Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

THỰC TRẠNG THANH TOÁN ĐIỆN TỬ LIÊN NGÂN HÀNG CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.62 KB, 30 trang )

THỰC TRẠNG THANH TOÁN ĐIỆN TỬ LIÊN NGÂN HÀNG CỦA NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM.
2.1. Khái quát về hệ thống thanh toán của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Ngân hàng Công thương Việt Nam là một NHTM Nhà nước lớn tại Việt Nam,
được thành lập trong bối cảnh đất nước chuyển đổi từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước từ tháng
7/1988 trên cơ sở tách ra từ hệ thống NHNN Việt Nam. Sau đó Ngân hàng Công thương
Việt Nam (NHCTVN) được thành lập theo quyết định số 402/QĐ ngày 14/11/1990 của
Chủ tịch HĐBT; Quyết định số 67/QĐ-NH2 ngày 27/3/1993, Quyết định số 285/QĐ-
NH ngày 21/9/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Sự đổi mới cơ bản của hệ thống Ngân hàng Việt Nam được tổ chức thực hiện
theo mô hình hai cấp và thể hiện rõ qua việc thực hiện hai luật Ngân hàng Nhà nước và
Luật các tổ chức tín dụng.
Trên cơ sở đó, Ngân hàng nhà nước đã triển khai ba hệ thống thanh toán chính
trong ngân hàng: Đó là hệ thống thanh toán nội bộ trong từng ngân hàng, hệ thống
thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng qua ngân hàng Ngà nước và hệ thống thanh toán
qua tài khoản tiền gửi của các NHTM tại ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra còn phương
thức thanh toán song phương giữa hai ngân hàng với nhau.
Hệ thống thanh toán của NHCTVN
NHCTVN
Thanh toán trong hệ thống
Thanh toán ra ngoài hệ thống
Thanh toán ra ngoài lãnh thổ Việt Nam
TT
VNĐ (EPS)
TT ngoại tệ (IBS)
TT
song biên EEPS
TT
điện tử LNH IBPS
TT


bù trừ
TT qua tiền gửi tại NHNN
TT
quốc tế qua SWIFT
TT
quốc tế qua TELEX
2.2. Cơ cấu tổ chức và kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT tại Việt Nam.
2.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy.
Để đáp ứng được nhu cầu phát triển ngày càng nhanh của xã hội, cơ cấu tổ chức
bộ máy của NHCT cần bao gồm 11 phòng cụ thể: Phòng kế toán giao dịch, Phòng tài
trợ thương mại, Phòng khách hàng số 1, Phòng khách hàng số 2, Khách hàng các nhân,
Thông tin điện toán, Phòng tổ chức hành chính, Phòng tiền tệ kho quỹ, Phòng kiểm tra
nội bộ, Phòng tổng hợp tiếp thị, Phòng kế toán tài chính.
Chức năng của các phòng như sau:
Phòng kế toán giao dịch: Là phòng nghiệp vụ thực hiện các chức năng giao dịch
trực tiếp với khách hàng, cung cấp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh
toán, xử lý hạch toán các giao dịch theo quy định của nhà nước và của NHCTVN. Quản
lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt đến
từng giao dịch viên, thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản
phẩm của ngân hàng.
Phòng tài trợ thương mại: Là phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện nghiệp vụ về
tài trợ thương mại tại các chi nhánh theo quy định của NHCTVN.
Phòng khách hàng số 1: Nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các
Doanh nghiệp lớn, để khai thác vốn bằng VND & ngoại tệ. Xử lý các nghiệp vụ liên
quan đến cho vay, quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành
và hướng dẫn của NHCT.
Phòng khách hàng số 2: Nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, để khai thác vốn bằng VND & ngoại tệ. Xử lý các nghiệp vụ
liên quan đến cho vay, quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện
hành và hướng dẫn của NHCT.

Phòng khách hàng cá nhân:Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách
hàng là các cá nhân để huy động vốn bằng VND & ngoại tệ. Xử lý các nghiệp vụ liên
quan đến cho vay, quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành
của NHNN và hướng dẫn của NHCT. Quản lý hoạt động của các Quỹ tiết kiệm, Điểm
giao dịch.
Phòng thông tin điện toán: Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông
tin điện toán tại chi nhánh. Bảo trì, bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động
của hệ thống mạng, máy tính của ngân hàng.
Phòng tổ chức hành chính: Là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán
bộ và đào tạo tại ngân hàng theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định
của NHCT. Thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại
chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh toàn ngân hàng.
Phòng tiền tệ kho quỹ: Nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt
theo quy định của NHNN và của NHCT. Ứng và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm, các
điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu, chi
tiền mặt lớn.
Phòng kiểm tra nội bộ: Là phòng nghiệp vụ có chức năng giúp giám đốc giám
sát, kiểm tra, kiểm toán các mặt hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm đảm bảo
theo đúng pháp luật của nhà nước và cơ chế quản lý của ngành.
Phòng tổng hợp tiếp thị: Là phòng nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc chi dự
kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình hoạt động kinh
doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của ngân hàng.
Phòng kế toán tài chính: Là phòng nghiệp vụ giúp cho Giám đốc thực hiện công
tác tài chính và thực hiện nhiệm vụ chi tiêu nội bộ ngân hàng theo đúng qui định của
Nhà nước và của NHCT.
2.2.2. Hoạt động kinh doanh của NHCT tại Việt Nam trong những năm gần đây.
a) Về hoạt động huy động vốn.
Công tác HĐV luôn là một nhiệm vụ tiên quyết trong hoạt động kinh doanh của
NH. Muốn mở rộng hoạt động tín dụng của mình thì NH cần phải mở rộng hoạt động
HĐV. Bởi vì hoạt động của NH là “đi vay để cho vay” do đó công tác HĐV của mỗi

NH là hoạt động cơ bản để đánh giá hiệu quả của các chính sách HĐV, cơ cấu HĐV của
mỗi NH, bất kỳ NH nào cũng chú trọng đến hoạt động này. Nói cách khác, vốn là
phương tiện quyết định năng lực kinh doanh, năng lực tài chính, sự nỗ lực của NH và
vốn là hoạt động cơ bản để đánh giá hiệu quả kinh doanh cũng như uy tín của NH trên
thị trường. Ngoài ra, vốn không những là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng
kinh doanh của NH.
Nhận thức được điều đó, NHCT đã có nhiều cố gắng trong công việc khơi nguồn
vốn huy động. Đây là một trong những công tác chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao
hiệu quả hoạt động của NH.
Một mặt, NH thu hút được nguồn vốn tạm thời nhà rỗi trong dân cư tạo thu nhập
cho họ, mặt khác lại ổn định mở rộng quy mô tín dụng. Và để có đủ nguồn vốn đáp ứng
nhu cầu mở rộng hoạt động đầu tư, cho vay, NH đã thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn
bằng việc đa dạng hoá các hình thức và biện pháp HĐV từ mọi nguồn trong và ngoài
nước. NH đặc biệt chú trọng tăng tỷ trọng vốn trung và dài hạn thông qua việc phát
HĐV kỳ phiếu, trái phiếu tăng tiền gửi và tiền tiết kiệm dài hạn trong dân cư.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của NHCT
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
I. Huy động vốn
Trong đó: - VNĐ
- Ngoại tệ
3043
2533
510
100
83,24
16,76
3423
2900
523

100
84,72
15,28
4052
3242
810
100
80,01
19.99
1. TG của TCKT 1400 46,00 1700 50,34 2154 53,16
2. TG của Dân cư
Trong đó: - TGTK
- TG kỳ phiếu
1643
1443
200
54,00
47,40
6,6
1723
1550
173
49,66
45,28
4,38
1898
1612
286
46,84
39,78

7,06
(Nguồn: Số liệu phòng tổng hợp)
Qua bảng trên ta thấy nguồn vốn huy động liên tục tăng trong ba năm,
năm sau cao hơn năm trước.
Năm 2004 tổng nguồn vốn huy động bao gồm cả VNĐ và Ngoại tệ quy
đổi VNĐ đạt đến 3043 tỷ đồng.
Năm 2005 tổng nguồn vốn huy động bao gồm cả VNĐ và Ngoại tệ quy
đổi VNĐ đến 31/12/2005 đạt 3423 tỷ đồng, tăng 380 tỷ đồng so với năm
31/12/2004, tốc độ tăng 12,49%.
Năm 2006 tổng nguồn vốn huy động bao gồm cả VNĐ và Ngoại tệ quy
đổi VNĐ đến 31/12/2006 đạt 4052 tỷ đồng, tăng 629 tỷ đồng so với năm 2005,
tốc độ tăng 18,38%.
Trong đó:
- Vốn huy động bằng VNĐ năm 2004 đạt 2533 tỷ đồng chiếm tỷ trọng
83,24% tổng nguồn vốn huy động. Năm 2005 đạt 2900 tỷ đồng chiếm tỷ trọng
84,72% tổng nguồn vốn huy động, tăng 367 tỷ đồng so với năm 2004. Năm
2006 đạt 3242 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 80,01% tổng nguồn vốn huy động, tăng
342 tỷ đồng so với năm 2005.
- Vốn huy động bằng Ngoại tệ năm 2004 đạt 510 tỷ đồng chiếm tỷ trọng
16,76% tổng nguồn vốn huy động. Năm 2005 đạt 523 tỷ đồng chiếm tỷ trọng
15,28% tổng nguồn vốn huy động, tăng 13 tỷ đồng so năm 2004. Năm 2006 đạt
810 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 19,99% tổng nguồn vốn huy động, tăng 287 tỷ đồng
so với năm 2005.
NHCT luôn đổi mới, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn kết hợp với áp
dụng linh hoạt các công cụ lãi suất để thu hút nguồn tiền gửi từ các tầng lớp dân cư, từ
doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Đồng thời không ngừng
áp dụng công nghệ hiện đại vào công tác thanh toán, giao dịch tiền gửi tiết kiệm.
Đạt được kết quả trên, NHCT đặc biệt chú trọng đổi mới về phong cách phục vụ
khách hàng, quan tâm chăm sóc khách hàng có nguồn tiền gửi lớn, chủ động phục vụ
khách hàng tại đơn vị nhất là các đơn vị cá nhân có doanh số hoạt động lớn.

Đẩy mạng hoạt động quảng cáo, tuyên truyền, kết hợp với các hình thức khuyến
mãi nhằm vào mục tiêu huy động vốn, đặc biệt là trong các đợt phát hành kỳ phiếu,
chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm dự thưởng…nên đã thu hút được khách hàng gửi tiền. Chủ
động tiếp cận các đơn vị thuộc các tổ chức chính trị -xã hội, các tổ chức đoàn thể, các tổ
chức tài chính phi Ngân hàng có nguồn thu để thu hút vốn.
b) Đầu tư cho vay nền kinh tế.
Các NH đều hoạt động dựa trên nguyên tắc đi vay để cho vay do vậy các NHTM
nói chung và NHCT nói riêng không những chú trọng đến công tác huy động vốn mà
còn đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng vốn, đặc biệt là công tác tín dụng. Nguồn vốn
huy động được cần phải được lưu thông mới sinh ra lợi nhuận cho NH, đồng thời thực
hiện nhiệm vụ cung ứng vốn cho nền kinh tế nên thông qua hoạt động đầu tư, cho vay
NH cung ứng vốn ra thị trường.
Công tác tín dụng của NHCT ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực. Năm
2002, dư nợ đạt 1670 tỷ đồng, trong đó nợ quá hạn chiếm 0,6% tổng dư nợ cho thấy sự
phối hợp hoạt động giữa các phòng ban, các cá nhân chưa có độ ăn khớp nhịp nhàng
nên kết quả vừa không đạt kế hoạch vừa không tương xứng với tiềm năng của NH, cho
đến năm 2003 dư nợ của NHCT tăng lên là 2042 tỷ đồng, trong đó nợ quá hạn chiếm
0,48% tổng dư nợ, năm 2004 tổng dư nợ đạt 2150, trong đó nợ quá hạn chiếm 0,6%
tổng dư nợ.
Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn tại NHCT
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Chỉ tiêu
Số
tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số
tiền

Tỷ
trọng
(%)
Số
tiền
Tỷ
trọng
(%)
1. Phân theo loại cho vay
- Dư nợ ngắn hạn 1250 58,14 1752 66,19 1627 61,28
- Dư nợ dài hạn 900 41,86 895 33,81 1028 38,72
2. Phân theo thành phần kinh tế
- Dư nợ quốc doanh 1800 83,72 1829 69,10 2105 79,28
- Dư nợ ngoài quốc doanh 350 16,28 818 30,90 550 20,72
3. Nợ quá hạn 10 0,6 8 0,48 10 0,6
Cộng 2150 100 2647 100 2655 100
(Nguồn số liệu phòng tổng hợp)
Qua bảng chỉ tiêu phân theo thành phần kinh tế cho thấy dư nợ cho vay
đối với doanh nghiệp quốc doanh là tương đối ổn định, tăng nhanh qua các năm.
Năm 2004 dơ nợ cho vay đối với doanh nghiệp quốc doanh là 1800 tỷ đồng,
năm 2005 là 1829 tỷ đồng, tăng hơn so với năm 2004 là 29 tỷ đồng, năm 2006
là 2105 tỷ đồng tăng 276 tỷ đồng so với năm 2005. Bên cạnh công tác đầu tư
vốn cho các doanh nghiệp quốc doanh thì các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh cũng được NHCT quan tâm, đầu tư phát triển theo định hướng chính sách
của Đảng và Nhà nước. Nhưng việc cho vay này là không ổn định. Năm 2004
dư nợ là 350 tỷ đồng chiếm 16,28% tổng dư nợ, đến năm 2005 lên tới 818 tỷ
đồng chiếm 30,90% tổng dư nợ, nhưng đến năm 2006 thì tổng dư nợ giảm
xuống chỉ còn 550 tỷ đồng chiếm 20,72% tổng dư nợ. NHCT cần quan tâm hơn
nữa đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Hoạt động tín dụng của NHCT đã có sự chuyển biến tích cực về chất, mức độ

tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng quản lý và giám sát, cho vay thận trọng,
không chạy theo số lượng mà hướng tới một cơ cấu tín dụng cân đối, hợp lý. Chủ động
rút dần dư nợ đối với doanh nghiệp yếu kém.
Vốn tín dụng đã được đầu tư có hiệu quả vào các doanh nghiệp, kinh doanh các
ngành hàng lương thực thực phẩm, dược phẩm, hoá chất, ngành công nghệ truyền hình,
bưu chính viễn thông, điện lực và dịch vụ giao thông vận tải. Cơ cấu khách hàng cũng
từng bước được thay đổi, khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa; khách hàng tư nhân
tăng lên rõ rệt, làm cho cơ cấu tín dụng bền vững hơn.
2.3. Thực trạng thanh toán điện tử tại NHCT Việt Nam.
2.3.1. Hệ thống thanh toán điện tử VND
Hệ thống thanh toán điện tử VND (gọi tắt là EPS) là chương trình ứng dụng thực
hiện các dịch vụ chuyển tiền điện tử VND cho khách hàng trong toàn hệ thống, được
đưa vào sử dụng trong lĩnh vực thanh toán chuyển tiền điện tử đầu tiên trong hệ thống
NHTM quốc doanh ở Việt Nam. Nó được nghiên cứu và xây dựng từ những năm 1994,
1995 và chính thức đưa vào triển khai trong toàn hệ thống NHCTVN từ 01/7/1996. Hệ
thống EPS thực chất là việc thanh toán liên hàng điện tử được tổ chức thực hiện trong
nội bộ hệ thống NHCTVN giữa các chi nhánh ngân hàng tỉnh, thành phố, sở giao dịch,
quận, huyện, thị xã, khu vực trực thuộc hệ thống.
Khi mới triển khai, mỗi ngày chỉ có 2-300 chứng từ với 92 đơn vị tham gia, đến
năm 2003 mỗi ngày chứng từ đã lên tới 5-7 nghìn, có ngày cao điểm lên tới 10-12 nghìn
với 120 đơn vị tham gia. Do đó, thường xuyên xẩy ra tình trạng quá tải hệ thống, nhất là
vào giờ cao điểm (từ 14h30 đến 15h30) và những tháng cuối năm dữ liệu đầy, máy chủ
thường xuyên bị trục trặc không hoạt động được, tốc độ xử lý còn chậm.
Trước những vấn đề bất cập trên, Ban lãnh đạo NHCTVN đã quyết định thực
hiện đổi mới, xây dựng lại hệ thống EPS bằng nội lực của các cán bộ kỹ thuật và nghiệp
vụ NHCTVN trên cơ sở những trang thiết bị, cơ sở vật chất hiện có nhằm nâng cao tính
an toàn, bảo mật của hệ thống, tăng nhanh tốc độ xử lý giao dịch, mở rộng phạm vi
thanh toán, tích hợp với các hệ thống khác và phát triển theo xu hướng hiện đại hoá
ngân hàng và hệ thống thanh toán. Sau gần một năm tập trung xây dựng, hệ thống đã
được triển khai chính thức từ 01/01/2004.

Hệ thống EPS được xây dựng theo mô hình kiểm soát tập trung, đối chiếu tập
trung. Các chuyển tiền Đi - Đến được tổ chức kiểm soát và đối chiếu tập trung tại Trung
tâm thanh toán (TTTT). Tức là mọi nghiệp vụ thanh toán phát sinh từ ngân hàng phát
lệnh và kết thúc tại ngân hàng nhận lệnh đều được hạch toán tập trung tại TTTT. TTTT
mở đầy đủ các tài khoản điều chuyển vốn cho từng chi nhánh để hạch toán, đối chiếu và
quản lý nguồn vốn trong thanh toán đối với từng chi nhánh. Hàng ngày, các giao dịch
chuyển tiền của Đi từ Ngân hàng phát lệnh được chấm dứt theo thời gian quy định đồng
thời phải nhận hết chứng từ từ TTTT về, sau đó thực hiện tạo file đối chiếu bao gồm
toàn bộ các chứng từ đã chuyển đi và nhận về với TTTT trong ngày để đối chiếu theo
từng chứng từ với TTTT. Nếu khớp đúng mới được kết thúc ngày làm việc.
Có thể nói, năm 1996 công cuộc đổi mới kỹ thuật của NHCTVN đã dẫn đến sự
thay đổi quan trọng trong phong cách làm việc văn minh công nghệ trong ngân hàng.
Chỉ sau 6 tháng (tính đến ngày 31/12/1996) 92 chi nhánh NHCTVN đã được thực hiện
thống nhất với sự chỉ đạo của NHCTVN, đã chuyển về TTTT 398.682 chứng từ đi và
đến, 398 thông điện báo, 600 điện tra soát và 100 tập tin đối chiếu nhanh với doanh số
thanh toán là 96.043 tỷ VNĐ, tất cả đều thông suốt và an toàn. Năm 1997 tổng số
chứng từ đi và đến là: 984.148, số tiền là: 224.278 tỷ đồng. Năm 2003 tổng số chứng từ
đi và đến là: 1.758.630 tăng 179% so với năm 1997, số tiền là: 661.988 tỷ tăng 295% so
với năm 1997. Những năm sau đều tăng 30-40% so với năm trước. Thể hiện qua biểu
sau:
Bảng 4: Kết quả thực hiện hệ thống TTĐT từ năm 2004-2006
Đơn vị: tỷ đồng
Số
TT
Chỉ tiêu
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Số món Số tiền Số món Số tiền Số món Số tiền
1
Uỷ nhiệm chi 673.404 141.249 827.903 191.412 906.093 290.639
2

Uỷ nhiệm thu 32.173 638 34.164 660 34.316 723
3
Séc 14.912 1.698 13.276 1.541 9.728 1.565
4
Ch. tiền nội bộ 38.310 41.273 52.024 67.450 63.327 75.308
5
Giấy nộp tiền 269.947 10.302 334.633 13.957 392.031 17.567
6
Lệnh ĐHV 2.793 42.269 2.696 41.607 2.365 7.436
7
Chuyển vốn ĐH 4.957 49.385 5.765 54.561 5.421 1.025
8
C T về KHNN 10.846 9.013 14.541 2.845 13.640 2.427
Tổng cộng 1.047.342 295.828 1.285.002 374.043 1.426.921 396.690
Nguồn: Trung tâm thanh toán Ngân hàng Công thương Việt Nam
Qua bảng trên cho thấy tốc độ phát triển thanh toán của NHCTVN ngày càng
tăng trưởng cả về số món cũng như số tiền, đặc biệt Uỷ nhiệm chi chuyển tiền chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng phương tiện thanh toán (72%). Điều đó phản ánh phần nào tính ưu
việt thanh toán điện tử của NHCT.
Qua biểu trên nhận thấy việc triển khai chương trình thanh toán điện tử của
NHCTVN không chỉ nâng cao uy tín đối với khách hàng mà còn nâng cao vị thế của
NHCTVN, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán. Đồng thời là tiền đề cho việc mở rộng
mạng lưới thanh toán ra ngoài hệ thống dẫn đường cho các Ngân hàng thương mại mở
tài khoản lẫn nhau để thực hiện thanh toán thu chi hộ. Việc mở rộng thanh toán song
phương với các ngân hàng khác của NHCT mang ý nghĩa lớn ở đây đó là tạo được
nguồn vốn lớn trong thanh toán góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh
doanh của NHCT.
Hệ thống EPS mới xây dựng mô hình tổ chức đối chiếu theo 2 phương thức:
- Đối chiếu tức thời từng chứng từ, đối chiếu hai chiều (bên truyền và bên nhận)
đảm bảo các bên cùng giám sát quá trình đối chiếu. Hệ thống tổ chức đối chiếu liên tục

24/24h.
- Đối chiếu tập trung theo kỳ để đảm bảo sự chính xác về số liệu hạch toán giữa
các bên tham gia.
Sơ đồ 1: Mô hình tổng thể hệ thống chuyển tiền điện tử NHCTVN
Trung tâm thanh toán NHCTVN
Chi nhánh NHCT A
Chi nhánh NHCT B
PGD, QTK 01
PGD 02
PGD 01
PGD 02
EEPS
,…
,…
IBPS
,…
,…

Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức hạch toán
Sơ đồ 3: Sơ đồ xử lý chứng từ đi tại NHPL từ chứng từ giấy
Khách hàng
Kế toán viên
Nhập chứng từ vào KTGD
thành chứng từ TTĐT
Kiểm soát
- K/Soát nghiệp vụ
- Ấn định bút toán
- Chữ ký điện tử
Truyền số liệu về trung tâm thanh toán
- In bảng thống kê, bảng đối chiếu.

- In phục hồi chứng từ khi cần thiết
No
Yes
No
Yes
Sơ đồ 3 cho thấy quy trình luân chuyển chứng từ đã được bỏ bớt qua các khâu
trung gian, chứng từ chuyển tiền điện tử được tiếp nhận và xử lý trực tiếp từ các giao
dịch viên sau đó chuyển tiếp đến cho các kiểm soát viên.
Kiểm soát viên thực hiện kiểm soát, kiểm soát viên phải nhập lại một số yếu tố
cần thiết để đảm bảo sự chính xác giữa chứng từ gốc với chứng từ điện tử trên máy
tính. Nếu khớp đúng, chấp nhận ghi ký hiệu mật, chương trình tự động chuyển đi. Ở
đây các chứng từ điện tử không cần thiết phải in ra lưu cùng chứng từ gốc.
Quá trình lập và kiểm soát chứng từ điện tử mới đã có bước đổi mới. Khi lập
chứng từ, mọi chuyển tiền đều được tiếp nhận và xử lý từ các giao dịch viên, giao dịch
viên không phải gõ tên khách hàng trong trường hợp chuyển tiền từ tài khoản nên tránh
được sai sót, nhầm lẫn và giảm thời gian lập chứng từ tăng năng suất lao động; chương
trình tự động kiểm tra được số dư khách hàng tạo khả năng an toàn trong thanh toán;
giao dịch viên được chủ động trong việc thanh toán, thời gian làm việc. Quy trình lập,
kiểm soát, luân chuyển chứng từ được tổ chức khoa học, chặt chẽ, chứng từ được rải
đều cho các thanh toán viên, khắc phục được tình trạng dồn tắc, ứ đọng chứng từ; tính
nhất quán, bảo mật chứng từ được nâng cao; chứng từ được tự động chuyển đi một
cách nhanh chóng, giảm thiểu thời gian chuyển tiền của khách hàng.
Sơ đồ 4: Sơ đồ xử lý chứng từ đi tại NHPL từ chứng từ điện tử
Sơ đồ 5: Sơ đồ xử lý chứng từ đến tại trung tâm thanh toán

×