ đi đánh
bạn với nhà khác. (Tạ Duy Anh - Truyện ngắn chọn lọc 20 năm của
trường Viết văn Nguyễn Du - Viết tắt: TNCL)
c/ Lão Hạc đang ngồi vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rợi, quần áo xộc
xệch, hai mắt long sòng sọc. (Nam Cao)
g/ Mẹ từ trên giường nhảy xuống đất, hai tay run cầm cập, vơ vội
quần áo để mặc. (Hoàng Tố Mai - TNCL)
h/ Vừa nói bà lão vừa nhanh nhẩu tiến lên trên thềm và ngồi vào chiếc
chõng nát, rồi tiếp: (...) (Ngô Tất Tố)

i/ Thế nào? Dạo này làm ăn trên ấy ra sao? (Hàn Vũ Hùng)
k/ Sau đó, ông ta nghĩ rằng chẳng còn ai có thể bắt bẻ nữa. Tấm biển
hàng chi còn mỗi chữ "Cá" ở trên đó. (Truyện cười)
1/ Vì vậy, chính sách nhà ở luôn là chính sách lớn được chú ý của mọi
quốc gia trên thế giới. (Báo)
Từ "lao động" trong thí dụ (1) đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau
(chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ, bổ ngữ và thành tố trung tâm của ngữ) nhưng ý
nghĩa từ vựng độc lập, tự thân của nó trong mọi chức năng đều không thay
đổi. Bởi vì bản chất của đối tượng phản ánh trong nhận thức, tư duy cúa người
nói là một. Các chức năng khác nhau mà từ "lao động"có được trong các câu
khác nhau như trên là do thay đổi mối quan hệ giữa các khái niệm do từ biểu
đạt mà người nói muốn vận dụng trong giao tiếp để đạt được mục đích của
mình.
Từ "vì" trong thí dụ (2) dẫn ra ớ trên có hai chức năng: biểu thị quan hệ
giữa đối tượng này với đối tượng khác (2.a) hoặc đối tượng với tình huống

15


(2.b) hoặc quan hệ qua lại giữa hai đối tượng (2.c) nhưng bán thân nó không
có ỷ nghĩa từ vựng độc lập, tự thân mà chỉ có ý nghĩa ngữ pháp. Loại ý nghĩa
này được cụ thể hoá trong cách vận dụng của người nói, tạo thành những nét
nghĩa chuyên biệt khác nhau. Sở dĩ từ "vì" trong thí dụ (2.a) có ý nghĩa ngữ
pháp "mục đích"', từ "vì" trong (2.b) có ý nghĩa "nguyên nhân" và (2.c) cũng
có cùng một nghĩa ngữ pháp như (2.a) là vì quan hệ giữa các đối tượng được
phản ánh phụ thuộc vào cách sắp xếp các khái niệm theo mục đích giao tiếp
của người nói trong những tình huống khác nhau.
Như vậy, theo chúng tôi, ý nghĩa phạm trù của từ "lao động" trong hàng
loạt thí dụ (1) và ý nghĩa phạm trù của từ "vì" trong thí dụ (2) vẫn không thay
đổi, cho dù chúng đảm nhiệm những chức năng khác nhau. Nói cách khác,

trong phạm vi thực từ hay hư từ, một từ nào đó thay đổi cương vị chức năng là
do cách sử dụng nó vào mục đích giao tiếp của người nói. Nó là từ đa chức
năng nhưng cùng một từ loại.
Tinh hình ở loạt thí dụ (3) thì lại khác. Ở đây từ đồng âm ''trên" thuộc hai
phạm vi sứ dụng khác nhau: Phạm vi sử dụng của từ - thực từ và phạm vi sử
dụng của từ - hư từ. Có nghĩa từ "trên" đã chuyển loại từ thực từ sang hư từ.
Chuyển loại là qui luật tất yếu của từ trong hoạt động ngôn ngữ. Thừa
nhận qui luật chuyên loại cũng đổng thời thừa nhận sự phát triển của ngôn
ngữ. "Quy luật chuyển từ loại của từ chí xảy ra theo hướng những từ "đồng âm
khác loại" đéu sinh ra từ thực từ. Không có chiều hướng chuyển loại ngược
lại"[47.29]. Chính vì thế, từ đồng âm - hư từ có cùng vỏ cấu âm như chính nó
là thực từ và nó luôn luôn có mối quan hệ về ý nghĩa từ vựng với thực từ sinh
ra nó, cho dù chúng là những từ thuộc hai từ loại khác nhau. Chẳng hạn:
1. Ý nghĩa từ loại của danh từ "Trên" là chỉ "sự vật" thì giới từ trên sinh

ra từ danh từ đó cũng có mối liên hệ với ý nghĩa "sự vật": Giới từ trên biểu thị
mối quan hệ định vị sự vật trong không gian, trong đó có một sự vật ở vị trí
cao hơn so với một vị trí của sự vật đã được xác định. Ví dụ:

16


- Cuốn sách trên bàn.
- Ngú trên phản.
-C him đậu trên ngọn cây.
- Máy bay lưựn trên thành phố v.v...
2.

Giới từ "ở " sinh ra từ động từ "ở" với nghĩa phạm trù là "hoạt động,


hành động", nên nó có mối quan hệ về vị trí, nơi chốn xảy ra hành động. Ví
dụ:
- Làm việc ở nhà máy.
- Sống í/nông thôn, v.v...
Như vậy, ý nghĩa phạm trù của từ được sản sinh không những không đối
lập, cắt dứt quan hệ với ý nghĩa phạm trù của từ sinh ra nó mà còn tạo ra điều
kiện cho ý nghĩa phạm trù cua từ - thực từ tiếp tục phát triển, làm phong phú
thêm cách vận dụng từ trong hoạt động giao tiếp. Trong trường hợp này,
chúng ta có "từchuyển loại''.
Tiếp tục xem xét các ngữ liệu dẫn ra ở thí dụ (3).
Một số công trình nghiên cứu và chuyên luận đã đề cập đến nhóm từ
không gian - thời gian trong tiếng Việt, trong đó có từ "trén" và khẳng định
"Trên" là một thực từ [15 ; 27a ; 40 và 43b]. Khảo sát ngữ liệu ở thí dụ (3),
cho thấy:
1.

Từ thí dụ (3.a) đến (3.d), thực từ "Trên" có thể đảm nhiệm các chức

năng chủ ngữ (3.a), định ngữ (3.d), trạng ngữ (3.c) và thành tố phụ của chủ
ngữ (3.d). Trong các chức năng ấy, ý nghĩa từ vựng của thực từ trên không
phái là loại ý nghĩa tự thân, độc lập; tự nó không chỉ ra tên gọi hoặc khái niệm
riêng biểu trưng cho đối tượng được phán ánh. Các chức năng khác như chức
năng chủ ngữ, bổ ngữ, vốn là chức năng của từ loại danh từ thì hầu như từ trên
không đảm nhiệm được. Những chức năng ấy "còn chưa minh xác, không rõ
ràng" [43b. 117]. Chức năng chú ngữ, kiểu: Trên là núi; chức năng b ổ ngữ,

I

17



kiểu: Tôi lên trên ... là những chức năng hầu như ít được đề cập đến trong
nghiên cứu, ngoại trừ IỈ.C.nAH<l>HJIOB [43.b].

Từ phân tích đó có thể đi đến kết luận: từ trên trong các ngữ liệu dẫn ra
chưa phải là danh từ đích thực, mặc dù nó có thể tham gia vào các chức năng
cú pháp của thành phần câu như chức năng vốn có của danh từ.
2.

Từ thí dụ 3.đ đến ví dụ 3.m, từ trên hoàn toàn không có đầy đú thuộc

tính của thực từ. Kết hợp với danh từ (danh ngữ, thậm chí một cấu tạo chủ - vị
(CV), nó có chức năng giống như chức năng của giới tử trong các ngôn ngữ
Ân - Âu. Chúng diễn đạt mối quan hệ giữa các đối tượng được phản ánh, hoặc
giữa đối tượng với hoàn cánh giao tiếp, với sự kiện được đề cập tới. Kết hợp
với danh từ hoặc đơn vị danh hoá tương tương, hoặc với đại từ, nó như một
thành tố trong cấu tạo của một đem vị ngữ pháp trong tổ chức câu. Khu biệt
ranh giới giữa từ trên với những hư từ phi cú pháp kế cận trong các ngữ liệu
dẫn ra là vấn đề cần đặt ra trong nghiên cứu để xác định cương vị của giới từ
không gian - thời gian mà chúng tôi sẽ đề cập tới trong chương này.
Trên đây, chúng tôi đã phân tích một số ngữ liệu liên quan đến hoạt động
ngôn ngữ của từ trên trong tiếng Việt hiện nay với tư cách là từ đại diện cho từ
đa chức năng, từ đồng âm khác loại liên quan trực tiếp đến quan niệm chuyển
loại của từ.
Nếu nhìn từ góc độ phát triển ngôn ngữ thì có thể trong một giai đoạn
lịch sử nào đó, từ trên đã là một danh lừ thực thụ, nhưng trong giai đoạn phát
triển đồng đại hiện nay, do nhu cầu giao tiếp, từ trên đã hành chức như "từ
quan hệ". Nói cách khác, nó đang dần chuyển loại từ thực từ {danh từ) sang
hư từ (giới từ). Đicu đó phù hợp với quy luật phát triển của ngôn ngữ.
Sự thay đổi ý nghĩa phạm trù của thực từ trên theo hướng cúng cố trong

nó ý nghĩa quan hệ là nhờ vào sự phát triển những mối liên hệ ngữ nghĩa - cú
pháp đặc biệt của nó với những từ khác trong câu.

18


Tóm lại, từ đa chức năng là điều kiện cần yếu để xem xét hiện tượng
chuyển loại (chuyến từ loại) của từ. Nhưng không phải bất cứ ở đâu có hiện
tượng từ đa chức năng là ớ đó có hiện tương chuyên loại cúa từ. Hiện tượng
chuyến loại đích thực chỉ xảy ra theo quy luật ngôn ngữ: Chuyển loại từ thực
từ sang lìư từ. Trong phạm vi thực từ hay hư từ, một từ nào đó dù có nhiều
chức năng do cách sử dụng nó theo mục đích giao tiếp của người nói thì từ đa
chức năng đó vẫn chưa đủ điều kiện để chuyên loại. Đối với các ngôn ngữ
tổng hợp tính, dấu hiệu hình thái của từ trong các kết hợp cú pháp là một trong
những dấu hiệu xác định việc chuyển loại của từ. Nhưng, trong các ngôn ngữ
phân tích tính, từ không biến hình, có thể coi vị trí của từ trongcác kết hợp cú
pháp là dấu hiệu hình thức để nhận diện ra từ chuyển loại.
2. Giới từ không gian - thời gian trong tiêng Việt.
2.1. Khái niệm không gian - thời gian.
Trong bất cứ ngôn ngữ nào cũng có lớp từ không gian và thời gian.
Chúng phún ánh cách nhận thức về thế giới khách quan của dân tộc mang thứ
tiếng đó. Sự nhận thức này liên quan đến đặc trưng văn hóa - tâm lý của dân
tộc. Không gian - thời gian là hai phạm trù được đặc biệt chú ý nghiên cứu
trong ngôn ngữ. Theo quan điểm duy vật hiện chứng, "bản chất của không
gian và thời gian là sự vận động, bởi vận động là phổ biến của "vật chất" [Lê
nin: Bút ký triết học, Nxb Sự Thật, 1963, trang 287]. Không phải không gian,
thời gian là tiền đề của vật chất - vận động mà ngược lại, sự xuất hiện của vật
chất - vận động nào đó sẽ chiếm một khoảng không gian và thời gian làm tiền
đề.
Mối quan hệ không gian - thời gian được xác lập thông qua sự vận động

của "vật chất"; không gian là "cái có trước", thời gian là"cái có sau".Trong
nghiên cứu phổ quát, u. Weinreich viết: "Những từ chí không gian bao giờ
cũng mớ rộng đến những khái niệm chỉ thời gian và không bao giờ ngược lại"
\u . Weinreich: On the semantic structure of language; trong cuốn "Universale

19


of language - in lần 2, Cambridge, 1966 - Bán dịch của Viện ngôn ngữ-] Kết
luận mang tính phổ quát ấy cũng có thể chứng minh qua ngữ liệu về giới từ
không gian - thời gian trong tiếng Việt. Bcn cạnh những từ chuyên dụng để
biểu thị khái niệm không gian và thời gian như: nơi, chỏ, năm, tháng, tuần,
ngày, giờ, v.v... Còn có những giới từ dùng chung để chi không gian và thời
gian trong các kết hợp cú pháp. Chẳng hạn:
- Giới từ từ chi "điểm xuất phát" trong không gian và thời gian. Ví dụ: từ
nhà (ra đi); /ừ'tuần trước; từ Bác chí Nam; từ thời thơ ấu, v.v...)
- Giới từ đến biểu thị "điểm đến" trong không gian và "thời điểm kết
thúc" trong thời gian của hành động. Ví dụ: Đến ga Vinh (xuống tàu), (làm
việc) đến 18 giờ, v.v...
- Kết hợp sóng đôi " từ ... đến..." chỉ "thời đoạn" trong không gian hoặc
"giới hạn quáng cách" trong không gian. Ví dụ: từ nhà đến trường; từ năm
2000 đến năm 2005, v.v...
- Các giới từ: trong, ngoài, trước, sau, giữa trong các kết hợp cú pháp
khác nhau cũng có khả năng biểu thị sự hạn định về không gian hoặc thời
gian. Ví dụ: Trong giờ làm việc; giữa trưa; ngoài khu vực; trước ngày lễ; sau
nhà, v.v... Có nghĩa, tuỳ ngữ cảnh cụ thể trong giao tiếp mà người nói vận
dụng những kết hợp cú pháp tương ứng nhằm biểu thị nội dung không gian
hoặc thời gian. Nói cách khác, giới từ dùng chung để biểu thị không gian, thời
gian rất khác nhau về phạm vi sử dụng, về khả năng kết hợp.
Trong tiếng Việt hiện đại, đại từ đây, đấy, đó kết hợp với các giới từ "từ,

đến" tạo thành một tổ hợp mang tính c ố định có thể dùng biểu đạt không gian
và thời gian. Ví dụ:
- T ừ đây (động Phong Nha) chúng tôi men theo đường núi phía tây, tập
kết tại một địa điểm ở đất Lào.
- Vì hoàn cảnh từ đáy họ chia lay nhau cho đến ngày thống nhất Bắc
Nam.

20


- Buổi giao lưu văn hoá đến đây xin kết thúc.

- Đến đây (ga Vinh) chúng tôi xuống tầu, lên xc buýt đén cửa Lò.
vậy, ngoài cách dùng chung như trên, đại từ có thể kết hợp với các
giới từ khác để tạo thành những kết hợp mang tính chuyên biệt về không gian
hoặc về thời gian: tại đáy, ở đây, trước dây, sau đây, trên đây, dưới đây, v.v...
Sự hoà nhập 2 ý nghĩa do một kết hợp từ dùng chung chứng minh cho
luận điểm biện chứng về vận động của "vật chất": "bản chất của sự vận động
là sự tliống nhất trực tiếp của không gian và thời gian.) (Ăng-ghen: "Biện
chứng của tự nhiên" Nxb Sự Thật, 1971, trang 385).
Không gian là tất cá những gì vật chất tồn tại với những thuộc tính về
hình thể, khối lượng, kích thước, bề dầy, chiều cao, độ sâu, ... . Trong không
gian, vật thể này được định vị , tách biệt trong quan hệ với định vị của vật thể

khác; trong khi đó, thời gian là tất cả những gì liên quan đến quá trình vận
động của vật thể. Vì thế, những nhận thức về không gian đến với con người cụ
thể hơn, sớm hơn so với nhận thức về thời gian. Nói cách khác, những từ ngữ
biểu đạt khái niệm vê không gian trong ngôn ngữ, xuất hiện sớm hơn những từ
ngừ biểu đạt khái niệm vê thời gian. Không gian là "cái có trước", thời gian là
"cái có sau". Và như thế có thể xảy ra quá trình "vay mượn": từ ngữ biểu thị

không gian được dùng để biểu thị thời gian. Chẳng hạn, các từ đây, đấy, đỏ
trong kết hợp đã dẫn ra vốn là những từ chỉ "không điểm", biểu thị quãng cách
xa - gần trong không gian được "vay mượn" để hiểu thị "thời điểm". Và đây
cũng là lý do để giải thích về trường hợp một số từ ngữ chỉ không gian, trong
đó có một số giới từ không gian được "vay mượn" để chỉ thời gian.
Khi nghiên cứu về không gian, theo Lý Toàn Thắng, cần phân biệt ra ba
khái niệm khác nhau:
a/ Không gian khách quan của thế giới vật lý bên ngoài con người .

21


b/ Không gian chú quan, là kết quả của sự tri nhận không gian khách,
tồn tại trong đầu óc con người, thường được gọi là "Không gian (được) tri
giác" (Perceptual space).
c/ Và không gian được biểu đạt trong ngữ nghĩa của các từ chỉ không
gian, được gọi là không gian trong ngôn ngữ (Language space).
Nghiên cứu không gian từ góc ngôn ngữ tức là tìm cách "phục chế"
không gian loại (b) trên cơ sớ ngữ liệu của không gian loại (c) [31].
Trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu này, chúng ta sẽ tìm hiểu những
đặc điểm cư bán của giới từ không gian và thời gian trong tiếng Việt và dựa
trên cơ sớ đó kháo sát nghĩa dụng chuyên biệt của từng giới từ không gian -

thời gian trong hoạt động ngôn ngữ (xem chương II).
II.2.2. Giới từ khống gian - thời gian trong tiếng Việt và sự tri nhận nó
qua tư duy của người Việt.
II.2.2.1.

Giới từ là từ loại có đặc trưng biểu thị ý nghĩa quan hệ của đối


tượng với đối tượng, hiện tượng, cảnh huống. Ý nghĩa quan hệ này được biểu

hiện không phải bằng ý nghĩa từ vựng chân thực của những từ - giới từ mà
bằng những đặc điểm chức năng của chúng với tư cách là những hư từ quan
hệ. Chức năng chủ yếu của giới từ là biểu thị các loại ý nghĩa quan hệ khác
nhau (không gian, thời gian, nguyên nhân, mục đích, phương tiện...) của đối
tượng khách quan được phản ánh trong tư duy của người nói (viết) với đối
tượng khác. Ví dụ: - Chết vì đói
- Đi bằng máy bay
- Gặp nhau ở công viên
- Luôn làm việc đến 18 giờ v.v...
Hoặc, quan hệ giữa đối tượng với hiện tượng, cảnh huống. Ví dụ:
- Từ suy nghĩ ấy, tôi cho rằng...
- Trên nguyên tắc, có thể chấp nhận...
- Trước những khó khăn, cẩn pháL.v.v...

22


Trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, một số nhà nghiên cứu đã đề cập
đến khái niệm về giới từ, chẳng hạn: "Giới từ là một loại hư từ (trong nhóm
quan hệ lừ) có tác dụng nối liền từ phụ (hoặc từ tổ phụ) với từ chính (hoặc từ
tổ chính) biểu thị quan hệ ngừ pháp giữa hai đơn vị đó." [27a.376]. Theo cách
hiểu này, giới từ chỉ hiểu thị quan hộ giữa "đối tượng" với "đối tượng", mà hai
đối tượng ớ đây chỉ do từ hoặc do từ tổ biểu thị. Như vậy, nếu đối tượng do
một kết hợp cú pháp lớn hơn từ tạo thành và nó có mối liên hệ với "cánh
huống", kiểu như: "Trên những con đường còn in dâu vết bom đạn của cuộc
chiến tranh khốc liệt vừa qua, những công nhân cầu đường đang ngày đêm ra
sức hàn gắn vết thương cho nó" thì cương vị của giới từ ở đây không được xác
định.

Một số nhà nghiên cứu khác không đưa ra khái niệm riêng về giới từ mà
chi đặt nó trong cùng một phạm trù với liên từ dưới cái tên gọi "Quan hệ từ

hoặc tư nối, hoặc kết từ'. Theo quan niệm này, "quan hệ từ là hư từ cú pháp,
diễn đạt mối quan hệ giữa các khái niệm trong tư duy trừu tượng" [3.161]. Và,
cách nhận diện ra giới từ trong từ loại "quan hệ từ" là những hư từ cú pháp
biểu thị quan hệ chính phụ. Nhưng nếu dựa vào quan hệ ngữ pháp để xác định
cương vị của giới từ trong các kết cấu cú pháp thì sẽ gặp một mâu thuẫn là
theo ngữ pháp truyền thống, liên từ trong câu ghép cũng biểu thị ý nghĩa quan
hệ chính phụ giữa hai mệnh đề. Ví dụ: "Bố mẹ đi công tác xa nhà nên gửi con
cho ông bà nội chăm sóc".
Có hai cách giải quyết mâu thuẫn này: Hoặc cho kiểu câu ghép dẫn ra là
câu ghép qua lại, với lý do "Câu ghép là câu biểu thị một phán đoán phức hợp,
một suy lý. Nòng cốt của câu ghép qua lại chỉ có hai vế. v ế này là điều kiện
tồn tại của v ế kia và ngược lại. Có đủ hai VẾ5'mới biểu thị một suy lý bao hàm

một tiền đ ề và một hệ luậìĩị...) Kết từ được dùng ở trước nòng cốt đơn của
mỗi vế. Có khi ở vế thứ 2 có dùng kết từ V, mà ở vế thứ nhất thì lược bỏ kết từ

23


X. Như vậy, cấu tạo của câu ghép là N| + V N2. [35.] hoặc thừa nhận chức năng
cúa quan hệ từ nên trong câu đã dẫn ra là chức năng "liên giới từ' [8.186].
Số lượng hư từ thuộc từ loại giới từ không nhiều, trong số chúng có thể
tách biệt ra một nhóm giới từ: Trên, (lưới, trong, ngoài, trước, sau, giữa, xung
quanh, ở, tại, từ, đến đê biếu thị quan hệ không gian - thời gian của các đôi
tượng, đối tượng với cảnh huống, v.v... Trong bất cứ ngôn ngữ nào cũng có
nhóm giới từ này. Chúng mang tính chất phổ cập đến mức có cả một lý thuyết
"Ngữ pháp không gian" (Space grammar) ra đời cách đây 20 năm mà người đi

tiên phong trong hướng nghiên cứu mới là Langacker.
Tuy phổ cập, nhưng giới từ không gian - thời gian trong các ngôn ngữ cụ thể
lại có đặc điểm riêng phán ánh cách tư duy, tâm lý, văn hoá của dân tộc sản sinh ra
ngôn ngữ ấy. Chẳng hạn, cũng phán ánh quan hệ giữa các đối tượng khách quan,
nhưng người Việt có thể biểu đạt bằng cách nói (viết) có nghĩa đối lập nhau về định

vị sự vật trong không gian, mặc dù cùng một nội dung phản ánh. Ví dụ:
1 - Quần áo của cháu ở ngoài tủ.
- Quần áo của cháu ớ trong tủ.
2 - Bc chơi dưới nhà.
- Bc chơi trên nhà. v.v...
Điều này chỉ có thể giải thích được không chỉ bằngvào mối quan hộ
lôgích sự vật mà còn dựa vào "điểm nhìn"(vievvs) của người quan sát

vị trí sự

vật trong không gian, và trong điểm nhìn đó hàm chứa một "không gian nhận

thức" (Pcrceptual space) của người nói.
Dưới góc độ thuán tuý ngôn ngữ, giới từ không gian - thời gian trong
tiếng Việt có một số đặc điểm sau đây:
Giới từ không gian - thời gian nói riêng, giới từ nói chung, là từ loại có
chức lỉăníỊ quan hệ. Điều đó có nghĩa, nó xác lập quan hệ giữa đối tượng mà
nó liên hệ với đối tượng khác, hoặc với hiện tượng, cảnh huống ngoài đối
tượng mà nó liên hệ. Ngay cả trong trường hợp mà cấu trúc cú pháp bề nổi

24


không hiện hữu "đối tượng" thì mối quan hộ do giới từ đảm nhiệm vẫn được

hình thành, chảng hạn tên gọi của một truyện ngắn, một hồi ký v.v... Ví dụ:
- Dưới mặt trời (Truyện ngắn trong "Truyện ngắn trẻ", Nxb Văn học
HN, 1994).
- Từ bến sông Thương (Hồi ký, của Anh Thơ, HN, 1986).
- Trên tầu tập kết (Hồi ký trong "Nước về biển cả", HN, 1973).
- Trong nhà có chàng thiếu uý (Truyện ngán trong "Ngày hôm qua",
HN, 1999) v.v...
Nếu cho rằng một tên gọi "Dưới mặt trời", trong đó giới từ dưới không
thực hiện chức năng quan hệ giữa các đối tượng mà nó liên hệ (mặt trời) với
đôi tượng khác (không hiện diện trong cấu trúc cú pháp) là không đúng. Bới
vì, ngoài các đối tượng có liên hệ với giới từ dưới còn có các đối tượng khác

như thành phố, đồi Sam v.v... (Xem: "Dưới mặt trời", trong "Truyện ngắn trẻ"
trang 120 - 121)
Giới từ liên hệ chặt chẽ với đối tượng mà nó chi phối đi sau nó. Nội dung
của đối tượng này chính là sở biểu của từ ngữ, do kết cấu cú pháp đám nhiệm,
kiêu như: Chín ngọn nến dàn đều trên mặt linh cữu vàng son mới mua về trước
lúc cụ c ố lâm chung (Nguyễn Công Hoan).
Nội dung của kết cấu cú pháp đứng sau giới từ trên được hiểu như một
"đối tượng"có liên hệ chặt với giới từ. Nếu trừu tượng hoá mối liên hệ (CBA3E)
và quan hệ (OTHOLUEHHE) của giới từ với các đối tượng bằng mô hình kết cấu
cú pháp hình thức thì sẽ có A X B; trong đó A và B là hai đối tượng được giới
từ X tạo ra quan hệ và xB là sự biểu thị của mối liên hệ hữu cơ giữa giới từ X
với đối tượng B. Chính mối liên hệ gắn bó giữa X và B là một tiêu chí hiện
thực để khu biệt ranh giới giữa giới từ và từ chỉ hướng của động từ trong các

kết cấu cú pháp đồng dạng [ 13bJ.
11.2.2.3. Khả năng kết hợp của giới từ không gian - thời gian

25



×