Kinh nghiệm hớng dẫn học sinh giỏi lớp 5 làm tập làm văn
kể chuyện có yêu cầu sáng tạo
A. Đặt vấn đề:
Bài tập văn của học sinh lớp 4-5 là sự vận dụng tổng hợp các kiến thức
trong quá trình học tập, từ đó nâng cao năng lực t duy, giáo dục tình cảm, mỹ
cảm cho học sinh. Do đặc điểm nhận thức nổi bật của học sinh Tiểu học là t
duy cụ thể, khả năng diễn đạt của các em còn hạn chế. Vì vậy, tập làm văn là
một nội dung khó học đối với học sinh, khó dạy đối với giáo viên. Các em
tiếp thu bài chậm, văn viết ra thờng nghèo nàn, diễn đạt lủng củng... giáo
viên dạy cũng khó dẫn dắt để các em hiểu. Bài tập làm văn đại trà còn khó
nh thế, bồi dỡng học sinh giỏi còn khó hơn. Bởi vì các đề thi học sinh giỏi
yêu cầu cao hơn cả về khả năng diễn đạt, trí tởng tợng sáng tạo. Vậy làm thế
nào để nâng cao chất lợng học sinh giỏi, rèn kỹ năng viết văn cho học sinh
giỏi? Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi xác định rõ vai trò, trách
nhiệm của mình trong việc bồi dỡng học sinh giỏi, đã đi sâu tìm tòi nghiên
cứu và đúc rút đợc một số kinh nghiệm nhỏ trong việc bồi dỡng học sinh giỏi
văn. Trong bài viết này tôi chỉ đề cập đến việc bồi dỡng học sinh giỏi lớp 5 là
một số bài văn kể chuyện có yêu cầu tởng tợng sáng tạo.
B. Thực trạng và nguyên nhân:
Những năm qua, trong đề thi học sinh giỏi lớp 5 ta thờng gặp các đề tập
làm văn thuộc thể loại kể chuyện yêu cầu học sinh tởng tợng, sáng tạo trên cơ
sở thực tế, trên cơ sở nội dung một bài tập đọc (thơ hoặc văn) hoặc trên cơ sở
một cốt truyện cho trớc.
Ví dụ:
Đề 1: Dựa vào bài thơ gọi bạn của nhà thơ "Định Hải" em hãy kể lại
bằng văn xuôi câu chuyện cảm động giữa Bê Vàng và Dê Trắng.
Đề 2: Ngày xửa, ngày xa có hai mẹ con sống bên nhau rất hạnh phúc.
Một hôm ngời mẹ bị ốm nặng chỉ khao khát ăn một trái táo thơm ngon. Ngời
con đã ra đi... Cuối cùng anh đã mang đợc trái táo trở về biếu mẹ...
1
Dựa vào tóm tắt trên, em hãy tởng tợng và viết lại tỉ mỉ câu chuyện đi
tìm táo của ngời con hiếu thảo.
Đề 3: Một buổi tối cả nhà em đang sôi nổi bàn chuyện mua sắm và
chuẩn bị cho một cái tết thật vui. Bỗng từ xa vọng lại tiếng một em bé bán
bánh rao đêm...
Dựa vào gợi ý trên, em hãy tởng tợng và kể lại cảnh ấy.
(Đề thi học sinh giỏi tỉnh năm học 2003-2004).
Khi gặp các dạng bài này đa số các em đều thấy khó. Có một số bài làm
sơ sài, có em chỉ biết ghi lại nội dung bài tập đọc hay cốt truyện đã gợi ý, có
em lại viết lại lủng củng, rờm rà, nhiều chi tiết không hợp lý, thiếu logic, nội
dung câu chuyện không hấp dẫn ngời đọc, ngời nghe. Sau khi tìm hiểu tôi đã
phát hiện ra các nguyên nhân sau đây:
- Năng lực tởng tợng, sáng tạo của các em còn hạn chế, các em cha biết
cách xây dựng nhân vật, xây dựng cốt truyện và các chi tiết, tình huống có
trong câu chuyện. Khi làm văn các em không có thói quen lập dàn ý, viết
nháp. Vì vậy không sắp xếp, lựa chọn các tình huống cho hợp lý.
- Một số giáo viên bồi dỡng còn nặng nề lý thuyết, cha chỉ rõ cho học
sinh các thao tác cần thiết khi làm bài. Cha khơi dậy ở các em lòng ham thích
kể chuyện và trí tởng tợng vô cùng phong phú của tuổi thơ.
C. Các giải pháp:
I . Bồi d ỡng lòng ham thích kể chuyện, rèn luyện kỹ năng kể chuyện và
phát triển trí t ởng t ợng sáng tạo cho học sinh :
Học sinh tiểu học rất thích nghe kể chuyện, nhất là những câu chuyện
có chi tiết thần kỳ. Song rất ít em mạnh dạn kể chuyện cho cô và các bạn
nghe, do các em cha biết kể, lúc đứng dậy nói năng ấp úng, ngắt quãng. Vì
vậy để rèn luyện kỹ năng kể chuyện tạo cho các em sự hứng thú, niềm ham
thích nghe chuyện và tự mình kể chuyện. Tôi thờng tranh thủ những giờ ra
chơi kể chuyện cho các em nghe: chuyện cổ tích Việt Nam, chuyện cổ thế
giới, chuyện khoa học viễn tởng, chuyện nhi đồng... Khi có thời gian là
những câu chuyện dài, có khi chỉ là một đoạn, một vài chi tiết song các em
2
rất thích. Khi đã tập đợc không khí gần gũi, thân mật, tôi khuyến khích các
em tự kể những câu chuyện mà các đã kể, đã đọc. Lúc đầu chỉ là một đoạn,
một vài chi tiết, tôi giúp đỡ các em bằng cách hớng dẫn tỉ mỉ giọng kể, lời
nhân vật nên nói nh thế nào, cử chỉ, điệu bộ ra sao. Sau đó nâng dần độ dài
câu chuyện, các em đã rất hào hứng, mạnh dạn tham gia, có lúc còn tranh
nhau kể. Tiếp theo tôi còn dành một số tiết học tổ chức thi kể chuyện, thi
"sáng tác" truyện. Tôi kể phần đầu câu chuyện, từng nhóm các em trao đổi
với nhau và tởng tợng để kể tiếp câu chuyện. Kết quả thật bất ngờ, trí tởng t-
ợng của các em vô cùng phong phú. Cùng một câu chuyện nhng mỗi nhóm
lại tởng tợng ra một tình huống khác nhau. Cuối cùng tôi hớng dẫn các em
lựa chọn, sắp xếp lại cho hợp lý để đợc câu chuyện dài lý thú. Cứ nh vậy, học
sinh đợc làm quen và rất hứng thú với việc kể chuyện và sáng tạo ra câu
chuyện để kể.
II. H ớng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài, xây dựng câu chuyện .
a) Tìm hiểu đề bài: Đây là việc làm quan trọng không thể thiếu đợc . Nó
có tác dụng giúp học sinh xác định đợc thể loại, trọng tâm, yêu cầu và giới
hạn đề. Khi tiến hành tôi yêu cầu học sinh đọc kĩ đề ra và tự trả lời các câu
hỏi sau:
- Đề bài thuộc thể loại gì?
- Đề bài yêu cầu kể chuyện gì?
- Dựa vào đâu để các em tởng tợng sáng tạo câu chuyện?
Nếu đề bài yêu cầu dựa vàobài tập đọc thì phải đọc kĩ bài tập đọc để
nắm chắc nội dung bài, xác định nhân vật. Nếu là dựa vào cốt chuyện cho tr-
ớc hay dựa vào thực tế thì cũng phải đọc kĩ để có định hớng cho câu chuyện.
b) Xây dựng nhân vật : Trong chuyện phải có nhân vật . Yếu tố đầu tiên
là giáo viên phải giúp học sinh xác định rõ trong câu chuyện có những nhân
vật nào. Hầu hết các đề bài đều đã có nhân vật, các em cần đọc kĩ đề để xác
định đợc và chỉ rõ ra trong chuyện có mấy nhân vật , tên từng nhân vật , vai
trò của từng nhân vật trong từng câu chuyện. Ngoài những nhân vật chính cần
có thêm những nhân vật phụ nào: Trong đề 2 đã có các nhân vật : Ngời mẹ,
chàng trai ... có thể tởng tợng thêm các nhân vật : Dân làng, bà tiên ( giúp
3
chàng trai vợt qua khó khăn), các nhân vật ác cản trở đờng đi của chàng trai (
câu chuyện mới hấp dẫn).
Đã có nhân vật song các em phải cụ thể nhân vật bằng ngoại hình, lời
nói, cử chỉ thể hiện trong câu chuyện . Muốn thể hiện rõ nhân vật các em
phải tự đặt mình vào hoàn cảnh của nhân vật để nắm bắt. Lúc đó nhân vật sẽ
suy nghĩ nh thế nào, làm gi, nói gì? Đậc biệt lu ý các em những nhân vật là
cây cối, loài vật... trong câu chuyện đã đợc nhân hoá. Vì vậy cũng có tình
cảm, suy nghĩ, lời nói, cử chỉ giống nh con ngời.
- Khi miêu tả nhân vật chỉ cần một vài nét về độ tuổi, hình dáng, ăn mặc
tránh sa vào bài văn tả ngời. Còn lời nói, cử chỉ, hành động của nhân vật sẽ đ-
ợc thể hiện qua các tình huống câu chuyện . Miêu tả ngoại hình nhân vật
cũng cần lựa chọn các chi tiết phù hợp với điiêù kiện, hoàn cảnh của nhân
vật.
Ví dụ :
Em bé bán rao ( đề 3) không thể " mập mạp nớc da trắng hồng, mặc bộ
váy màu hồng rất đẹp" mà phải " gầy, nớc da ngăm ngăm, mặc bộ quần áo cũ
đã ngắn và bạc màu... "( vì thiếu thốn vất vả). Lời nói cử chỉ của nhân vật
cũng phải phù hợp với tính cách của nhân vật đó: ngời tốt cử chỉ, nét mặt phải
hiền từ phúc hậu, lời nói phải dịu dàng, lễ phép. Kẻ xấu : hung hăng, lời nói,
nét mặt, cử chỉ lộ rõ vẻ gian ác.
c)Xây dựng cốt chuyện:
Cốt chuyện là sờn, là khung xơng của câu chuyện. Tuỳ thuộc vào mỗi
đề bài các em phải xây dựng một cốt chuyện phù hợp. Có đề đã cho sẵn cốt
chuyện ( đề 2), có đề thì cốt chuyện chính là nội dung bài tập đọc ( đề 1), có
đề phải dựa vào gợi ý mà xây dựng cốt chuyện cho phù hợp ( đề 3). Nh vậy, ở
những đề cha có sẵn cốt chuyện thì giáo viên phải gợi ý dẫn dắt để các em
tìm ra đợc cốt chuyện .
Ví dụ:
ở đề 1 :- Giáo viên cho học sinh đọc lại bài thơ " gọi bạn "
4
- Khổ 1 của bài thơ nêu lên điều gì? ( tình bạn thân thiết của Bê Vàng và
Dê Trắng).
- Khổ 2 của bài thơ nói lên điều gì? ( Gặp khó khăn về thời tiết hết thức
ăn, chúng cùng lo cách nuôi sống nhau).
- Em hãy nêu ý của khổ thơ thứ 3? ( Gặp hoạn nạn đôi bạn phải xa nhau,
chúng không quên nhau vẫn quyết tìm nhau đến bây giờ ).
Từ ý của từng khổ thơ trên học sinh hình dung đợc cốt chuyện : Câu
chuyện kể về tình bạn đằm thắm, thân thiết của Bê vàng và Dê trắng. Gặp
lúc khó khăn hoạn nạn đôi bạn vẫn lo lắng cho nhau và không quên nhau.
ở đề 3 mới chỉ có một gợi ý cho sẵn: Một buổi tối cả nhà em đang sôi
nổi bàn chuyện mua sắm và chuẩn bị cho một cái tết thật vui. Bỗng từ xa
vọng lại tiếng một em bé bán bánh rao đêm...
- Tại sao em bé phải đi bán bánh vào ban đêm? ( Do hoàn cảnh khó
khăn, bố mẹ đau ốm, nhà nghèo...).
- Đứng trớc hoàn cảnh của em bé bán bánh rao đó em và gia đình em đã
làm gì? (Thơng cảm, tìm cách giúp đỡ).
Cốt chuyện : Gia đình em đang sôi nổi bàn chuyện mua sắm và chuẩn bị
cho một cái tết thật vui. Bỗng vọng lại tiếng rao đêm của một em bé bán
bánh. Cảm thơng hoàn cảnh của em bé gia đình em đã tạo điều kiện giúp đỡ.
d) Xây dựng các tình tiết, tình huống câu chuyện .
Khi đã có cốt chuyện cần tởng tợng thêm các chi tiết, tình huống để câu
chuyện trở nên cụ thể, sinh động. Giống nh việc "đắp thêm da thịt, truyền hơi
thở " để khung xơng trở nên sống động. Tình huống câu chuyện hiểu một
cách đơn giản là những mạch, những chặng trong sự diễn biến của câu
chuyện . Tình huống càng thú vị thì câu chuyện càng hấp dẫn. Trong các tình
tiết lại phải tạo ra các tình huống bất ngờ, giàu kịch tính mới đem đến cho
ngời đọc sự lí thú. Các tình tiết phải đảm bảo tính hệ thống: Tình tiết nào
viết trớc , tình tiết nào viết sau. Tình tiết sau có thể là kết quả hoặc là bớc
phát triển của tình tiết trớc. Qua mỗi tình tiết đa câu chuyện tiến lại gần hơn
kết cục cuối cùng. Một điều hết sức chú ý nữa là tính hợp lí của tình tiết:
5