Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Khảo sát những biến thể âm hán việt trong danh sách tái lập âm hán cổ của baxter w h sagart l năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.83 MB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

LÝ DỊCH LÂM
(LI YI LIN)

KHẢO SÁT NHỮNG BIẾN THỂ ÂM HÁN - VIỆT
TRONG DANH SÁCH TÁI LẬP ÂM HÁN CỔ
CỦA BAXTER W.H. & SAGART L. NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HàNội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÝ DỊCH LÂM
(LI YI LIN)

KHẢO SÁT NHỮNG BIẾN THỂ ÂM HÁN - VIỆT
TRONG DANH SÁCH TÁI LẬP ÂM HÁN CỔ
CỦA BAXTER W.H. & SAGART L. NĂM 2014

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học
Mãsố: 60220240

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần TríDõi



HàNội – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin cam đoan rằng các công trì
nh
nghiên cứu khác có liên quan, được trích dẫn trong công trình đều được chú
thích rõràng ở phần tài liệu tham khảo. Mọi kiến giải, kết luận đều làkết quả
nghiên cứu của bản thân tôi, không sao chép bất kỳ tài liệu nào. Nếu cógìsai
sốt, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
HàNội, ngày 02 tháng 09 năm 2019
Người viết

LýDịch Lâm(LI YI LIN)


LỜI CẢM ƠN
Ngày tháng trôi qua, nhanh thật, thời gian học cao học ở Việt Nam của
tôi sắp kết thúc rồi. Để hoàn thành được cuốn luận văn với đề tài “Khảo sát
những biến thể âm Hán - Việt trong danh sách tái lập âm Hán cổ của Baxter
W.H. & Sagart L. năm 2014”, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân đã vận dụng
những kiến thức tiếp thu được, tìm tòi học hỏi cũng như thu thập thông tin số
liệu liên quan đến đề tài, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy
GS.TS. Trần TríDõi - người đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu đề tài này
và đưa ra nhiều ý kiến quý báu trong suốt quátrì
nh làm vàhoàn thành luận
văn này. Với phong cách làm việc nghiêm túc, cótinh thần trách nhiệm cao và

kiến thức sâu rộng của thầy Dõi lưu lại một cách ấn tượng sâu sắc cho tôi. Ở
đây tôi xin được tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Dõi,
người trực tiếp hướng dẫn luận văn, đã tận tì
nh chỉ bảo và hướng dẫn tôi tìm
ra hướng nghiên cứu, tiếp cận thực tế, tìm kiếm tài liệu, xử lývàphân tích số
liệu, giải quyết vấn đề… nhờ đó tôi mới có thể hoàn thành luận văn cao học
của mình và có được những thu hoạch mới về học tập vànhững kinh nghiệm
cógiátrị quýbáu về làm nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bố mẹ tôi vàmột số bạn bè
khác, những người luôn ở bên cạnh tôi ủng hộ, giúp đỡ tôi cóthời gian nghiên
cứu đề tài vàhết lòng hỗ trợ tôi về mặt tinh thần trong suốt thời gian thực hiện
đề tài.
Trong quátrì
nh thực hiện luận văn, mặc dù đã cố gắng hoàn thiện đề tài
qua tham khảo tài liệu, trao đổi vàtiếp thu ýkiến đóng góp nhưng chắc chắn
không tránh khỏi những sai sót. Còn do kiến thức và thời gian có hạn nên
chuyên đề sẽ có những thiếu sót, vìvậy tôi rất hoan nghênh và chân thành
cảm ơn các ý kiến đóng góp của Quý Thầy, Cô vàbạn đọc, tôi rất mong các


thầy côvàcác bạn đọc góp ý thêm để bản thân tôi có được những nhận thức
đúng đắn hơn về công tác thực tế cũng như lý luận.
Xin chân thành cảm ơn!
HàNội, tháng 9 năm 2019
LýDịch Lâm (LI YI LIN)


MỤC LỤC
TÓM TẮT ........................................................................................................ 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. 4

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 5
1. Lýdo chọn đề tài........................................................................................... 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 9
3. Đối tượng nghiên cứu vàphạm vi nghiên cứu ............................................ 10
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 11
5. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 12
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN VĂN ....................................... 13
1.1. Dẫn nhập .................................................................................................. 13
1.1.1.Tì
nh hình tiếp xúc song ngữ Hán - Việt.................................................. 13
1.2. Nội dung cách hiểu “âm Hán - Việt” ....................................................... 18
1.2.1. Về các khái niệm: gốc Hán, Hán - Việt, cổ Hán - Việt / Hán - Việt cổ /
tiền Hán - Việt, Hán - Việt Việt Hóa, Hán phương ngữ................................... 19
1.2.2. Nội dung của cách hiểu CÁCH ĐỌC HÁN - VIỆT hay ÂM HÁN - VIỆT .... 23
1.3. Giới thiệu về cuốn sách “Old Chinese: A New Reconstruction” của
William H. Baxter and Laurent Sagart (2014) ................................................ 25
1.4. Tiểu kết ..................................................................................................... 30
Chương 2: MIÊU TẢ TÌNH HÌNH THỐNG KÊ TƯ LIỆU ..................... 33
2.1. Những chữ Hán có 01 âm đọc của người Việt ......................................... 36
2.2. Những chữ Hán có 02 âm đọc của người Việt ......................................... 39
2.3. Những chữ Hán có trên 02 âm đọc của người Việt.................................. 42
Chương 3. BƯỚC ĐẦU PHÂN TÍCH TƯ LIỆU THỐNG KÊ ................ 44
3.1. Về những chữ Hán có 02 âm đọc của người Việt .................................... 44
3.1.1. Cùng giống nhau về âm đầu ................................................................. 46
3.1.2. Khác nhau về âm đâu ............................................................................ 49
1


3.2. Về những chữ Hán có trên 02 âm đọc chữ Hán của người Việt .............. 55
3.2.1. Cùng giống nhau về âm đầu ................................................................. 55

3.2.3. Khác nhau về âm đầu ............................................................................ 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 70
- Tiếng Việt ...................................................................................................... 70
- Tiếng Trung.................................................................................................... 71
- Tiếng Anh ...................................................................................................... 73
- Từ Điển ......................................................................................................... 73
PHỤ LỤC 附录 .............................................................................................. 74
Phụ lục 1 (附录一) ....................................................................................... 74
Phụ lục 2 (附录二) ....................................................................................... 78
Phụ lục 3 (附录三) ..................................................................................... 100
Phụ lục 4 (附录四) ..................................................................................... 118
Phụ lục 5 (附录五) ..................................................................................... 127
Phụ lục 6 (附录六) ..................................................................................... 130
Phụ lục 7 (附录七) ..................................................................................... 132
Phụ lục 8 (附录八) ..................................................................................... 133
Phụ lục 9 (附录九) ..................................................................................... 133

2


TÓM TẮT
Ngành ngôn ngữ học làmột ngành học vừa cổ xưa vừa tương đối mới.
Trung Quốc làmột quốc gia có “quặng giàu” về mặt ngôn ngữ, ngôn ngữ Hán
cólịch sử lâu đời, ngôn ngữ đa dạng, còn cótruyền thống nghiên cứu tốt đẹp,
thành quả nghiên cứu mới về ngôn ngữ không ngừng xuất hiện, cũng có nhiều
nhàngôn ngữ học nước khác quan tâm đến việc nghiên cứu tiếng Hán và đạt
được thành quả có giá trị, ví dụ như cuốn sách “Old Chinese: A New
Reconstruction” của William H. Baxter and Laurent Sagart (2014) thì đúng là
một tác phẩm tiêu biểu.

Như chúng ta đã biết, do tiếng Việt có chịu ảnh hưởng của tiếng Hán
trong quátrình lịch sử tiếp xúc lâu dài, trong tiếng Việt cóhàng loạt từ vựng
tiếng Hán được vay mượn vào tiếng Việt vào các thời kỳ khác nhau, nghiên
cứu vàphân tích những cách đọc vàtừ vựng trong tiếng Việt màcóliên quan
với tiếng Hán có ích cho việc nghiên cứu lịch sử tiếng Hán vàlịch sử tiếng
Việt với có thể cung cấp giátrị tham khảo cho việc nghiên cứu âm đọc chữ
Hán ở Nhật Bản, Triều Tiên v.v., đồng thời cũng có giá trị học thuật quan
trọng về nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ vànghiên cứu nghiên cứu so sánh –
lịch sử. Trong luận văn này chúng tôi sẽ dựa trên danh sách tái lập âm Hán cổ
của Baxter W.H. & Sagart L. năm 2014 mà khảo sát những biến thể âm Hán Việt ở trong đó.
Từ khóa: tiếp xúc ngôn ngữ, âm Hán - Việt, danh sách tái lập, âm Hán
cổ, Baxter W.H. & Sagart L.

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
 STT: số thứ tự
 TC: Traditional Chinese character (chữ Hán Phồn thể ).
 SC: Simplified Chinese character (chữ Hán Giản thể ).
 PY: Mandarin Pinyin romanization (Phiên âm latinh hiện nay).
 MC: Middle Chinese reconstruction (Dạng tái lập Hán Trung cổ).
 MCI: Middle Chinese initial (Âm đầu trung cổ).
 MCF: Middle Chinese final (Vận trung cổ).
 MCT: Middle Chinese tone (Thanh điệu trung cổ).
 A = even tone (平聲 Thanh Bình).
 B = rising tone (上聲 Thanh Thượng).
 C = departing tone (去聲 Thanh Khứ).
 D = entering tone (入聲 Thanh Nhập ).
 OC: Old Chinese reconstruction (Dạng Hán cổ tái lập)

 Gloss: Word's meaning (Nghĩa của từ).
 CH: chữ Hán.
 VNg (HVN): Văn Ngôn (Hán - Việt ngữ).
 TVPT: tiếng Việt Phổ thông.

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ Hán là một trong những ngôn ngữ được số lượng người sử
dụng nhiều nhất, cũng là thứ ngôn ngữ có lịch sử cực kỳ lâu dài. Trong quá
trình lịch sử phát triển lâu dài, tiếng Hán đã làm tròn trách nhiệm là công cụ,
là phương tiện liên kết cộng đồng Trung Hoa, phát triển và kế thừa văn hóa
lịch đại, nó gốp phần lớn cho sự tiến bộ thống nhất cho dân tộc Hán và cả
cộng đồng dân tộc Trung Hoa, cũng đã đặt được công lao lớn và bất diệt cho
sự phát triển mạnh của văn hóa Hán và các thứ văn hóa thuộc dân tộc Trung
Hoa. Đồng thời ngôn ngữ Hán cũng gốp phần lớn cho kho tàng văn hóa thế
giới với văn hóa và ngôn ngữ của các khu vực và các nước đã chịu sự ảnh
hưởng của văn hóa Hán trực tiếp. Cộng đồng dân tộc Việt Nam đúng là một
cộng đồng đã chịu sự ảnh hưởng của ngôn ngữ và văn hóa Hán về mặt ngôn
ngữ và văn hóa rất nổi bật và từ thời kỳ cách đây rất lâu. Nhìn từ mặt lịch sử
của văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam, sự tiếp xúc song văn hóa và song ngôn
ngữ Hán – Việt diễn ra trong quá trình tiếp xúc và phát triển lâu dài, đặc biệt
là gắn với nghìn năm “Bắc thuộc”. Văn hóa Trung hoa du nhập vào Việt Nam,
mà đồng thời cũng làm xuất hiện ồ ạt các từ mượn Hán (hay gốc Hán), chính
vì vậy, cho đến hiện tại, trong văn hóa và văn minh Việt Nam vẫn có thể dễ
dàng nhận thấy được những nét dấu ấn của văn hóa văn minh và ngôn ngữ
Trung Hoa. Hơn nữa, còn sự xuất hiện của chữ Hán cũng dược dùng như
một văn tự đã đưa tiếng Việt trở thành ngôn ngữ thành văn và trong quá

trình tiếp xúc lâu dài cũng đã dần dần ảnh hưởng đến toàn diện từ ngữ âm,
ngữ pháp đến từ vựng tiếng Việt. Ngoài ra, đáng chú ý hơn nữa là với
cách đọc Hán - Việt, phối hợp với sức sống mãnh liệt của tiếng Việt, các
từ mượn Hán được du nhập vào tiếng Việt đã có vai trò quan trọng trong
việc tạo lập các từ ngữ mới.

5


Thông qua nghiên cứu cổ Hán ngữ, tìm hiểu rõ lịch sử phát triển và tì
nh
hình lịch đại, có thể có ích cho việc tìm rõ nền phát triển của các ngôn ngữ
khác mà có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ Hán, hơn nữa có thể thúc đẩy sự
giao lưu giữa các ngôn ngữ và văn hóa trong và ngoài nước Trung Quốc, cũng
như thúc đẩy sự giao lưu về văn hóa và ngôn ngữ giữa hai nước Trung Quốc
và Việt Nam. Như trong sách “Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc
Hán - Việt” của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã viết: “Xuất phát từ thực tiễn
trong nước mà nhìn, ai cũng thấy rằng trong quá trình phát triển, nền văn hóa
dân tộc của chúng ta đã có mối quan hệ mật thiết với nền văn ngôn và với chữ
Hán. Người Việt Nam trước đây, từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã liên tục
trong nhiều thế kỷ, sử dụng chữ Hán và lối văn ngôn như một công cụ văn
hóa của dân tộc, dùng nó để ghi chép, viết lách, lưu lại đến ngày nay một kho
tàng không nhỏ những công trình về sử học, về luật học, về y học, văn học...
Đó là một gia tài quý báu mà chúng ta phải đọc, phải tìm hiểu, phải dịch để
giới thiệu lại cho thế hệ mai sau. Mà rõ ràng là những việc làm này – đối với
người Việt – không thể nào tiến hành tốt được nếu không thông qua cách
đọc Hán - Việt.” [3, tr.21,22] Cũng như nhà ngôn ngữ học Trung Quốc
ông Vương Lực trong sách “Hán - Việt Ngữ nghiên cứu” đã nói rằng:
“Mục đích chính của chúng tôi nghiên cứu Hán - Việt ngữ không phải là
để tìm hiểu tình hình hiện nay hoặc là phát triển tương lai của tiếng Việt,

mà là mong đươc kết quả nghiên cứu có thể giúp cho việc nghiên cứu thảo
luận về âm cổ tiếng Trung (âm cổ tiếng Hán), như vậy thìHán - Việt Ngữ
cũng rất đáng nghiên cứu.” [30, tr.12]
Như những nội dung đã nói trên, bất cứ là xuất phát từ mục đích
nghiên cứu ngôn ngữ Hán cổ hay là muốn tìm hiểu lịch sử và tình hình tiếp
xúc với nhau giữa hai ngôn ngữ tiếng Trung và tiếng Việt hoặc là muốn tìm
hiểu rõ cách đọc Hán - Việt vào từng thời đại khác nhau đều rất có giá trị quý

6


báu. Trong đó,chúng ta đều biết rõmột điều làdo các thứ nguyên nhân lịch
sử và nhân tố địa lý, chí
nh trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...mà khiến cho hai
nước Trung Việt đã có sự “tiếp xúc ngôn ngữ” từ lúc xa xưa, tiếp xúc song
ngữ Hán – Việt dẫn đến việc du nhập của các từ Hán vào tiếng Việt. Xét về
mặt lịch sử, một từ Hán Việt làmột từ được viết ra bằng chữ khối vuông của
Trung Quốc, nhưng lại phát âm theo cách phát âm Hán - Việt, người Việt vẫn
dùng để đọc mọi văn bản viết bằng chữ Hán, dù đó là của người Hán hay của
người Việt. Xét về chữ thìchỉ cóchữ Hán màkhông cóchữ Hán - Việt, Hán Việt chỉ làmột cách phát âm riêng của người Việt. [15, tr.11] Qua sự tiếp xúc
về nhiều mặt trong lịch sử phát triển của xãhội giữa hai bên, với sự giúp sức
của ngôn ngữ Hán, chữ Hán đã ảnh hưởng đến vùng Việt Nam ngày nay.
Ngôn ngữ của con người bao giờ cũng là ngôn ngữ thành tiếng, có âm
thanh, cho nên nghiên cứu ngôn ngữ chắc chắn khổng thể tách khỏi với ngữ
âm. Những chữ Hán lại không phải làchữ ghép âm, chỉ dựa trên chữ viết văn
bản rất khó để tìm được âm đọc thực tế của tiếng Hán vào thời cổ. Có một
nhiệm vụ quan trọng của âm vận học tiếng Hán đúng là tái lập ra âm đọc của
chữ Hán vào thời cổ, đây cũng là lý do chính mà âm vận học được nhiều
người coi trọng về ngôn ngữ học tiếng Hán. Về tái lập âm Hán cổ có cuốn
sách “Old Chinese: A New Reconstruction” của William H. Baxter and

Laurent Sagart (2014) đã được nhiều người học giả vànhàngôn ngữ học biết
đến vàcông nhận cógiátrị lớn. Trong bài luận văn này chúng tôi sẽ dựa trên
“Danh sách tái lập âm Hán cổ của Baxter W.H. & Sagart L. năm 2014” mà
khảo sát những biến thể âm Hán - Việt trong đó.
Do sự tiếp xúc mật thiết trong lịch sử từ xưa đến nay, nên trong tiếng
Việt có sự tồn tại của hàng loạt từ vựng mượn từ tiếng Hán. Những từ mượn
này được nhập vào tiếng Việt vào các giai đoạn lịch sử khác nhau, mà qua sự

7


phát triển lâu dài vẫn được cùng tồn tại ở trong ngôn ngữ tiếng Việt hiện đại.
Do hệ thống âm Hán - Việt và những từ mượn tiếng Hán trong ngôn ngữ tiếng
Việt đối với nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ Hán và lịch sử ngôn ngữ Việt có giá
trị lớn và ý nghĩa quan trọng, những nghiên cứu có liên quan luôn nhận được
sự chú ý và quan tâm của những học giả và nhà ngôn ngữ học các nước.
Trước đây đã có nhiều học giả và nhà ngôn ngữ học đã nghiên cứu và
giành được những thành quả có giá trị lớn, Qua những thành quả đó, sự
nghiên cứu về Hán - Việt ngữ hoặc âm Hán - Việt, từ mượn Hán - Việt ở giới
học không ngừng được đi sâu và hệ thống hóa. Mục đích chính của luận văn
này là dựa trên những tài liệu liên quan đã có mà khảo sát những biến thể âm
Hán - Việt trong danh sách tái lập âm Hán cổ của Baxter W.H. & Sagart L.
năm 2014. Qua những công việc đó, chúng tôi có thể tiến một bước có được
sự hiểu biết sâu hơn về quá trình tiếp xúc âm Hán - Việt nói riêng vàngôn
ngữ Hán - Việt nói chung, nếu có thể thì chúng tôi còn rất hy vọng sẽ có thể
có được gì phát hiện mới về các vấn đề liên quan đến tiếp xúc ngôn ngữ Hán Việt nói riêng và tiếp xúc ngôn ngữ nói chung.
Trong luận văn này, nhiệm vụ chính là tìm hiểu rõ âm Hán - Việt của
những chữ Hán trong danh sách tái lập âm Hán cổ của Baxter W.H. & Sagart
L. năm 2014, sau đó thống kê lại và phân loại để lập danh sách chữ Hán có 1
âm Hán - Việt, chữ Hán có 2 âm Hán - Việt, chữ Hán có trên hai âm Hán Việt, làm tư liệu về danh sách các từ tái lập của Baxter-Sagart xong thì dựa

trên tư liệu đã có và kết hợp những kiến thức và tri thức về tiếp xúc ngôn ngữ
Hán - Việt và các phương pháp nghiên cứu của ngành ngôn ngữ học mà khảo
sát những biến thể âm Hán - Việt trong danh sách tái lập âm Hán cổ của
Baxter W.H. & Sagart L. năm 2014. Sau khi phân tích và nghiên cứu đặt được
kết quả có giá trị để giúp chúng tôi hiểu rõ và hiểu sâu hơn về quan hệ giữa

8


âm Hán - Việt và âm Hán cổ nói riêng và quan hệ tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ
Trung Việt nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về lĩnh vực tiếp xúc ngôn ngữ Hán - Việt và tác phẩm cuốn sách “Old
Chinese: A New Reconstruction” của William H. Baxter and Laurent Sagart
(2014) thì đã có không ít người quan tâm đến và làm nghiên cứu cụ thể, hơn
nữa cũng đã có nhiều người đi trước hoặc là học giả, nhà ngôn ngữ học đã đạt
được thành tựu lớn và có giá trị đáng kể. Nhưng hình như chưa ai làm công
việc cụ thể về khảo sát những biến thể âm Hán - Việt trong danh sách tái lập âm
Hán cổ của Baxter W.H. & Sagart L. năm 2014. Tôi thấy tự mình rất may mắn
mà được dịp tiếp xúc đến những kiến thức, tài liện có liên quan và làm những
công việc cụ thể để hoành thành đề tài này trong luận văn tốt nghiệp của tôi.
Những vấn đề liên quan đến Hán - Việt ngữ thì đã có khá nhiều học giả
và nhà ngôn ngữ học đến từ các nước, đặc biệt là những học giả và nhà ngôn
ngữ học đến từ Trung Quốc và Việt Nam đã quan tâm nhiều đã làm nghiên
cứu sâu, cũng đạt được những thành tựu rất có giá trị. Như đã được giớ học
công nhận, hệ thống âm Hán - Việt là kết quả của sự tiếp xúc giữa hai ngôn
ngữ Hán - Việt trong những thời kỳ lịch sử lâu dài. Tôi thấy hệ thống âm Hán
- Việt không phải là được hình thành vào một thời nào đó, mặc dù trong giới
học đa số người đã xác định và công nhận điểm xuất phát của âm Hán - Việt
là vào lúc thời nhà Đường, nhưng thực ra sự tiếp xúc có một cách quy mô lớn

giữa hai ngôn ngữ Hán - Việt kể từ lúc những năm cuối thời Đông Hán thì đã
bắt đầu, cho nên trong hệ thống âm Hán - Việt mà hiện nay chúng tôi có thể
thấy được mặc dù cách đọc Hán - Việt về cơ bản có sự đối ứng chặt chẽ với
hệ thống ngữ âm thiết vận của âm hệ tiếng Hán thời Trung cổ, nhưng cũng có
không ít trường hợp ngoại lệ hiển thị ra đặc trưng tiếng Hán của những thời

9


kỳ trước đó. Trong âm hệ này có thể bao gồm những nét đặc trưng sót lại của
ngữ âm tiếng Hán vào thời Nam Bắc triều hoặc hơn nữa đến thời nhà Hán.
Tôi thì hy vọng qua những công việc cụ thể về khảo sát những biến thể âm
Hán - Việt trong danh sách tái lập âm Hán cổ của Baxter W.H. & Sagart L.
năm 2014 mà có thể giúp chúng tôi hoặc những ai quan tâm hiểu sâu và hiểu
rõ hơn về lịch sử phát triển của âm Hán - Việt hoặc những đặc điểm về sự tiếp
xúc giữa hai ngôn ngữ Hán - Việt. Nếu qua đó mà có được gì phát hiện mới
thì càng tốt.
Về lịch sử nghiên cứu vấn đề có liên quan thì đã có khác nhiều học giả
Trung Quốc và Việt Nam, hơn nữa còn một số nhà ngôn ngữ học đến từ các
nước khác trên thế giới đã đi trước làm nghiên cứu cụ thể về cách đọc Hán Việt, về hệ thống âm đọc “ Thiết Vận《切韵》” của Trung Quốc hoặc nhờ
vào hệ thống cách đọc âm Hán - Việt mà đối chiếu hệ thống “ Thiết Vận《切

韵》” làm nghiên cứu so sánh đối chiếu, ngoài ra cũng có khá nhiều học giả,
đặc biệt là một số học giả và nhà ngôn ngữ học Trung Quốc đã quan tâm đến
tác phẩm cuốn sách “Old Chinese: A New Reconstruction” của William H.
Baxter and Laurent Sagart (2014). Nhưng hình như tạm thời chưa ai dựa trên
danh sách tái lập âm Hán cổ của hai ông làm nghiên cứu cụ thể về khảo sát
những biến thể âm Hán - Việt trong danh sách đó. Chính vì thế, trong luận
văn này chúng tôi sẽ dựa trên danh sách tái lập âm Hán Cổ của hai ông Baxter
W.H. & Sagart L. năm 2014 làm tư liệu cụ thể và khảo sát những biến thể âm

Hán - Việt trong danh sách.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đúng của luận văn này đúng là những biến thể âm
Hán - Việt trong danh sách tái lập âm Hán cổ của Baxter W.H. & Sagart L.
10


năm 2014, nói cụ thể hơn thì đúng là tư liệu tôi đã làm thống kê và phân loại
dựa trên danh sách tái lập âm Hán cổ của Baxter W.H. & Sagart L. năm 2014.
3.2. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
Phạm vị nghiên cứu của luận văn này là dựa trên những tài liệu và kiến
thức tôi đã học và nắm bắt được về sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ tiếng Trung
và tiếng Việt để khảo sát những biến thể âm Hán - Việt trong danh sách tái lập
âm Hán cổ của Baxter W.H. & Sagart L. năm 2014 và để nắm bắt được những
đặc điểm hoặc quy luật gì trong đó. Dựa trên tư liệu cụ thể mà tham khảo
những tài liệu và thành tựu do những người đi trước hoặc là các nhà ngôn ngữ
học, học giả đã đạt được và đối chiếu sự biến âm lịch sử của tiếng Hán và
tiếng Việt để triển khai công việc khảo sát cụ thể.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn mà chúng tôi đặt ra là, qua khảo sát
những biến thể âm Hán - Việt trong danh sách tái lập âm Hán cổ của Baxter
W.H. & Sagart L. năm 2014, xác lập danh sách những chữ Hán có cách đọc
khác nhau của người Việt. Đây được coi là nhiệm vụ chính của luận văn. Sau
đó, trên cơ sở danh sách những chữ Hán có cách đọc khác nhau của người
Việt, luận văn bước đầu đưa ra một vài nhận xét. Do tính chất và trình độ của
một luận văn Thạc sỹ, chúng tôi cho rằng những nhận xét ban đầu của chúng tôi
chỉ là những thử nghiệm để qua đó, nhận sự góp ý cho công việc của tương lai.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chủ yếu là sử dụng phương pháp miêu tả để tỏ rõ đặc
điểm của các chữ Hán trong tư liệu và phương pháp so sánh lịch sử để tỏ rõ

tình hình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ tiếng Hán và tiếng Việt. Ngoài ra trong
quá trình làm luận văn còn thông qua tra từ điển để tìm được những âm đọc
chữ Hán của người Việt của các chữ Hán và âm Hán - Việt của một số chữ
Hán trong danh sách tái lập âm Hán cổ của Baxter W.H. & Sagart L. năm

11


2014, sau khi tìm ra âm đọc chữ Hán của người Việt Nam và âm Hán - Việt
của các chữ Hán sau lại tiến hành công việc thống kê và phân loại. Sau đó lại
dựa trên kết quả thống kê và phân loại của tư liệu mà tiến hành miêu tả và làm
phân tích tư liệu.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai theo 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận của luận văn
Chương 2. Miêu tả tình hình thống kê tư liệu
Chương 3. Bước đầu phân tích tư liệu thống kê

12


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN VĂN
1.1. Dẫn nhập
1.1.1.Tì
nh hình tiếp xúc song ngữ Hán - Việt
1.1.1.1. Đặt vấn đề
Từ xưa đến này, tiếp xúc song ngữ Hán - Việt là một cuộc tiếp xúc cóquá
trình lâu dài và có tình hình tiếp xúc khác nhau vào các thời kỳ khác nhau,
dưới các bối cảnh ngôn ngữ xã hội vô cùng phức tạp, đan xen nhau. Đây

chính là lý do tạo nên tính biến thể phong phú nhưng đa tạp về từ mượn Hán
trong tiengs Việt. Với tình hình các từ mượn Hán trong tiếng Việt hiện tại rất
phong phú, đa tạp và sau khi trải qua nhiều thế kỷ lịch sử phát triển vẫn còn
được hoạt động ở tất cả cấp độ của hệ thống tự vựng tiếng Việt. Qua đó mà
chúng tôi có thể nghĩ đến việc trong quátrì
nh tiếp xúc lịch sử lâu dài, hàng
loạt từ vựng ngôn ngữ Hán nhập vào ngôn ngữ tiếng Việt vào những thời kỳ
lịch đại khác nhau, cho đến nay vẫn còn nhiều từ vàdấu đích có liên quan
được cùng tồn tại trong ngôn ngữ tiếng Việt hiện tại. Đi tìm nguồn gốc ban
đầu vànhì
n vào dòng lịch sử phát triển về sự tiếp xúc, du nhập, đồng hóa,
biến thể vàthực tế sử dùng của các từ mươn Hán trong tiếng Việt, chúng ta
không thể không nhắc đến sự tác động của hàng loạt các nhân tố ngôn ngữ xã
hội. Chúng ta còn có thể dễ dàng nhận thấy được các từ mượn Hán đã hòa
nhập vào tiếng Việt và trở thành yếu tố nhập vào các tầng các lớp của hệ
thống từ vựng tiếng Việt. Trong đó, đặc biệt âm hệ Hán - Việt làthành quả
chí
nh của sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ Hán – Việt, còn dự trên nền đó mà

nh thành hàng loạt từ Hán Việt.
1.1.1.2. Bối cảnh lịch sử các thời kỳ của sự tiếp xúc song ngữ Hán – Việt
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng, có quan hệ mật thiết
với nhau về nhiều mặt, núi liền núi sông liền sông, chung biên giới trên bộ và

13


trên biển, lại có quá trình gắn bó tương tác về văn hóa lịch sử, nên văn hóa hai
nước tương thông, trong quá trình lịch sử phát triển, hai nước có quan hệ “vừa
hợp tác, vừa đấu tranh”, nên làm cho hai nước luôn có quan hệ vận mệnh

tương quan. Trong lịch sử nhân dân hai nước vốn có nguồn gốc tiếp xúc với
nhau lịch sử lâu đời, sâu sắc, sự tiếp xúc với nhau luôn liên quan đến nhiều
mặt như chính trị, văn hóa, lễ tục, giáo dục, ngôn ngữ, kinh tế, quân sự...v.v.,
có thể kể từ lúc thời nhà Hán Trung Quốc, cho đến thế kỷ thứ X Việt Nam xây
dựng và trở thành một quốc gia phong kiến độc lập tự chủ, trong nghìn năm
đó khu vực miền bắc đến khu vực miền trung Việt Nam hiện nay luôn do các
triều đại phong kiến lịch sử của Trung Quốc cai quản. Thời Hán, các phương
thức sản xuất và lễ tục văn hóa Trung Nguyên Trung Quốc tùy theo lực lượng
quân sự và chính trị của nhà Hán từ bắc xuống vào vùng Nam Việt, đồng thời
cũng là qua đó mà tiếng Hán và chữ Hán cũng dần được nhập vào và phát huy
tác dụng về nhiều mặt xã hội, hơn nữa chữ Hán trong hơn hai nghìn năm dòng
lịch sử phát triển của Việt Nam sau đó đều là chữ viết chính thức được phía
triều đình phong kiến của Việt Nam lựa chọn và sử dụng.
Vào thời Hán, Hán Vũ Đế đã thiết chế chín quận (quận Nam Hải,
Thương Ngô, Úc Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Đam Nhĩ,
Châu Nha) ở vùng Nam Việt mà cùng chung thuộc bộ Thứ sử Giao Châu.
Trong đó, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam ba quận cai quản những vùng đất
mà đúng là thuộc miền Bắc, miền Trung và miều Nam của Việt Nam ngày nay.
Qua đó mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, thời đó đã có một mối quan hệ
về mặt xã hội, văn hóa, ngôn ngữ, chín trị giữa hai bên, cũng do đó mà tạo
nên một giai đoạn tiếp xúc sơ kì song ngôn ngữ văn hóa giữa Hán cổ và Việt
Cổ. Sau đó chính phủ cai trị vùng Giao Chỉ thuộc chính quyền Đông Hán
thành lập các trường học dạy chữ Hán và các thứ lễ tục văn hóa Trung
Nguyên để truyền bá ngôn ngữ văn hóa mà thực hiện hiệu quả tốt cho việc cai

14


quản, tùy theo sự tiếp xúc giữa các phương diện xãhội, chính trị, quân sự, văn
hóa, ngôn ngữ... làm cho cuộc tiếp xúc song ngôn ngữ văn hóa giữa Hán và

Việt thêm một bước mở rộng. Đến lúc những năm cuối thời Đông Hán, trật tự
xãhội đại loạn, nhiều cuộc chiến tranh nổ ra, hàng loạt người kẻ sĩ và người
kiếm sống xuống vào khu Giao Chỉ tị nạn, trong đó có nhiều người lập trường
dạy học vàviết sách phát biểu quan điểm, cũng vì thế màchữ Hán và văn hóa
Hán được truyền bámột cách nhanh chóng.
Cho đến thời Tùy Đường, một thời kỳ phồn thịnh cực kỳ của xã hội
phong kiến Trung Quốc. Vào thời đó, chính phủ trung ương nhà Đường thực
hiện sự cai quản một cách rất cóhiệu quả đối với khu Giao Chỉ, chế độ khoa
cử được thực thi ở vùng đất Giao Chỉ để đào tạo quan lại địa phương. Những
nguyên nhân đó làm cho mức độ tiếp xúc vàảnh hưởng của ngôn ngữ văn hóa
Hán đối với ngôn ngữ văn hóa Việt được nâng cao, cũng làm cho địa vị của
chữ Hán ở vùng đất Giao Chỉ cũng được nâng cao nhiều, màphạm vi sử dụng
của chữ Hán cũng được mở rộng từ tầng lớp các sĩ đại phu, quan trường đi
vào đời sống xãhội dân gian người bản xứ. Dưới cảnh huống ngôn ngữ đó,
ngôn ngữ Hán nhờ chữ Hán làm phương tiện truyền đạt truyền vào Việt Nam
theo một cách mang tí
nh hệ thống, đồng thời có được sự tiếp xúc với tiếng
Việt theo một cách mang tính hệ thống, cũng do đó mà có được một sản phẩm
đặc biệt gọi là cách đọc Hán - Việt ra đời. Nói đến đây thì phải nhắc đến một
khái nhiệm quan trọng làâm Hán - Việt. Âm Hán - Việt đúng là một bộ âm
đọc chữ Hán được truyền vào Việt Nam theo một cách mang tí
nh hệ thống
vào thời trung cổ, sau đó mặc dù đã trải qua sự phát triển vàcác biến thể hơn
nghìn năm mà vẫn giữ được sự đối ứng chặt chẽ về hệ thống thiết vận một
cách cơ bản. Thời đó, tùy theo lực lượng chí
nh trì, quân sự cónhiều nét văn
hóa phương Bắc (Trung Quốc) được truyền vào Việt Nam. Còn thời đó, theo
gốc nhì
n phía Việt Nam, trong suốt thời kì “Bắc thuộc”, chữ Hán làngôn ngữ


15


Trung Quốc được dạy và dùng trong nhà trường, còn được dùng trong khắp
nơi xã hội như nhà chùa, thờ cúng tổ tiên, sáng tác văn học, trong ghi chép
giấy tờ hàng ngày. Hơn nữa, cũng là do nguyên nhân chính trì, quân sự, xã
hội, người Hán dần dần nhập vào hầu hết các hoạt động quan trọng của đời
sống xã hội Việt Nam. Chính về thế, ở vùng đất Giao Chỉ, người Hán và
người Việt có một cách tiếp xúc rất mật thiết ở chung một môi trường xã
hội, mà tiếng Hán và tiếng Việt cũng có được sự tiếp xúc tự nhiên, mật
thiết vàsâu rộng, chúng ta có thể qua âm hệ Hán - Việt mànhận thấy được
những nét dấu ấn của sự tiếp xúc đó. Như vậy, có thể nhận thất được đó
chính làtiếng Hán vàtiếng Việt đều có được sử dùng trong cảnh huống ngôn
ngữ của xãhội Việt Nam thời kì đó. Có thể song ngữ tiếng Hán vàtiếng Việt
vào thời kì đó được sử dụng một cách bất bình đẳng, tiếng Hán làngôn ngữ
có chữ viết được dùng làm ngôn ngữ chính thức của nhà nước, ngôn ngữ
hành chính, khoa cử, văn chương, tiếng Việt là ngôn ngữ của người dân
trong giao tiếp khẩu ngữ hàng ngày. Dưới cảnh huống ngôn ngữ như thế,
cách đọc Hán - Việt vàhệ thống âm Hán - Việt dần dần được hình thành.
Thông qua những cứ liệu lịch sử liên quan của hai nước vànhững tài
liệu có liên quan đến bối cảnh hình thành của âm Hán-Việt được ghi chép
trong sách sử cổ và trong một số tác phẩm của các nhà ngôn ngữ học và
học giả đi trước, qua đó chúng tôi tập trung bàn về các nguyên nhân đã dẫn
đến sự tiếp xúc văn hóa Hán của người Việt, như sự thống trị về chính trị
của các tập đoàn phong kiến Trung Nguyên, hoặc các cuộc Nam hạ di cư
lánh nạn của tríthức người Hán; đồng thời qua phân tích các cứ liệu lịch sử
vàtính chất của hệ thống ngữ âm âm Hán - Việt, chúng tôi đã đưa ra một
số kết luận xung quanh sự hình thành của âm Hán - Việt: một làchữ Hán
phải được truyền vào Việt Nam rất sớm cùng với sự Nam tiến của người
Hán vàâm Hán-Việt phải được hình thành sớm hơn so với thời điểm giành


16


được độc lập của Việt Nam, tức phải từ thời Trung Đường hoặc sớm hơn.
[16, tr.33]
Cho nên, với cách nhìn như thế, chúng tôi cóthể thấy được tiếng Hán ở
Việt Nam vào thời đó với tư cách là một sinh ngữ được một bộ phận người
Việt Nam thuộc tầng lớp trong chính quyền, thân chí
nh quyền học. Sau khi
Việt Nam xây dựng vàtrở thành một quốc gia phong kiến độc lập vàtự chủ
thìhệ thống âm Hán - Việt cũng thoát khởi sự ảnh hưởng của ngôn ngữ Hán
thuộc vùng Trung Nguyên Trung Quốc, sau đó thì không códiễn biến theo sự
phát triển của ngôn ngữ Hán, cũng do đó mà về cơ bản giữ được sự lề lối âm
hệ đối ứng với ngôn ngữ Hán thời trung cổ. Từ thế kỷ thứ X Công nguyên,
Việt Nam thoát khỏi sự cai quản của chí
nh phủ trung ương, xây dựng vàtrở
thành một quốc gia phong kiến, sau đó, sự tiếp xúc giữa tiếng Hán vàtiếng
Việt cũng bước vào một giai đoạn mới. Do nguyên nhân chí
nh trị sinh ra sự
tách rời về mặt địa lý không gian, vìthế màsự tiếp xúc giữa tiếng Hán của
vùng Trung nguyên vàtiếng Việt chỉ được thông qua những phương tiện gián
tiếp như phiên dịch tài liệu lịch sử, thư tín đi lại mà tiến hành, cho nên có
những học giả coi sự tiếp xúc giữa tiếng Hán vàtiếng Việt vào thời đó là một
trạng thái có sự tiếp xúc với nhau phi tự nhiên. Dưới tì
nh trạng tiếp xúc như
thế thìkhông còn cóhệ thống âm đọc chữ Hán mới nhập vào Việt Nam nữa,
mà hệ thống âm đọc chữ Hán được nhập vào Việt Nam vào thời Trung cổ
cũng thoát khỏi đường lối phát triển của tiếng Hán màdần dần hòa nhập vào
tiếng Việt. Do mối quan hệ mật thiết giữa hai ngôn ngữ tiếng Trung vàtiếng

Việt với mục đích để vươn lên, đáp ứng vai trò ngôn ngữ của một quốc gia
độc lập, tiếng Việt đã biết vay mượn một số lượng lớn những gìcó từ tiếng
Hán để làm cho mình ngày một thêm hoàn thiện, hướng tới mục tiêu vừa là
công cụ giao tiếp trong toàn xãhội vừa làngôn ngữ hành chí
nh của quốc gia.
Vìthế, trong những thời kỳ sau vẫn còn cónhiều từ mượn Hán nhập vào Việt

17


Nam, cho đến hiện tại. Nhưng những từ mượn Hán được truyền nhập vào
những thời kỳ sau đó thì chỉ làmượn về mặt từ vựng thôi, người Việt Nam đã
thói quen cách đọc Hán - Việt, tức làhệ thống âm Hán - Việt được hì
nh thành
vào thời Đường (thời Trung cổ) , theo âm Hán - Việt mà phát âm và đọc
những từ mượn Hán mới được mượn vào, chứ không phải là đọc theo âm đọc
tiếng Hán của thời điểm mượn vào. Nhờ có được những nét cơ bản về mặt
ngôn ngữ với cósự định hì
nh vàsức sống mãnh liệt, việc vay mượn tiếng Hán
đã không làm mất đi đặc trưng chính của tiếng Việt màchỉ làm phong phúvà
hoàn thiện cho bản thân nó.
Các giai đoạn được nhắc ở trên chỉ làmiêu tả một cách cơ bản, sơ lược
về lịch sử tiếp xúc Hán - Việt, trong luận văn này tôi sẽ dựa trên bối cảnh lịch
sử này màtiến một bước tìm hiểu thêm về sự ảnh hưởng do sự tiếp xúc Hán Việt đưa lại cho ngôn ngữ và văn hóa Việt với khảo sát những biến thể âm
Hán - Việt trong danh sách tái lập âm Hán cổ của Baxter W.H. & Sagart L.
năm 2014, nhờ đó để hiểu sâu hơn về sự tiếp xúc Hán - Việt vàâm Hán - Việt.
1.2. Nội dung cách hiểu “âm Hán - Việt”
Như mọi người đã biết chữ Hán có lịch sử lâu dài, lúc đầu chữ Hán chỉ
dùng để phục vụ riêng cho người Hán và các tầng lớp trên trong các khu vực
đã tiếp xúc với văn hóa và văn minh của người Hán sớm. Nhờ có chữ Hán

sớm, nên người Hán Trung Quốc có thể tương đối dễ hơn tạo điều kiện để
nâng cao thêm nền văn hóa của mình so với các dân tộc khác chưa có chữ viết.
Tùy theo lịch sử phát triển, song song với việc mở rộng địa bàn cư trú của
người Hán và địa bàn ảnh hưởng của nền văn Hóa Hán, chữ Hán cũng dần
dần được phát triển và nhập vào các vùng và khu vực khác. Ví dụ ở Đông Á
và một phần Đông Nam Á đều có một số dân tộc như Triều Tiên, Nhật Bản,
Việt Nam v.v... chịu ảnh hưởng của chữ Hán và văn hóa Hán rất lớn và sâu

18


sắc về nhiều mặt như chính trị, ngoại giao, giáo dục v.v... Nhưng cùng với sự
phát triển lịch sử của nhân loại, cũng như của ngôn ngữ Hán và chữ Hán, cách
đọc chữ Hán ở Trung Quốc, cũng như ở những vùng ngoài Trung Quốc đều
dần dần thay đổi. Do nhiều nguyên nhân về địa lý, chính trị, văn hóa, trình độ
phát triển xã hội và thời kỳ vay mượn vào mỗi vùng khác với một số nhân tố
khác, mỗi vùng dần dần hình thành một cách đọc chữ Hán riêng. Do đó có thể
hình thành một tình thế như này, những người ở các khu vực khác nhau và
cách xa nhau có thể dùng chung một thứ chữ Hán viết như nhau, xem và biết
được nội dung và nghĩa như nhau, nhưng đọc lên thì âm đọc khác nhau, nói
và nghe thì cũng không hiểu được nhau nữa. Cũng do đó, các khu vực hoặc các
vùng có sử dụng chữ Hán cả trong và ngoài nước Trung Quốc dần dần làm cho
chữ Hán trở thành một hệ thống văn tự có nhiều cách đọc khác nhau, mà cách
đọc Hán - Việt hoặc gọi là âm Hán - Việt chí
nh là một cách đọc trong đó.
Trước đây, giới học giả đã có nhiều người nghiên cứu và quan tâm đến
“âm Hán - Việt”, dựa trên cơ sở nghiên cứu cũng dần dần phân chia ra các
khái niệm Hán - Việt, cổ Hán - Việt / Hán - Việt cổ / tiền Hán - Việt, Hán Việt Việt Hóa v.vv... Muốn hiểu rõ về “âm Hán - Việt” thì việc đầu tiêu là phải
biết được một số khái niệm liên quan và năm bắt được những nội dung của
cách hiểu CÁCH ĐỌC HÁN - VIỆT hoặc ÂM HÁN - VIỆT. Dưới đây tôi xin

được trình bày một số nội dung và kiến thức mà tôi đã tìm hiểu và biết đến, cụ
thể như sau:
1.2.1. Về các khái niệm: gốc Hán, Hán - Việt, cổ Hán - Việt / Hán - Việt cổ /
tiền Hán - Việt, Hán - Việt Việt Hóa, Hán phương ngữ.
Về các khái niệm này đã được nhiều người đi trước đưa ra và được nhiều
người giới học công nhận, ở đây tôi xin được trích dẫn các định nghĩa do các bậc
đi trước đã đưa ra dùng để phân biệt các khái niệm có liên quan màkhác nhau.

19


① gốc Hán:Từ gốc Hán làthuật ngữ dùng để chỉ toàn bộ những đơn vị
màvới kiểu thức từ nguyên học ta cóthể tìm thấy mối dây liên hệ với những
đơn vị tương ứng có một bộ phận chưa được Việt hóa, tức chưa có dấu hiệu

nh thức của sự Việt hóa. [14, tr.93]
② Hán - Việt: Từ Hán Việt là những từ có cách đọc Hán - Việt được
nhập vào và được sử dụng trong tiếng Việt. [14, tr.123]
Từ Hán Việt là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn
hai, khi người Việt học tiếng Hán theo âm chuẩn đời Đường (âm Trường An)
và chuyển cách đọc theo hệ thống ngữ âm của mình. Cách đọc ấy gọi là cách
đọc Hán - Việt và được duy trì (với những biến đổi ít nhiều) cho đến ngày nay.
Thí dụ đó là những từ như: trà, mã, trọng, khinh, vượng, cận, nam, nữ, ... Như
vậy, từ Hán Việt là những từ gốc Hán mà những yếu tố hình thành nên chúng
có cách đọc theo âm Hán - Việt. [6, tr.12-13]
③ cổ Hán - Việt/Hán - Việt cổ/tiền Hán - Việt: Từ Hán – Việt cổ là
cách đọc được vay mượn qua nhiều đợt khác nhau, xa nhất là vào thời Tây
Hán và muộn nhất là trước thế kỷ thứ VIII. [7, tr.147-148]
Từ Hán Việt cổ là những từ gốc Hán được du nhập vào tiếng Việt trong
giai đoạn trước thời kì nhà Đường. Vì đi vào tiếng Việt đã lâu và được vay

mượn theo yêu cầu bổ sung những từ ngữ chưa có trong tiếng Việt, những từ
ấy đã được đồng hóa rất mạnh, nhất là về mặt sử dụng. [6, tr.12]
④ Hán - Việt Việt Hóa: Hán - Việt Việt hóa thường là những từ Hán –
Việt, sau khi nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt do chịu tác động của những
quy luật ngữ âm tiếng Việt đã biến đổi theo ngữ âm lịch sử tiếng Việt. [7, tr.148]
Hán - Việt Việt hóa được hình dung là có những từ Hán Việt được người
Việt đọc theo cách của mình. [6, tr.13]

20


×