Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Khó khăn trong xác định chi phí và lợi ích từ giáo dục đại học dẫn tới những tranh luận chính sách ra sao?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.02 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------

BÀI TẬP NHÓM 1
MÔN: Kinh tế học về những vấn đề xã hội
Đề bài: Khó khăn trong xác định chi phí và lợi ích từ giáo dục đại học dẫn tới
những tranh luận chính sách ra sao?


Hà Nội, 2019


Mục Lục

1. Tổng quan về giáo dục Đại học (Đại học nói chung trên thế giới và đại

học Việt Nam nói riêng)
1.1 Vai trò:
Động lực phát triển nền tảng chủ yếu tạo ra của cải
Tạo ra sự bình đẳng về việc làm
Nâng cao mức sống

-

1.2 Thành tựu và hạn chế:
-

1.2.1. Thành tựu:
Chất lượng giáo dục đại học, xếp hạng đại học. Theo như đề tài Khoa học cấp
Nhà nước: Đánh giá những tác động của Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản,


toàn diện GD&ĐT (Giám đốc ĐHQGHN Nguyễn Kim Sơn)
• Năm 2018 đã có tổng số 104 chương trình đào tạo từ 13 trường đại học
khác của Việt Nam, đã được các tổ chức quốc tế (AUN-QA của
ASEAN, CTI của Pháp, ABET và AACSB của Hoa Kỳ) đánh giá ngoài


và công nhận
Ngày 11/9/2019, Thời báo Giáo dục đại học (Times Higher Education,
THE) công bố kết quả xếp hạng đại học thế giới mới nhất (World
University Rankings 2020). Trong đó ĐHQGHN và ĐH Bách Khoa lọt
top 1000 với chỉ số cao về giảng dạy, nghiên cứu và hội nhập quốc tế.

3




.

Bảng 1. Thứ hạng các trường ĐH của Việt Nam trong Bảng xếp hạng
THE thế giới
Nguồn . Times Higher Education
-

Đột phá, chuyển biến về chất lượng:V
Năm 2013, trước khi có NQ 29 (Nghị quyết Số: 29-NQ/TW “về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế"), tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, ở mức 2309
bài, thì theo thống kê mới đây nhất của nhóm nghiên cứu độc lập của Đại Học

Duy Tân, tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng các
công bố quốc tế của 30 trường đại học Việt Nam hàng đầu trong danh sách này
4


đã đạt 10.515 bài và hơn cả giai đoạn 5 năm trước 2011-2015, khi đó toàn Việt
Nam, trong 5 năm mới có 10.034 bài.

.
Top 10 các cơ sở đào tạo và nghiên cứu của Việt Nam về công bố ISI trong năm
2018 và 7 tháng đầu năm 2019 (dữ liệu WoS 01/08/2019)
-

Chuyển dịch mạnh mẽ và kịp thời cơ cấu ngành nghề:
• Theo số liệu tổng kết năm học 2016-2017 của Bộ giáo dục và Đào tạo,
tổng quy mô sinh viên (SV) Đại Học là 1.767.879 sinh viên, giữ khá ổn
định so với những năm trước; quy mô SV cao đẳng sư phạm giảm 14,3%,


chỉ còn 47.800 SV.
Phần lớn SV tập trung theo học các ngành thuộc Khối ngành V, III. Tính
từ đầu năm 2016 đến 31/7/2017

5


Cơ cấu quy mô sinh viên đại học chính quy theo Khối ngành năm học
2016 -2017 (Nguồn: Thống kê Vụ Kế hoạch -Tài chính, 2017)
Khối ngành I: Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên.
Khối ngành II: Nghệ thuật.

Khối ngành III: Kinh doanh quản lý; Pháp luật.
Khối ngành IV: Khoa học sự sống; Khoa học tự nhiên.
Khối ngành V: Toán và thống kê; Máy tính và công nghệ thông tin; Công nghệ kỹ
thuật; Kỹ thuật; Sản xuất chế biến; Kiến trúc và xây dựng, Nông lâm và thuỷ sản; Thú
y.
Khối ngành VI: Sức khoẻ.
Khối ngành VII: Nhân văn; Khoa học xã hội và hành vi; Báo chí và thông tin; Dịch
vụ xã hội; Khách sạn, du lịch, thể thao


Mới đây, Bộ cũng đã ban hành cơ chế đặc thù về đào tạo CNTT, cho phép

sinh viên các ngành khác được học thêm văn bằng 2, chính quy về CNTT.
• Một số ngành mới khác như robotic, công nghệ hàng không vũ trụ đã
được mở ở ĐHQGHN; trí tuệ nhân tạo, công nghệ nano, ...được giảng dạy
và đào tạo ở nhiều trường đại học trong cả nước.

6


1.2.2. Hạn chế:
Chất lượng của lực lượng lao động được đào tạo trình độ đại học vẫn chưa

-

đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế của nước ta
=> Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm, làm trái ngành cao.

-


Một số chỉ tiêu chủ yếu về lao động việc làm Quý I năm 2015-2019
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Giáo dục đại học Việt Nam còn lạc hậu, chưa cập nhật được xu thế cách mạng
4.0 hiện nay
Chương trình đào tạo đại học ở Việt Nam hiện đang áp dụng ở phần lớn
các trường đại học rất lạc hậu. So với nhu cầu kiến thức mà người học cần có
để đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng thì trường đại học cung cấp rất hạn
chế. Vì thế, số sinh viên tốt nghiệp ra trường không có việc làm theo chuyên
môn được đào tạo còn thấp, thậm chí thất nghiệp.

-

Các vấn đề về đói nghèo, bất bình đẳng thu nhập vẫn còn tồn tại
1. Các vấn đề và khó khăn trong xác định chi phí, lợi ích từ giáo dục Đại

học:
2.1. Vấn đề với các lợi ích của dịch vụ Giáo dục Đại học:
Người tham gia tổ chức giáo dục đại học có một số lợi ích cá nhân, lợi ích tài
chính, và các loại lợi ích khác trong suốt cuộc đời của họ. Tương tự như vậy, xã
hội cũng có vô số lợi ích trực tiếp và gián tiếp khi công dân thực hiện giáo dục
sau trung học phổ thông.

7


2.1.1 Các lợi ích của giáo dục Đại học


Lợi ích cá nhân bao gồm:
Lợi tức cá nhân: tính chi phí cá nhân và thu nhập sau thuế


Ước tính mức sinh lợi cá nhân của việc đi học đại học của sinh viên Việt
Nam” (TS Trần Quang Tuyến và các cộng sự)
Biểu đồ cho thấy mối tương quan giữa bằng cấp và thu nhập: bằng cấp
càng cao mang lại thu nhập cá nhân càng cao


Giáo dục đại học đều tạo ra một số kinh nghiệm mà lợi ích của chúng có thể đo
lường được khi so sánh với giáo dục trung học, lợi ích của việc hoàn thành
bằng cử nhân hoặc cao hơn là lớn hơn đáng kể. Lợi ích của giáo dục đại học
mang lại là tiền tệ, hoặc những lợi ích khác như chăm sóc sức khỏe, hưu trí,...
Lợi ích xã hội bao gồm:



Trình độ học vấn cao hơn tương ứng với thất nghiệp thấp hơn, giảm tỷ lệ
nghèo đói, ngoài ra còn đóng góp vào ngân sách nhà nước một khoản
đáng kể. Người có trình độ học vấn ít bị phụ thuộc vào các chính sách



công của nhà nước.
Sinh viên tốt nghiệp đại học có tỷ lệ hút thuốc thấp hơn, nhận thức tích
cực hơn về sức khỏe các nhân so với những người tốt nghiệp trung học.

8





Trình độ học vấn cao hơn tỷ lệ với mức độ tham gia các hoạt động của

công dân, bao gồm cả công việc tình nguyện, bỏ phiếu và hiến máu,...
• Góp phần nâng cao lợi ích XH trong dài hạn: trình độ dân trí, tỉ lệ thất
nghiệp, nghèo đói
2.1.2. Những quan điểm về lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
• Quan điểm 1: Lợi ích các nhân là dương, lợi ích xã hội là âm:

Với hàng loạt những lợi ích cá nhân tăng lên như thu nhập, đời sống, ...nhưng
NSLĐ không tăng; tham nhũng bởi các cá nhân trong doanh nghiệp và nhà
nước; việc cấp bằng giáo dục đại học không khách quan như việc mua bán bằng
cấp,... sẽ làm lợi ích xã hội thiệt hại đáng kể.
Ví dụ: Vụ án ảnh hưởng nghiêm trọng tới chính trị, kinh tế Việt Nam :
Vụ án Đinh La Thăng và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra
tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN).

• Quan điểm 2: Lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là dương:

Với những ngoại ứng tích cực của giáo dục đại học góp phần vào việc phát triển
kinh tế-xã hội, sinh viên tốt nghiệp giáo dục đại học là nguồn nhân lực không thể
thiếu trong hội nhập kinh tế hiện nay; ngoài đó còn tác động vào xây dựng “Môi
trường – văn hoá”
Ví dụ: Tại Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết
định sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”.
+ Nguồn nhân lực chất lượng cao giúp cho tổ chức tiếp cận nhanh nhất với những

công nghệ, tri thức mới. Ứng dụng nhanh và hiệu quả những công nghệ và tri
thức mới vào hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức.

9


+ Nâng cao năng suất lao động của tổ chức nhờ kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm

của nhân lực chất lượng cao: với khả năng của mình, nhân lực chất lượng có thể
thực hiện những công việc được giao một cách hiệu quả nhất, sáng tạo, tìm tòi ra
cách làm mới, sản phẩm mới,
Như vậy, việc sử dụng hiệu quả nhân lực chất lượng cao, đào tạo thông qua giáo
dục đại học là điều không thể thiếu cho nền kinh tế nước nhà.
• Quan điểm 3: Lợi ích xã hội là dương nhưng không trực tiếp vào quá trình sản

xuất:
Ví dụ: Trình độ học vấn càng cao tạo ra một xu hướng tiêu dùng tiên tiến và hiện
đại hơn, có sự lựa chọn nhiều hơn, chú ý đến chất lượng và tính an toàn của sản
phẩm, góp phần giảm thiểu bệnh tật phát sinh trong xã hội.
Ngoài ra trình độ dân trí cao giúp giảm tỉ lệ tội phạm
Tóm lại, khó khăn lớn nhất trong xác định lợi ích của giáo dục Đại học là việc đo
lường ngoại ứng (giá trị xã hội) của giáo dục Đại học, dẫn đến những quan điểm khác
nhau.

2.2. Các vấn đề trong xác định chi phí:
2.2.1. Chi phí:


Chi phí hữu hình
Đối với trường đại học: Chi phí hữu hình của các dịch vụ của một trường đại học
cung cấp là chi phí của các nguồn lực mà trường đã mua về và thuê để cung cấp
các dịch vụ đó. Đó là chi phí các nguồn vốn vật chất và nguồn lao động
Đối với sinh viên: các chi phí đầu vào do trường sử dụng trong quá trình cung

cấp các dịch vụ giáo dục là chi phí cho các loại nhu cầu cần thiết trong quá trình
học tập và các dịch vụ học tập khác.
Đối với nhà nước: Chi phí hỗ trợ đào tạo, đất đai để xây dựng các trường đại



học, hỗ trợ cơ sở vật chất…
Chi phí vô hình: là dạng chi phí cơ hội.
Đối với sinh viên, các chi phí đầu vào do trường sử dụng trong quá trình cung
cấp các dịch vụ giáo dục (chi phí hữu hình) là chi phí cho các loại nhu cầu thiết
10


yếu trong quá trình học tập và các dịch vụ học tập khác. Tuy nhiên, chi phí thực
tế để cung cấp các dịch vụ giáo dục đại học (GDĐH) cao hơn nhiều so với các
khoản chi phí hữu hình. Để sử dụng các dịch vụ giáo dục, sinh viên phải dừng
một phần hoặc hoàn toàn công việc của mình, như vậy sẽ làm giảm khối lượng
hàng hoá và dịch vụ khác cho xã hội. Phần thu nhập mất đi này quy ra phần GDP
mất đi, được tính là chi phí vô hình của các dịch vụ giáo dục dành cho sinh viên.
2.2.2. Nguồn chi trả:
Hỗ trợ từ ngân sách nhà nước:
Tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục hàng năm của Việt Nam hằng năm xấp xỉ 20%,

tương đương 5% GDP, cao so với trên thế giới.
Lĩnh vực, giáo dục, đào tạo được ưu tiên đầu tư nguồn lực lớn từ ngân sách nhà
nước (NSNN. Tuy nhiên sau những thành công đã đạt được, chính sách đầu tư
cho giáo dục, đào tạo của Việt Nam vẫn còn có những hạn chế, bất cập như:


Một là, cơ

cấu

đầu



cho

giáo dục
đào

tạo

chưa hợp
lý: cơ cấu chi cho các nhiệm vụ, giữa các bậc học, nội dung chi trong
từng bậc học và ngành nghề trong từng bậc học.
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Bảng trên cho thấy: Tỷ lệ chi thường xuyên chiếm trên dưới 82% tổng
chi NSNN cho giáo dục, đào tạo. Trong chi thường xuyên, chi cho con người
chiếm 80% tổng chi, còn lại chi cho hoạt động dạy học, nâng cao chất lượng
giáo trình. Chi đầu tư xây dựng cơ bản còn thấp so với nhu cầu nâng cao cơ sở
trường học, mua sắm thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm...

11




Hai là, trong cơ cấu chi tiêu cho giáo dục, đào tạo có sự không tương
xứng trong đầu tư cho các bậc học: Chi Ngân sách Nhà nước cho giáo

dục liên tục tăng lên , nhưng trên thực tế NSNN dành cho giáo dục đại
học còn hạn chế với 2% tổng ngân sách dành cho giáo dục. Phân loại theo
cấp học, chi tiêu cho giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông chiếm xấp
xỉ 70% tổng chi cho giáo dục. Trong đó, chi cho giáo dục tiểu học chiếm
gần 30% tổng chi NSNN cho các cấp học. So với thế giới, tỷ lệ chi tiêu
công cho giáo dục trên mỗi học sinh tiểu học ở Việt Nam năm 2010 đạt
mức hơn 25%, cao hơn so với Hoa Kỳ là 22%, Singapore chỉ 11%.

Chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực GDĐT giai đoạn 2013 - 2017
Nguồn: Báo cáo của Vụ Kế hoạch - Tài chính, 2018

12


Cơ cấu chi trung bình ngân sách nhà nước trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo giai
đoạn 2013-2017
Nguồn: Báo cáo của Vụ Kế hoạch - Tài chính, 2018


Ba là, định mức phân bổ ngân sách cho dạy nghề hiện nay quá thấp, đào
tạo chưa thật gắn kết với mục tiêu, không dựa vào căn cứ hiệu quả đầu
ra.: Mức ngân sách bố trí cho dạy nghề chỉ xấp xỉ 10% tổng chi NSNN
cho các cấp học. Định mức chi giáo viên/học sinh, định mức chi thực
hành chưa sát thực tế. Bất cập này dẫn đến hệ thống trường nghề ít được
nâng cấp đầu tư, chất lượng đào tạo nghề thấp, không đáp ứng được yêu
cầu của doanh nghiệp (DN)



Tài trợ từ khu vực tư nhân:

Nhu cầu về giáo dục lớn, hệ thống trường công không đáp ứng được nhu cầu

đào tạo, mặt bằng học phí tại các trường tư rất cao… là những yếu tố hấp dẫn
để nhà đầu tư tư nhân nhảy vào cuộc chơi. Thậm chí, nhiều trường công hiện
cũng tư nhân hóa khi tự chủ thu - chi. Và để thực hiện đổi mới toàn diện giáo
dục và đào tạo đại học, cần huy động nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đại học từ
xã hội để vừa nâng cao trách nhiệm xã hội của cộng đồng và người dân, vừa
tăng thêm nguồn lực để hiện đại hóa đại học và nâng cao chất lượng đào tạo.

13




Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm của các nước, đặc biệt cần coi trọng nguồn
đầu tư ngoài ngân sách, coi đầu tư cho giáo dục đại học là đầu tư cho phát triển.
Để huy động được nguồn vốn ngoài ngân sách cho đầu tư giáo dục đại học cần
tăng quyền tự chủ cho các trường đại học trong việc huy động và quản lý
nguồn thu, trên cơ sở áp dụng cơ chế thị trường, thực hiện cạnh tranh lấy hiệu
quả giáo dục làm thước đo
-

Nguồn thu từ học phí và lệ phí
Học phí là khoản tiền mà người học hoặc gia đình người học phải nộp để
chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí của dịch vụ giáo dục, đào tạo, (còn
lại Ngân sách hỗ trợ phần chi phí chưa kết cấu trong giá).

=> Vấn đề trong việc cung cấp dịch vụ: Không sử dụng hệ thống giá và quy tắc
thị trường.
Mức thu học phí thấp chưa tính đủ chi phí đào tạo, trong khi ngân sách nhà

nước còn khó khăn, vì vậy các trường khó khăn về kinh phí để đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị, nâng cao chất lượng giáo dục. Đồng thời ảnh hưởng đến việc
thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của cơ sở giáo dục đào tạo.
Học phí thôi nhưng bản chất là giá, vì phải tính toán đầy đủ các chi phí đào tạo.
Vấn đề quan trọng là làm sao giá dịch vụ đào tạo phải bảo đảm cho các trường
hoạt động, ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo cũng như sinh viên khó khăn
được hưởng chính sách hỗ trợ
Bất cập: giá dịch vụ đào tạo "là tiền sinh viên nộp cho nhà trường trong khoảng
thời gian nhất định về việc học tập của mình. Số tiền này các trường có thể tự ý
đưa ra tùy theo dịch vụ, nhu cầu mà nhà trường cung cấp cho sinh viên. Điều này
sẽ tạo điều kiện cho các trường có thể lạm thu bởi trường chỉ cần giải thích "dịch
vụ của tôi cao nên thu nhiều hơn”.

3. Những tranh luận về chính sách
14


3.1. Tự chủ Đại học- Sinh Viên tự chi trả Đại Học:
Khái niệm “tự chủ đại học” (University autonomy) nói đến các mối quan hệ
đang thay đổi giữa nhà nước và các trường đại học (N.V. Varghese, Michaela
Martin, Thomas Estermann). Trên thế giới, khái niệm tự chủ đại học phản ánh sự
biến đổi mối tương quan giữa nhà nước và cơ sở đào tạo theo tinh thần phát huy
truyền thống tự do học thuật của đại học và giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của
cơ quan công quyền về tổ chức, tài chính, nhân sự.
Ở Việt Nam, tự chủ của cơ sở giáo dục đại học luôn là tự chủ có điều kiện, gắn
với tự chịu trách nhiệm và được thể chế hóa từng phần nhằm đáp ứng tốt hơn các
yêu cầu của xã hội về phát triển nhân lực trong tình hình mới.
3.1.1. Ưu điểm



Các trường đại học sẽ chủ động:
+ Đầu tư mạnh vào cơ sở vật chất.
+ Xây dựng chương trình đào tạo chất lượng, trọng tâm, phù hợp với nhu
+
+

cầu thị trường.
Nâng cao chất lượng giảng viên và dịch vụ.
Mức gia tăng học phí được đầu tư vào các chương trình khuyến học, học
bổng, liên kết quốc tế và nhiều hoạt động hữu ích khác.



Giảm bớt gánh nặng về ngân sách và quản lý của Nhà nước.
Ngày trước, việc ấn định mức học phí thấp và không có cơ chế tính toán mức
học phí phù hợp, với sự gia tăng của các chí phí đầu vào khác như: lương giáo
viên, chi phí điện, nước, cơ sở hạ tầng đã trực tiếp tác động vào ngân sách nhà
nước qua việc ngân sách phải cấp bù ngày càng lớn- PGS.TS Đặng Thị Thanh
Huyền - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học quản lý.



Sinh viên có nhiều lựa chọn hơn trong việc tìm trường Đại học. Có thể dễ dàng
vào một đại học năng khiếu hơn mà không cần tốn công sức vào những môn thi
lý thuyết hàn lâm.



Đảm bảo sự công bằng so với người không đi học, người nghèo không có điều
kiện đi học. Vì mọi người dân đều phải đóng thuế, thuế là nguồn thu chủ yếu của

ngân sách nhà nước, ngân sách nhà nước lại được đầu tư cho GDDH, mà không
15


phải tất cả mọi người đều sử dụng dịch vụ GDDH (hưởng lợi trực tiếp hay gián
tiếp từ dịch vụ GDDH)
Nếu GDDH miễn phí đối với người học thì mọi tiền chi trả về cơ sở vật chất,
lương thưởng,..đều do ngân sách nhà nước chi trả đồng nghĩa với một tỉ lệ
người nộp thuế bị ép buộc phải trả một phần chi phí giáo dục cho những người
không phải gia đình, con em họ. Và nhiều người trong số đó là người nghèo từ
đó nhà nước đánh thuế một phần gia đình nghèo không có con em đi học để
giúp trả tiền cho gia đình trung lưu là không hợp lí.
3.1.2. Nhược điểm


Mức học phí cao hơn sẽ khiến một số học sinh nghèo không đủ khả năng chi trả,

hoặc trả bằng các khoản nợ sinh viên đắt đỏ với hệ lụy lâu dài.
− Các trường tăng chỉ tiêu tuyển sinh để tối đa hóa lợi nhuận có thể khiến chất
lượng đầu vào giảm.
3.1.3. Vấn đề đặt ra
Vấn đề về học phí được khá nhiều sinh viên quan tâm khi bước chân vào giảng
được đại học. Đến thời điểm hiện tại, trên cả nước có 23 trường công lập tự chủ
tài chính 100%.
a) Liệu chất lượng đào tạo có theo kịp lộ trình tăng học phí của các trường đưa ra?

Ông Đinh Tiến Dũng – Bộ trưởng Bộ Tài chính cho rằng: “Tiền học phí nâng
lên theo giá thì cũng phải nâng cao chất lượng. Như thế mới có tác dụng thu hút
người học. Đào tạo người học ra phải gắn với việc làm và người sử dụng lao
động phải chấp nhận được”.

c, Hiện tượng lạm thu, nguồn thu không được tạo từ nội lực cho trường
-

Nhiều trường đại học tồn tại tình trạng vượt thu, thu sai quy định

-

Trong khi đó, lạm thu dẫn giảm động lực về phát triển hoạt động học
thuật

16


Kết quả đánh giá đối với 23 cơ sở giáo dục ĐH thực hiện thí điểm tự chủ
cho thấy, khi tự chủ, nguồn thu từ học phí và lệ phí của các trường tăng
4,29% so với thời điểm trước tự chủ, đây vẫn là nguồn thu chính, chiếm
trên 70% trong tổng thu của các nhà trường. Trong khi đó, các khoản thu
từ nghiên cứu khoa học, dịch vụ hay tư vấn doanh nghiệp lại chiếm tỷ
trọng nhỏ và có xu hướng giảm trong cơ cấu nguồn thu của các trường.
 Như vậy, nếu nguồn thu không được tạo ra từ nội lực các trường mà phụ

thuộc vào các yếu tố khách quan thì về lâu dài, sẽ gây bất lợi cho chất lượng
đào tạo khi việc tuyển sinh gặp khó khăn.
b) Các trường tuyển sinh bằng mọi giá dẫn đến chất lượng thấp

Số lượng gần 250 đại học của Việt Nam dẫn đến hệ lụy nguồn tuyển đầu vào bị
hạn chế, lấy điểm tuyển sinh thấp khiến chất lượng thí sinh không cao, làm ảnh
hưởng đến đầu ra.
Nếu say sưa vào việc có số lượng sinh viên tối đa để thu được học phí nhiều, các
trường sẽ bị chi phối về thời gian, nguồn lực; từ đó bị hạn chế nghiên cứu khoa

học vì nghiên cứu cần sự đầu tư rất lớn về tài chính, con người và thời gian.
3.1.4 Đề xuất giải pháp
Quy tắc xác định mức chi trả của sinh viên cho dịch vụ GDDH:
Lợi ích = chi phí cá nhân. Trên thực tế việc đo được lợi ích, chi phí là rất khó. Lợi ích
ở đây gồm lợi ích trực tiếp mang lại cho cá nhân: tri thức, kỹ năng, tác phong nghề
nghiệp, quan hệ, cơ hội,... ; còn có lợi ích tới gia đình cá nhân, bạn bè, các nhân được
tôn trọng, lợi ích về tương lai sau này.
Ngoài ra


Các trường ĐH nên có chính sách hỗ trợ SV nghèo học giỏi, có năng lực , tạo

môi trường giáo dục bình đẳng hơn.
• Đổi mới phương pháp dạy và học phù hợp với xu thế mới; đồng thời siết chặt
đầu ra nhằm đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao.

17




Giảm quy mô số lượng trường công để tập trung ngân sách giáo dục cho số
trường công nhất định cần được đầu tư.
Chúng ta phải chấp nhận thực tế là ở Việt Nam có thị trường giáo dục, đặc biệt
là giáo dục nghề nghiệp có mức độ cạnh tranh ngày càng cao- GS.TS Nguyễn
Thị Cành - Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh). Gia
tăng học phí được xem như một giải pháp chủ yếu nhằm chia sẻ chi phí giáo
dục. Theo đó, các trường sẽ đưa ra mức học phí cạnh tranh cũng như cam kết
các điều kiện dạy và học, chất lượng đầu ra với người học. Tuy nhiên, TS Cành
cũng nhấn mạnh, dù là tăng học phí để giảm gánh nặng cho ngân sách, song

Nhà nước vẫn phải đảm bảo nguồn đầu tư cơ sở vật chất cho các trường công
thì chất lượng đào tạo mới được đảm bảo.

3.2. Nhà nước đầu tư, hỗ trợ giáo dục đại học
Trường đại học do nhà nước đầu tư, hỗ trợ (Đại học công lập) là trường đại học
do nhà nước (trung ương hoặc địa phương) đầu tư về kinh phí và cơ sở vật chất
(đất đai, nhà cửa) và hoạt động chủ yếu bằng kinh phí từ các nguồn tài chính
công hoặc các khoản đóng góp phi vụ lợi.
3.2.1. Ưu điểm


Lợi ích xã hội kèm theo: Nhà nước chi trả để đảm bảo lợi ích xã hội: vai trò của
nhà nước là thu thuế người được hưởng dịch vụ miễn phí để trợ cấp cho những
người đi học. VD: việc một người có học hành tử tế thì dù họ có chia sẻ kiến
thức đó hay không thì những hành động tích cực của họ cũng góp phần cho đất

nước tốt lên như đi đúng luật, hành vi có văn hóa, bảo vệ môi trường...
− Giúp sinh viên nghèo có năng lực được đi học: Học phí cao hạn chế sinh viên
nghèo đi học, chi phí vô hình cản trở sinh viên nghèo đi học đại học. Việc đóng
thuế để phục vụ cho những người đi học không phải tất cả đều là những gia đình
trung lưu và giàu có mà họ còn là những hộ gia đình nghèo không có con đi học.
Chính điều này, chính phủ cần can thiệp để đảm bảo công bằng xã hội thông qua
hỗ trợ giáo dục đại học cho SV nghèo. Nguyên tắc hỗ trợ phải hỗ trợ trực tiếp
tới

tay

sinh

viên


18




Học phí thấp, vừa phải và ổn định, lộ trình tăng học phí hàng năm không quá cao

=>Tăng khả năng tiếp cận giáo dục bậc cao của người thu nhập thấp
− Có tính chất của Nhà nước nên nó được coi là kênh đào tạo chính thống và uy
tín.
− Nhà nước dễ kiểm soát dễ điều chỉnh hướng đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu
của đất nước
3.2.2. Nhược điểm
- Không công bằng. Tiền đầu tư hỗ trợ này là từ ngân sách nhà nước nên nếu quá mức
sẽ tạo ra sự mất công bằng giữa người đi học và người không đi học (Vì mọi người
dân đều phải đóng thuế, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, ngân sách
nhà nước lại được đầu tư cho GDDH, mà không phải tất cả mọi người đều sử dụng
dịch vụ GDDH ); không công bằng giữa người giàu và người nghèo cần được hỗ trợ
giáo dục. Mà trong chính sách đầu tư cho GDDH không phân biệt đc người giàu và
người nghèo.
- Không hiệu quả. Đầu tư hiệu quả là chi phí phải bằng lợi ích ( ý trên). Nếu đầu tư
cho GDDH sẽ bớt tiền và nguồn lực đầu tư cho những lĩnh vực khác. Đầu tư quá mức
dẫn tới phân bổ nguồn lực không hiệu quả
- Gây lãng phí: Nước ta ồ ạt mở ra các trường đại học, cao đẳng,  sinh viên không
đủ, lớp trống, trường trống, giáo viên thất ngiệp. Trong khi rất nhiều lĩnh vực khác cần
tiền  gây ra một sự lãng phí rất lớn. Đó là còn không kể tới những hậu quả tương lai
như: thất nhiệp cao (người có trình độ lấy việc của người không có trình độ, trình độ
học vấn của người thất nghiệp tăng khi cử nhân thất nghiệp tăng số lượng quá lớn, với
cơ cấu không hợp lý).

Theo Quyết định 37 về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao
đẳng, giai đoạn 2006-2020 , đến năm 2020, cả nước có 460 trường đại học, cao đẳng,
bao gồm 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng. Tuy nhiên đến năm 2018, nước
ta đã xây dựng được mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học gồm 236 trường đại học,
học viện (không tính các trường thuộc khối quốc phòng - an ninh) trong đó bao gồm
171 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước
ngoài). Như vậy đã vượt mức chỉ tiêu.
19


Tuy nhiên vấn đề về chất lượng đào tạo đại học và sau đại học: bên cạnh lí do về
không đảm bảo chất lượng giảng dạy và cơ sở vật chất, số lượng trường ĐH lớn mở
ra nhiều cơ hội học ĐH cho sinh viên và cũng là nguy cơ khiến sinh viên học ỷ lại,
không có chất lượng.

3.2.3. Vấn đề đặt ra
Để thu hút sinh viên, học sinh, tăng sức cạnh tranh với các trường công lập các
trường đại học dân lập ngoài trang thiết bị hiện đại, còn nỗ lực để thay đổi
chương trình học theo hương thực tế. Vậy các trường đại học công lập có cạnh
tranh được với trường đại học dân lập?
Chất lượng đào tạo đại học (ĐH) hiện chưa đáp ứng các yêu cầu phát triển đất
nước. Con số lao động thất nghiệp có trình độ cử nhân ở mức 4% được Bộ Giáo
dục và Đào tạo (GD & ĐT) công bố mới đây dường như vẫn chưa phản ánh hết
tình hình thực tế, nhất là khi hiện tượng sinh viên thôi học ngày càng phổ biến.
Như thống kê thì hằng năm Trường ĐH Bách khoa Hà Nội phải buộc thôi học
khoảng 700 sinh viên; năm học 2016 - 2017, Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội phải
đình chỉ học tập gần 200 sinh viên. Hiện tượng trên không chỉ diễn ra tại các
trường ĐH khu vực phía bắc, mà là tình trạng chung của nhiều cơ sở giáo dục hệ
ĐH, cao đẳng (CĐ) trên cả nước. Trong đó, có cả những “kỷ lục” không khỏi
khiến người quan tâm phải rầu lòng như: đầu năm 2018, Trường ĐH Giao thông

vận tải TP Hồ Chí Minh cảnh cáo học vụ với hơn 2.100 sinh viên, trong đó 257
sinh viên bị đuổi học. Trước đó, năm 2016, Trường ĐH Nông lâm TP Hồ Chí
Minh đã quyết định thôi học với 946 trường hợp. Đáng lưu ý, các khảo sát, công
bố trên mới chỉ dừng lại ở những trường ĐH danh tiếng, hàng đầu ở Việt Nam.
Vì lẽ đó, nhiều người có quyền nghi ngờ về chất lượng sinh viên tốt nghiệp khi
đầu vào tại các trường đại học dân lập,tư thục ở Việt Nam luôn ở mức thấp nhất
có thể nhằm thu hút đủ chỉ tiêu tuyển sinh mà không đảm bảo đầu vào chất
lượng như các trường đại học công lập. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân mà trường công lập được ưu tiên hơn trường dân lập.

20




Tình trạng Giáo dục đại học ở Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
của xã hội, liệu nguyên nhân chính có phải do các trường đại học thiếu kinh phí

đào tạo?
− Chúng ta có nên thúc đẩy phát triển chất lượng đào tạo giáo dục bằng cách để
các trường công lập tự chủ về tài chính không?
Trong tổng số 236 trường đại học, trong đó có 23 trường đại học công lập tự chủ
tài chính, mà nguồn thu chủ yếu từ học phí, đây cũng là lý do khiến nhiều trường
ĐH có xu hướng “vượt rào” tuyển sinh với số lượng vượt quá mức quy định,
hoặc ồ ạt tăng học phí.

Nguồn Bộ GD&ĐT
Từ biểu đồ trên ta thấy, trường đại học công lập chiếm tỷ trọng lớn nếu để tất cả
các trường đại học công lập tự chủ về tài chính thì không ít ngành học, hình thức
đào tạo, sinh viên ĐH có số lượng gia tăng một cách đáng kể nhưng tỷ lệ nghịch

với chất lượng đào tạo, nhà nước khó kiểm soát, không kiểm soát được, nếu
21


không bảo đảm chất lượng đào tạo, đáp ứng tiêu chí đào tạo bậc đại học thì chất
lượng nguồn lực của đất nước ngày càng giảm.
Chế độ hưởng lương viên chức của các giảng viên công lập liệu có ảnh hưởng



đến chất lượng đào tạo ?
Các giảng viên của các trường đại học công lập được hưởng lương theo quy định
của nhà nước (lương viên chức) tăng theo số năm kinh nghiệm, ngoài lương
giảng viên, các cán bộ có thể kiếm thêm thu nhập từ việc làm đề án, hay nghiên
cứu do nhà nước hỗ trợ. Bên cạnh đó các giảng viên còn được nhà nước hỗ trợ
kinh phí du học, học hỏi đào tạo chuyên môn, nâng cao chất lượng đào tạo.
Câu hỏi đặt ra là chế độ lương của giảng viên có đáp ứng đủ nhu cầu của giảng
viên và đảm bảo chất lượng giảng dạy
Một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng giáo dục đại học kém đó là



công tác kiểm định chất lượng ĐH lỏng lẻo, thiếu tính minh bạch ảnh hưởng
chất lượng đào tạo của các trường đại họ.

3.2.4. Đề xuất giải pháp
- Lợi ích= chi phí xã hội.




Nếu lợi ích > chi phí thì nhà nước cần mở rộng đầu tư
Nếu lợi ích < chi phí , tức là đầu tư quá mức thì nhà nước cần thu hẹp, hạn
chế ,điều chỉnh lại chính sách đầu tư, hỗ trợ cho hợp lý

Xét về thực tế, đo đc chi phí và lợi ích là việc rất khó. Ngoài những lợi ích đo đếm
đc, còn có những lợi ích vô hình như: giảm tội phạm, giảm vi phạm giao thông, nâng
cao mặt bằng dân trí, .... Ngoài chi phí hiện vật, đo đếm đc là tiền bạc, sức lao động,
trí óc, thời gian còn có những chi phí khác như chi phí cơ hội đầu tư cho lĩnh vực
khác.
Như vậy cần có các chính sách về giáo dục đào tạo đại học đảm bảo.

22


- Đầu tư đúng: Phải xác định rõ, chính xác đối tượng và mụjc tiêu mà nhà nước muốn
đầu tư. Ví dụ: Muốn đầu tư cho các sinh viên nghèo thì nhà nước đầu tư trực tiếp cho
các sinh viên này mà không cần thông qua các trường đại học, tránh trường hợp sinh
viên không phải hộ nghèo, có hoàn cảnh mà vẫn được nhận hỗ trợ với mục đích không
đúng. Mục tiêu đầu tư nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước thì
phải tập trung vào chất lượng giảng dạy, những ngành nghề đang cần thiết, phù hợp
với nhu cầu nhà tuyển dụng, nhu cầu xã hội, thị trường.
- Đầu tư đủ: Đầu tư ở đúng mức cần thiết để tránh trường hợp các trường đại học,cao
đẳng , sinh viên phụ thuộc vào nguồn đầu tư của nhà nước. Thiếu thì phải thêm, thừa
thì phải bớt. Thừa sẽ gây thất thoát và tạo điều kiện cho tham nhũng. Đầu tư đủ để
đảm bảo cho động lực phát triển .
- Đầu tư phù hợp: Đầu tư phù hợp, đảm bảo hiệu quả, công bằng với các lĩnh vực
khác,phân bổ nguồn vốn hợp lý giữa các ngành trong xã hội. Ví dụ như với tiềm năng
và nhu cầu của đất nước hiện tại nên phân bổ hợp lý, tập trung đầu tư vào những
ngành như giáo dục, CNTT, CNTP, năng lượng sạch, y tế
4.Kết luận

Việc xác định lợi ích và chi phí giáo dục Đại học gặp nhiều vấn đề và khó khăn. Do
vậy, việc đưa ra một chính sách phù hợp đảm bảo chất lượng luôn là vấn đề gây tranh
cãi, tuy nhiên một số đề xuất có thể đưa ra để đảm bảo cơ cấu Giáo dục Đại học phù
hợp
-

Nhà nước cần kiểm soát hoạt động quản lí và chất lượng các trường Đại
học



-

Đóng cửa các trường kém chất lượng
Kiểm soát chất lượng đầu vào chất lượng giản dạy vào của các

trường Đại học
• Cân đối các khối ngành
Học phí là nguồn thu chính cho các trường Đại học để đảm bảo công
bằng. Tuy nhiên nhà nước sẽ tài trợ trực tiếp cho Sinh viên thay vì hỗ trợ
các trường công

23



×