Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Thơ Thanh quan nữ sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.73 KB, 9 trang )

Thanh Quan Nữ Sĩ
VietShare.com sưu tầm
Còn được gọi là Bà Huyện Thanh Quan, là một nữ sĩ thời Nguyễn Sơ. Về tiểu sử
của nữ sĩ không được đầy đủ lắm. Người ta chỉ biết bà là ái nữ của một vị danh
Nho, sinh quán tại làng Nghi Tàm, huyện Thọ Xương (nay là huyện Hoàn Long
tỉnh Hà Ðông). Bà lập gia đình với ông Lưu Nghị, tự là Lưu Nguyên Uẩn, người
làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông, đỗ Cử Nhân khoa Tân Tỵ,
năm Minh Mạng thứ II (1821), được bổ làm Tri Huyện Thanh Quan (hiện nay là
Phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình). Do đó, nữ sĩ được gọi là Bà Huyện Thanh
Quan hay Bà Thanh Quan.
Trong Nam Thi Hợp Tuyển của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc có nói về người
chồng của nữ sĩ như sau:
"
Chồng bà là ông Lưu Nguyên Uẩn, sinh năm 1804, đậu Tú Tài năm 1825, đậu
Cử Nhân năm 1828, và được bổ làm Tri Huyện Thanh Quan. Sau đó ông Huyện
Thanh Quan vì can án phải giáng chứùc, cử làm Bát Phẩm Thư Lại Bộ Hình. Về
sau lại được thăng lên chức Viên Ngoại Thị Lang.
"
Thanh Quan Nữ Sĩ rất say mê cái thú văn chương, và bà xem đó là một thú tiêu
khiển thanh cao nhất. Trong câu đối dán trong dịp Tết Nguyên Ðán, bà đã hạ
bút:
Duyên với văn chương nên dán chữ,
Nợ cùng trời đất phải trồng nêu.
Nói về nữ sĩ, có nhiều giai thoại văn chương rất lý thú. Nhân một hôm ông
Huyện đi vắng, có một người đàn bà còn trẻ, tên là Nguyễn Thị Ðào đến trước
cửa công kiện người chồng phụ bạc, phế bỏ việc gia đình, hất hủi vợ nhà, và yêu
cầu quan trên cho mình được ly dị với chồng. Nhận thấy lời lẽ lá đơn, lời lẽ rất
cảm động, thương cho người thiếu phụ chịu lỡ dở cuộc duyên tình, phí bỏ cả
ngày xanh trong cảnh cô đơn, bà Huyện liền quên cả luật pháp, vội phê vào lá
đơn của Nguyễn Thị Ðào bốn câu thơ:
Phó cho con Nguyễn Thị Ðào,


Nước trong leo lẻo, cắm sào đợi ai?
Chữ rằng: Xuân bất tái lai,
Cho về kiếm chút, chẳng mai nữa già.
Do việc làm của bà vợ mà ông Huyện Thanh Quan bị quan trên quở trách.
Nhưng sau đó chẳng bao lâu, ông Huyện lại được thăng chức và thuyên chuyển
về bộ Hình, làm chức Lang Trung. Nhờ có tài văn chương lỗi lạc, Bà Huyện
Thanh Quan được vua Tự Ðức truyền vào cung, phong chức Cung Trung Giáo
Tập để dạy các cung nhân học. Trọng tài học của bà, vua Tự Ðức có ban cho bà
được đề thơ vào một cái chén cổ, có bức họa sơn thủy. Bà đã ứng khẩu đọc hai
câu thơ sau đây:
In như thảo mộc trời Nam lại,
Ðem cả sơn hà đất Bắc sang.
Vua Tự Ðức vốn thích văn chương nên thường ban thơ cho bà họa lại, bà họa
rất tài tình, nên được vua quý trọng.
Về những tác phẩm bằng chữ Nôm của Thanh Quan Nữ Sĩ, hiện nay chỉ còn
truyền tụng những bài thơ theo thể Thơ Nôm Ðường Luật như sau:
1. Qua Ðèo Ngang
2. Thăng Long Thành Hoài Cổ
3. Chùa Trấn Quốc
4. Nhớ Nhà
5. Chiều Hôm Nhớ Nhà
6. Cảnh Thu
7. Cảnh Ðền Trấn Võ
Về bài Chùa Trấn Bắc, có nhiều người cho rằng Hồ Xuân Hương là tác giả.
Nhưng xét kỹ, ta thấy lời lẽ và giọng điệu phù hợp với Thanh Quan Nữ Sĩ hơn.
Phần quan trọng trong văn thơ của Thanh Quan Nữ Sĩ là phần hoài cổ tiếc
thương cái quá khứ vàng son của tiền triều. Sinh trưởng vào buổi Lê Mạt và
Nguyễn Sơ, bà đã chứng kiến bao cảnh thay ngôi, đổi vị, chiến tranh giết chóc
đã gieo bao cảnh tang thương dâu bể. Sự ươn hèn của con cháu nhà Hậu Lê,
vua Lê Chiêu Thống, toan rước voi về dầy mả tổ rồi đến cảnh chém giết của

nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn, gây bao tang tóc hãi hùng cho muôn dân, cam
chịu sống trong cảnh lầm than, khốn khổ. Bà Huyện Thanh Quan cũng như thi
hào Nguyễn Du muốn dùng văn thơ để diễn tả những điều trông thấy mà
đau đớn lòng. Vốn là phận nữ nhi, Nữ Sĩ không thể viết lên những bài thơ nuối
tiếc nhà Lê như một di thần nhưng Bà chỉ muốn nói lên lòng thiết tha tiếc
thương cho cái thời rực rỡ xa xưa bị vùi chôn vì loạn ly khói lửa.
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà, (1)
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, rợ (2) mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Qua Ðèo Ngang
(1) Có bản chép là: Qua cảnh đèo Ngang bóng xế tà.
(2) Có bản chép là:Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Nhiều người cho rằng Bà Huyện Thanh Quan không dùng tiếng chợ vì:
[- Ðối với một người tài hoa, xuất khẩu thành thi, không thể dùng cái chợ để
đối với chú tiểu. Vì cảnh vật đối với con người không hợp lý.]
[- Những tiếng tiều vài chú, không thể xứng hợp với chợ mấy nhà. ]
[- Người ta có thể nói: "vài chú tiều", nhưng không thể nói: "mấy nhà chợ." Vì
những lẽ trên, có một vài người cho rằng Bà Huyện Thanh Quan đã dùng
chữ chử, nghĩa là "bãi sông"; để ngụ ý nói nhà của những người ngư phủ. Tuy
nhiên, chữ chử, theo như nghĩa Chử Ðồng Tử trong truyện cổ tích Việt Nam có
nghĩa là: "cậu bé ở bãi sông", không thể dịch là "người đánh cá" được.]
Có thuyết cho rằng Thanh Quan Nữ Sĩ đã dùng chữ rợ, nhưng vì lâu ngày truyền
khẩu tam sao thất bổn, nên đọc trại ra là chợ. Vả lại, chữ rợ còn dùng để ám
chỉ dân tộc thiểu số ở miền sơn cước, cũng như người Trung Hoa gọi dân tộc ở
phương Bắc là rợ Hồ. Câu "Lác đác bên sông rợ mấy nhà", có nghĩa là: "Một vài

gian nhà của đồng bào thiểu số cất rải rác bên kia bờ sông."
Tuy chưa có gì chính xác về bằng chứng, và còn phải chờ công việc làm
của Hàn Lâm Viện Việt Nam trong việc hiệu đính những sai lầm về văn học,
nhưng nhận thấy chữ rợ có phần xác đáng, chúng tôi tạm theo thuyết cuối cùng
và dùng tiếng rợ như trên.
Về những chữ con quốc quốc, cái gia gia, nhiều người phê bình cho rằng Bà
Huyện Thanh Quan đã dùng chữ quá gượng ép, vì gọi con chim cuốc là quốc
quốc và chim đa đa là gia gia. Nhưng trong đường thi cũng có câu nói đến
những chữ quốc quốc, gia gia mà có gì là gượng ép đâu:
1. Ðỗ Vũ than đầu minh quốc quốc,
Giá cô giang thượng khiếu gia gia.
Nghĩa là:
Ở đầu ghềnh chim cuốc kêu quốc quốc,
Trên mặt sông gà gô gọi gia gia.
2. Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc,
Nhật giăng cô điểu hoán gia gia.
Nghĩa là:
Ðêm nghe chim cuốc kêu quốc quốc,
Ngày nghe gà gô gọi gia gia.
Di thần nhà Lê là Trần Danh Án cũng đã dùng 2 tiếng quốc, gia trong những lời
văn thống thiết để diễn tả tâm sự của kẻ bề tôi trước cảnh non nước suy vong:
Giá cô minh gia gia,
Ðỗ quyên minh quốc quốc.
Vi cầm thượng hữu quốc gia thanh,
Cô thần đối thử tình nan cực.
Nghĩa là:
Gà gô kêu gia gia,
Chim cuốc kêu quốc quốc.
Loài chim nhỏ cũng có tiếng kêu quốc gia,
Kẻ bề tôi, đối với tình cảnh ấy, đau lòng khôn xiết.

Trong bài Thăng Long Thành Hoài Cổ, nữ sĩ đã nói lòng tiếc thương khôn
nguôi những dĩ vãng oai hùng, những thời vàng son thuở trước. Giờ đây, chiến
tranh loạn lạc, bao cảnh đổi dời chỉ còn lại những đổ nát, điêu tàn:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường?
Ðến nay thấm thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu dài bóng tịch dương.
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Thăng Long Thành Hoài Cổ
Nỗi cảm hoài của người nữ sĩ khi viếng lại một khu di tích lịch sử thật nồng nàn
tha thiết. Trách tạo hóa bày ra trò bể dâu tang thương, để cho kẻ nặng tình dĩ
vãng cảm thấy chua xót. Bức họa trong bài thơ trên đây thật là tiêu điều buồn
bã. Những lối đi rộn rịp ngày xưa, nay chỉ còn ngọn cỏ run rẩy trước làn gió thu
hiu hắt thổi qua. Nền vàng điện ngọc nguy nga thuở trước, giờ chỉ còn le lói ánh
mặt trời chiều ngả bóng. Ðá kia nếu đã dãi dầu sương tuyết, chống chọi với sự
tàn phá của thời gian, thì lòng người nữ sĩ nặng tình non nước cũng vẫn không
bao giờ thay đổi. Lòng người đau xót trước cảnh phế hưng, có khác gì mặt nước
hồ kia cũng cau lại vì sự đổi dời của loạn ly. Trầm mặc trước cảnh trí thiên
nhiên, nhìn cỏ cây mây nước, nữ sĩ Thanh Quan đã thấy những bóng hình của
thời đại cũ như còn phảng phất đâu đây. Nỗi buồn tịch liêu của người nữ sĩ trầm
lặng, dường như không muốn phá tan cái giây phút thiêng liêng, cái giây phút
cảm thông giữa người và vạn vật trong trầm mặc suy tư.
Nữ sĩ Thanh Quan cũng thấy lòng mình nao nao buồn trong khi đi viếng cảnh
chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây, nơi mà ngày xưa các vua nhà Lê thường ngự ra để
hóng mát. Người xưa, cảnh cũ đã gợi lên bao niềm luyến tiếc sâu xa:
Trấn Quốc hành cung cỏ dãi dầu,
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau.

Một tòa sen tỏa mùi hương ngự, (1)
Năm thức mây phong nếp áo châu. (2)
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau. (3)
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá? (4)
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.
Chùa Trấn Quốc
Có bản chép là:
(1) Mấy tòa sen rớt nơi hương ngự.
(2) Năm thức mây phong lớp áo chầu.
(3) Chuông hồi kim cổ lắng mà mau.
(4) Người xưa cảnh cũ đâu đâu tá?
Vốn là một trang nữ lưu tài sắc, Thanh Quan Nữ Sĩ, cũng như hầu hết các thi
nhân kim cổ, bên cạnh tấm lòng trĩu nặng với quê hương tổ quốc, nữ sĩ còn
mang một nguồn tình cảm rạt rào, một tấm lòng tha thiết của một mái ấm gia
đình. Trên con đường từ đất Bắc vào kinh đô Huế để nhậm chức Cung Trung
Giáo Tập, trải qua bao gian lao hiểm trở, một mình phải vượt qua suối, qua đèo,
bà đã có dịp để lòng mình sống với những quạnh hiu cô đơn. Nhớ lại những
ngày sống với hạnh phúc êm ả trong mái ấm gia đình , bà hồi tưởng lại những
kỷ niệm nơi cố hương diệu vợi:
Vàng tỏa non Tây, bóng ác tà,
Ðầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.
Ngàn mai lác đác chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà.
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa.
Lòng quê một bước không ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là?
Nhớ Nhà
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Chiều Hôm Nhớ Nhà
Nếu lòng hoài cổ thiết tha, sự thân mật đối với gia đình nồng nàn êm ái bao
nhiêu, thì trước tạo vật, nữ sĩ Thanh Quan cũng thấy lòng giăng trải để rộng đón
những cảnh hùng vĩ của núi sông, cái vẻ đẹp tự nhiên của cảnh trí do tạo hóa
sắp bày, và những màu sắc thiên nhiên mà dẫu cho có bút thần cũng không vẽ
vời, điểm xuyết cho đến mức tuyệt xảo được.
Từ xưa đến nay, mùa thu bao giờ cũng là mùa của thi sĩ, vì mùa thu tiết trời mát
dịu, có mưa ngâu rả rích, có trăng huyền diệu, có lá vàng bay tơi tả khắp nẻo
đường... Chính thi sĩ Nguyễn Khuyến cũng sáng tác rất nhiều thi phẩm nói về
cảnh thu, và ông được mệnh danh là thi sĩ của mùa thu. Thanh Quan Nữ Sĩ
cũng thấy say sưa trước cảnh thu êm đềm. Tiết thu ngân nga với giọt mưa thu
nhè nhẹ rơicũng khiến cho lòng nữ sĩ thấy bâng khuâng:
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn, say nhấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt nặng vần thơ.
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ?
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ?
Cảnh Thu
Sự trầm mặc của Thanh Quan Nữ Sĩ đôi khi đã thể hiện ở bên ngoài. Ta tưởng
tượng như bà là một con người đa cảm, đa sầu, tâm hồn dễ rung động trước sự

vật ngoại giới để đi lần vào nội tâm vì bà đã trải qua những trạng huống lầm
than thống khổ. Nhưng thật ra, nỗi buồn của người nữ sĩ rất nhẹ nhàng, kín đáo.
Có lẽ vì quen nếp sống cổ kính của đạo lý Khổng Mạnh, bà rất dè dặt, không để
cho tình cảm bộc lộ một cách ầm ỉ. Tuy nhiên, ta cũng có thể thấy được phần
nào sự xao xuyến trong nội tâm nữ sĩ, qua lời thơ. Một con người thích trầm tư,
ít nói, thiếu người tri kỷ, thường sống cô đơn, do đó tâm hồn bị kiềm hãm, lâu
ngày trở nên khao khát một cuộc sống êm đềm trong khung cảnh trong sáng,
trút bỏ những ưu tư. Trong bài thơ Cảnh Ðền Trấn Võ, ta thấy rõ lòng tha thiết
mong muốn sống một cuộc đời siêu nhiên, hoàn toàn thanh cao trong một thế
giới ly trần thoát tục:
Êm ái chiều xuân tới Trấn đài,
Lâng lâng chẳng bận chút trần ai.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×