Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.3 KB, 25 trang )

HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNVVN).
1.1.1. Khái niệm DNVVN.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bộ phận cấu thành không thể thiếu được
của nền kinh tế, có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời với các chủ thể
khác. Việc phân chia DNVVN dựa vào tiêu thức quy mô doanh nghiệp. Theo
tiêu thức này doanh nghiệp bao gồm: doanh nghiệp lớn, DNVVN. Có nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm DNVVN nhưng khái niệm chung nhất về
DNVVN có nội dung như sau:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh có tư cách
pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong
những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá
trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về
mặt vốn, lao động hay doanh thu. DNVVN có thể chia thành ba loại cũng căn
cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu
nhỏ.
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là
doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số
lượng lao động từ 10 người đến 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 người
đến 300 lao động.
Mỗi nước đều có tiêu chí riêng để xác định DNVVN ở nước mình.
Ở Việt Nam, khái niệm DNVVN được đưa ra ở điều 3, Nghị định 90/2001/NĐ
– CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: “ Doanh
nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sảng xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số
lao động hằng năm không quá 300 người.”
Theo điều 4 các DNVVN bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà


nước.
- Các hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày
03 tháng 02 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Như vậy có rất nhiều tiêu thức để phân loại DNVVN. Một số tiêu thức như
vốn, lao động, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng được dùng khá phổ biến
trên thế giới cũng giống như ở Việt Nam. Trong đó, hai tiêu thức được sử dụng
nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và lao động. Tuy nhiên, mỗi một
nước, mỗi một nền kinh tế lại lựa chọn các tiêu chuẩn khác nhau, phụ thuộc vào
nhiều yếu tố:
Trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng nước: Thông thường các nước có
trình độ phát triển càng cao thì quy định về chỉ tiêu quy mô vốn cũng như lao
động cao hơn so với các nước có trình độ phát triển thấp. Ví dụ như ở Nhật Bản
doanh nghiệp có số vốn dưới 1 triệu USD và lao động dưới 300 người được coi
là DNVVN, nhưng ở các nước chậm phát triển như Việt Nam hay là Lào,
Campuchia thì đó lại là doanh nghiệp lớn.
Các giới hạn tiêu chuẩn này thay đổi theo thời gian sao cho phù hợp với trình
độ phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn. Khi nền kinh tế tăng trưởng,
quy mô hoạt động của các doanh nghiệp mở rộng thì giới hạn tiêu chuẩn sẽ
được điều chỉnh lại. Hoặc khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp hoạt động
kém hiệu quả, một số doanh nghiệp phá sản hoặc bị sáp nhập, giải thể, số lượng
các doanh nghiệp giảm. Lúc đó tiêu chuẩn để phân loại DNVVN cũng sẽ thay
đổi tỷ lệ với tốc độ tăng trưởng quy mô của các doanh nghiệp.
Theo ngành nghề khác nhau: do mỗi ngành nghề có tính chất, đặc trưng riêng
nên việc phân biệt quy mô vốn cũng như lao động sử dụng riêng cho từng ngành
nghề cũng khác nhau. Chẳng hạn như ở Nhật Bản, các doanh nghiệp ở khu vực
sản xuất phải có số vốn dưới 1 triệu USD và dưới 300 lao động, trong khi đó
thương mại- dịch vụ có số vốn dưới 300.000USD và dưới 100 lao động thì đều
thuộc DNVVN. Ở Việt Nam, đối với doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp
nhỏ có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống và số lao động từ 50 người trở xuống, còn

các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ số lao động dưới 30 người.
Đường lối, chính sách, chiến lược và khả năng hỗ trợ của mỗi quốc gia. Với
mục tiêu phát triển ổn định và bền vững kinh tế - xã hội, các nước đều đưa ra
những tiêu thức phân loại DNVVN dùng làm căn cứ thiết lập những chính sách
phát triển và hỗ trợ DNVVN. Điều này hết sức quan trọng, ảnh hưởng tới tổng
thể nền kinh tế vì các DNVVN thường chiếm tỷ lệ lớn.
Như vậy, việc xác định rõ các tiêu thức để phân loại DNVVN có ý nghĩa rất
quan trọng. Đó là cơ sở để xác định cơ chế quản lý với những chính sách ưu tiên
thích hợp và xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý có hiệu quả đối với hệ thống các
doanh nghiệp này.
Xác định tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển kinh
tế đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính phủ có
nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả hoạt
động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế này. Chính vì vậy
số lượng DNVVN tăng lên đáng kể. Nếu đem tiêu chí DNVVN là dưới 300 lao
động và vốn dưới 10 tỷ đồng thì số doanh nghiệp năm 2005 có tới 96,81%
thuộc nhóm vừa và nhỏ, trong đó:
* Quy mô về lao động:
- Số doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm 51,3%.
- Số doanh nghiệp từ 10 đến dưới 200 lao động chiếm 44,07%.
- Số doanh nghiệp từ 200 đến 300 lao động chiếm 1,43%.
* Quy mô về vốn:
- Số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 41,8%.
- Số doanh nghiệp có vốn từ 1 đến dưới 5 tỷ đồng chiếm 37,03%.
- Số doanh nghiệp có vốn từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng chiếm 8,18%.
1.1.2. Những lợi thế và bất lợi thế của DNVVN trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2.1. Những lợi thế của DNVVN.
 Số lượng DNVVN chiếm tỷ lệ lớn.
Giới hạn chỉ tiêu độ lớn của các DNVVN khá thấp: quy mô vốn và số
lượng lao động khá thấp nên đa phần các DN trong nền kinh tế thị trường đều

thuộc nhóm DNVVN. Số lượng các DNVVN này thường chiếm từ 70% đến
80%, thậm chí có nước 90%. Hơn nữa, do đặc trưng của các DNVVN là hoạt
động trên tất cả các lĩnh vực ngành nghề nên hầu hết trong nền kinh tế số lượng
các doanh nghiệp này chiếm ưu thế tuyệt đối.
Từ khái niệm DNVVN là “ cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người” cho thấy tuyệt đại
đa số các doanh nghiệp của Việt Nam đều là DNVVN. Tính đến 31/12/2005 số
DNVVN thực tế đang hoạt động trong cả nước là khoảng 113.000 doanh
nghiệp, tăng thêm 23,54% so với 31/12/2004 và gấp 2,7 lần so với năm 2000.
Bình quân năm 2001-2005, số doanh nghiệp thực tế hoạt động tăng 28%. Hơn
nữa, các DNVVN ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng
hơn, tình trạng phân biệt, đối xử so với các DNNN giảm nhiều. Với quan điểm
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta mà các
DNVVN ngày càng có nhiều cơ hội để phát triển. Vì vậy mà số lượng các
DNVVN tăng lên đáng kể. Hiện cả nước có 200.000 DNVVN và theo dự kiến
sẽ thành lập thêm 320.000 DN mới để đưa tổng số lên khoảng 500.000 DN vào
năm 2010.
 Khả năng linh hoạt cao, năng động trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các DNVVN không chỉ nhiều hơn về số lượng mà còn cho thấy tính linh
hoạt và năng động trong hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng cao.
DNVVN có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh nên dễ
thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường. Điều này được thể hiện qua
khả năng chuyển đổi mặt hàng nhanh, phù hợp với xu hướng thay đổi nhanh
chóng của nhu cầu trên thị trường. Trước những biến động của thị trường, đứng
trước nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng của khách hàng, các DNVVN rất
linh động và mạnh dạn đầu tư sản xuất, cải tiến và trang bị công nghệ với chi
phí bổ sung không cao. Hơn nữa, các DNVVN cần ít diện tích sản xuất tập
trung, có khả năng sản xuất phân tán. Khả năng này phát huy được lợi thế về
giảm đầu tư ban đầu cho cơ sở vật chất, tận dụng được các nguồn lực phân tán,

đồng thời cũng tạo ra tính linh hoạt cao trong tổ chức sản xuất.
Môi trường cạnh tranh do có sự tham gia của số lượng đông đảo DNVVN
khiến cho số lượng và chủng loại hàng hoá sản xuất tăng lên rất nhanh. Kết quả
là tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới mặt
hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới. Những
yếu tố đó tạo ra sự năng động cho chính bản thân các DNVVN. Năng động
trong hoạt động sản xuất kinh doanh để tồn tại và phát triển.
 DNVVN chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hoạt động trên tất cả
các ngành nghề.
Nói đến DNVVN ở Việt Nam trước tiên và chủ yếu là nói đến các doanh
nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình
thành và phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta nên đại bộ phận các
DNVVN theo quy định hiện hành của pháp luật đề thuộc khu vực ngoài quốc
doanh. Bởi đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp này đều mang tính đại
diện cho DNVVN ở Việt Nam. Các DNVVN bao gồm đầy đủ các loại hình
pháp nhân theo quy định hiện hành nhưng chủ yếu bao gồm các loại hình doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
Hiện nay DNVVN chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp cả nước. Điều
đó chứng tỏ DNVVN có mặt trong hầu hết mọi thành phần kinh tế với các loại
hình khác nhau. Các DNVVN hoạt động trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội
nhưng tập trung thủ yếu trong ba lĩnh vực chính là công nghiệp, xây dựng;
thương mại, dịch vụ đời sống và dịch vụ vận chuyển hàng hoá, hành khách…
1.1.2.2. Những bất lợi thế của DNVVN.
 Vốn và tín dụng.
Vốn là điều kiện đầu tiên để một doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh. Vốn có ý nghĩa quan trọng trong suốt quá trình hoạt động của
doanh nghiệp vì vốn duy trì hoạt động và đảm bảo cho sản xuất được liên tục.
DNVVN có tiềm lực tài chính rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu
động lại càng ít. Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có điều
kiện để lựa chọn các mặt hàng có chất lượng cao trong kinh doanh, đầu tư vào

đổi mới các thiết bị, công nghệ. Bản thân các DNVVN hoạt động theo hướng tự
huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, từ các mối quan hệ họ hàng, thân quen…
là chủ yếu. Tuy nhiên, vốn từ nguồn này rất ít, thông thường là vốn ban đầu để
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, DNVVN có thể huy động vốn từ nguồn tín dụng ngân hàng.
Tuy nhiên, đây lại là khó khăn nhất đối với các DNVVN hiện nay khi mà các
DNVVN chưa tiếp cận được với nguồn tín dụng ngân hàng, hoặc sự tiếp cận
còn rất mỏng manh. Doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện tín dụng
cũng như phải chịu sự giám sát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. Hơn nữa,
năng lực nội tại của DNVVN thấp, các chỉ tiêu tài chính không đảm bảo yêu cầu
của ngân hàng, các DNVVN lại không có tài sản có giá trị để đảm bảo cho
khoản vay.
 Nguồn nhân lực
Số lượng các DNVVN lớn nên thu hút một lượng lớn lực lượng lao động
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trình độ cũng như tay
nghề lao động chưa cao. Các DNVVN đầu tư vào tài sản cố dịnh ít do nguồn
vốn ít nên họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là với những
nước có nguồn lao động dồi dào và nhân công rẻ. Đây vừa là thuận lợi nhưng
cũng là bất lợi cho các DNVVN.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế và khu vực, để tồn tại và phát triển đòi
hỏi các doanh nghiệp phải có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và nghề
nghiệp cao. Nhưng trình độ học vấn của đội ngũ lao động trong các DNVVN lại
rất thấp. Sự xuất hiện và khả năng phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc
rất lớn vào người sáng lập ra chúng. Sự có mặt của đội ngũ các nhà khởi sự
doanh nghiệp này cùng với khả năng và trình độ, nhận thức của họ về tình hình
thị trường và khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh sẽ tác động to lớn đến hoạt
động của từng DNVVN. Tuy nhiên, phần lớn các chủ DNVVN chưa được đào
tạo bài bản, chủ yếu hoạt động dựa vào kinh ngiệm, thiếu những kiến thức về thị
trường và chưa được hỗ trợ những thông tin cần thiết. Chủ doanh nghiệp có
trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống chiếm khoảng 56%, chỉ có khoảng 40%

chủ doanh nghiệp có trình độ đại học trở lên nhưng họ cũng ít được đào tạo kiến
thức chuyên môn về kinh tế và quản trị doanh nghiệp.
Đối với đội ngũ lao động, trình độ chuyên môn nghề nghiệp còn rất hạn
chế. Do quy mô nhỏ lại thiếu vốn nên hầu như các DNVVN không đủ kinh phí
để đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động. Lực lượng lao động
trong các DNVVN chủ yếu trưởng thành từ thực tiễn học hỏi và kinh nghiệm,
chỉ có một số ít được đào tạo qua trường lớp chính quy.
Trong số các cơ sở đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp thì hơn 90% là
doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, trung bình mỗi doanh nghiệp có 19 lao
động. Nhiều doanh nghiệp 100% lao động chưa qua đào tạo nghề ở trường lớp.
Trong đó khoảng 25% số doanh nghiệp tư nhân được phát triển trên cơ sở các
hộ cá thể, 28% chủ doanh nghiệp là những cán bộ nhà nước đã nghỉ theo chế
độ. Do vậy, khả năng quản lý cả về kỹ thuật và kinh doanh còn nhiều hạn chế.
Trình độ khoa học công nghệ và quản lý.
Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã
mở ra khả năng rộng lớn hơn cho sự phát triển của DNVVN. Nó giúp doanh
nghiệp có thể trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, chủ động trong việc lựa chọn, ứng
dụng công nghệ mới. Từ đó khắc phục khó khăn do quy mô nhỏ bằng khả năng
sản xuất nhanh hơn, rẻ hơn, nhanh hơn nhờ ứng dụng công nghệ mới. Tuy
nhiên, đây lại là một thách thức đối với DNVVN khi mà nguồn vốn cũng như
trình độ nhân lực hạn chế thì việc thay đổi công nghệ phù hợp là rất ít. Vì vậy,
đổi mới khoa học công nghệ chưa được các chủ doanh nghiệp đánh giá đúng
đắn tầm quan trọng cũng như tính cấp bách. Các DNVVN chỉ có thể đổi mới
công nghệ từng phần, từng công đoạn sản xuất nên dễ dẫn đến việc chắp vá,
thiếu tính đồng bộ và thống nhất.
Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đã có những đổi mới về mặt
khoa học công nghệ, nhiều máy móc thiết bị và công nghệ mới được chuyển
giao từ các nước phát triển. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn
chậm, chưa đồng bộ và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Hiện nhiều
doanh nghiệp vẫn đang sử dụng các công nghệ lạc hậu, xen lẫn với các công

nghệ trung bình và tiên tiến. Điều này làm hạn chế hiệu quả vận hành thiết bị và
giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu ra và đầu vào.
Phần lớn các doanh nghiệp ở nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so
với mức trung bình của thế giới 2-3 thế hệ và chủ yếu là nhập khẩu. Hầu hết các
dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị nhập khẩu đều đã khấu hao hết và
được tân trang lại hoặc là do các doanh nghiệp nước ngoài thải bỏ. Điều này dẫn
đến tình trạng sản phẩm làm ra không thể đáp ứng được mẫu mã, chất lượng
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh, đến việc nâng cao năng suất, hạ
giá thành sản phẩm.
 Phân bố phân tán, hiệu quả hoạt động chưa cao.
Quy mô nhỏ, phân tán là một trong những bất lợi đối với các DNVVN.
Số lượng DNVVN nhiều, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực kinh tế nhưng lại
thiếu sự tập trung. Các doanh nghiệp phân bố phân tán khắp các vùng miền.
Hoạt động của các DNVVN diễn ra nhỏ lẻ, manh mún, thiếu sự liên kết hỗ trợ
nhau. Do đặc điểm vốn thấp, vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh của chính
doanh nghiệp đã khó nên việc liên doanh, liên kết lại càng khó khăn hơn.
Tóm lại quy mô nhỏ, phân tán đi kèm với thủ công lạc hậu là hạn chế bất cập
lớn nhất của doanh nghiệp nước ta, từ đó chi phối đến nhiều yếu kém khác như:
Sức cạnh tranh thấp, hiệu quả kinh doanh không cao, lao động thiếu tính ổn
định và bền vững lâu dài.
 Sức cạnh tranh và tiếp cận thị trường
Các DNVVN khó tiếp cận được với cả thị trường trong nước và quốc tế.
Sức cạnh tranh của các DNVVN còn ở mức độ thấp. Hiệu quả công tác nghiên
cứu thị trường còn hạn chế và yếu kém, nhiều thị trường tiềm năng chưa được
khai thác, nhiều doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trường do
không đi sâu và nghiên cứu thị trường. Nhiều doanh nghiệp cũng có nhận thức
được tầm quan trọng của vấn đề này nhưng do vốn ít, năng lực hạn chế, chi phí
lại khá tốn kém, trình độ tìm kiếm, khai thác và xử lý thông tin của chủ doanh
nghiệp còn yếu nên chưa hiệu quả.
Các DNVVN với năng lực tài chính hạn chế, công nghệ còn yếu kém nên

hiệu quả hoạt động chưa cao. Cộng thêm với kiểu dáng sản phẩm đơn điệu, chất
lượng sản phẩm chưa cao và thiếu mạng lưới phân phối, tiếp thị nên vừa khó
tiếp cận với thị trường, vừa thiếu năng lực cạnh tranh.
1.1.3. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trường.
DNVVN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước. Ở
nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển DNVVN luôn là nền
tảng của nên kinh tế, là bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền kinh tế.
Chính phủ các nước cũng xác định vai trò quan trọng, lâu dài của DNVVN.
1.1.3.1. Góp phần tăng trưởng và ổn đinh kinh tế - xã hội.
Trước hết, các DNVVN chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, thậm chí áp
đảo trong tổng số doanh nghiệp. Sự phát triển nhanh của các DNVVN cả về số
lượng và chất lượng đã đóng góp quan trọng vào GDP. Ở các quốc gia trên thế
giới, đặc biệt là các nước phát triển, DNVVN chiếm 90% số lượng doanh
nghiệp, đóng góp từ 25%-33% giá trị GDP hàng năm. Vì vậy, việc phát triển
DNVVN đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt là
các nước đang phát triển.
Vì DNVVN có quy mô nhỏ nên dễ điều chỉnh hoạt động. Các
doanh nghiệp này thường hoạt động rất năng động và linh hoạt trong nền kinh tế
nên kéo theo nền kinh tế năng động theo. Sự góp mặt đáng kể của các doanh
nghiệp này khiến cho các doanh nghiệp lớn cũng phải điều chỉnh theo, tạo đà
cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
Hoạt động đa năng và bao trùm hầu hết các lĩnh vực kinh tế, DNVVN đã
và đang cung cấp một khối lượng lớn hàng hoá, dịch vụ đáng kể cho nền kinh
tế. Với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm thị trường cao, các DNVVN
có nhiều lợi thế trong việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu
trong nước và ngoài nước. Các DNVVN cũng đóng góp một phần vào kim

×