Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

LỊCH SỬ THĂNG LONG HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.86 KB, 14 trang )

Lịch sử Thǎng Long - Hà Nội
Khu vực kinh đô nằm giáp sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu và có chu vi hơn 30 km. Hệ thống
thành luỹ, cùng với 3 con sông và các con đê của chúng như là hào bao bọc quanh kinh đô. Kinh đô Thǎng
Long gồm có Hoàng Thành được bao quanh bằng bức tường thành, bên trong là hệ thống cung điện và sân
điện, Kinh Thành là nơi cư trú của các quan lại, tướng lĩnh, binh lính và nhân dân.
Thǎng Long thời Lý (1009 - 1225):
Cuối nǎm 1009, tại Hoa Lư (Ninh Bình) Lý Công Uẩn được lập làm vua, sáng lập vương triều Lý, nǎm
sau ông rời đô ra thành Đại La, đổi tên là Thǎng Long. Trên cơ sở thành Đại La, Lý Công Uẩn xây dựng
một kinh thành mới, về đại thể được giới hạn bằng ba con sông, phía đông là sông Hồng, phía bắc và phía
tây là sông Tô, phía nam là sông Kim Ngưu. Khu hoàng thành ở gần hồ Tây là nơi có các cung điện hoàng
gia và nơi thiết triều, tất cả được bao bọc bằng một toà thành xây gạch. Phần còn lại là khu dân sự, chia ra
làm các phường, trong đó có phường nông nghiệp, phường thủ công nghiệp và phường thương nghiệp, tách
biệt hoặc đan xen. Cả hai khu (hoàng thành và dân sự) được gọi là kinh thành, bao bọc bởi toà thành, phát
triển từ đê của 3 sông nói trên. Như vậy đê cũng là tường thành, và do đó sông là hào nước che chở.
Trong khu dân sự có những kiến trúc tôn giáo: Nǎm 1028 đền Đồng Cổ được xây trên bờ sông Tô, nǎm
1049 chùa Diên Hựu (Một Cột) được xây ở phía tây hoàng thành, nǎm 1057 xây tháp chùa Báo Thiên, nǎm
1070 xây Vǎn Miếu và nhà học cho thái tử sau phát triển thành Quốc Tử Giám, trung tâm giáo dục đào tạo.
Từ điện Giảng Võ trong hoàng thành, nǎm 1170, phát triển thành Xạ Đình (sân bắn) đặt ở phía nam kinh
thành...
Như vậy, chỉ trong khoảng trên một trǎm nǎm, sau khi trở thành kinh đô, Thǎng Long đã được xây dựng
trở thành trung tâm chính trị - kinh tế - vǎn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước. Thành lũy, đê điều, các
loại kiến trúc cung điện, chùa chiền, công trình vǎn hoá... tất cả hoà quyện với thiên nhiên tạo nên dáng vẻ
riêng của kinh thành.
Thǎng Long thời Trần (1226 - 1400):
Nhà Lý sau hai thế kỷ cầm quyền đã đến lúc suy thoái. Nhà Trần thay thế, chấm dứt tình trạng loạn ly,
thiết lập lại trật tự chính trị - xã hội. Nền vǎn minh Đại Việt tiếp tục phồn thịnh. Nhà Trần củng cố lại
hoàng thành, xây thêm cung điện. Kinh thành vẫn giữ gianh giới cũ nhưng đông đúc hơn. Nǎm 1230 hoạch
định các đơn vị hành chính, kinh đô chia làm 61 phường. Khu vực này còn tiếp nhận nhiều khách buôn và
cư dân nước ngoài đến sinh sống làm ǎn. Nǎm 1274 có 30 thuyền Trung Quốc xin cư trú, được cho ở tại
phường Nhai Tuân (khu vực Hoè Nhai, Hàng Than ngày nay) lập phố, mở chợ. Ngoài thương nhân người
Hoa có cả người Hồi hột (Ouigour), Chà Và (Java), sư người Hồ (ấn Độ)...


Thǎng Long còn tụ hội nhiều nhà vǎn hoá lớn: Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên) đặt cơ sở cho sự ra đời của
nền vǎn hoá tiếng Việt; Lê Vǎn Hưu, nhà sử học uyên bác; Các ông Vua anh hùng kiêm thi sĩ tài hoa Trần
Thánh Tông, Trần Nhân Tông; Các vị tướng kiêm nhà vǎn, nhà thơ, nhà ngôn ngữ Trần Quốc Tuấn, Trần
Quang Khải, Trần Nhật Duật. Và cũng sáng ngời thay tấm gương một nhà trí thức mô phạm cương trực,
tiết tháo, Chu Vǎn An...
Thǎng Long đời Trần không chỉ có xây dựng và sáng tạo nghệ thuật mà còn phải đánh giặc và đánh giỏi:
trong vòng 30 nǎm (1258 - 1288) ba lần quân Nguyên - Mông sang xâm lược, ba lần chúng vào được
Thǎng Long nhưng đều phải chuốc lấy sự thất bại.
Qua ba lần thử lửa, Thǎng Long vẫn đứng vững, xứng đáng là một đô thành anh hùng.
Thǎng Long dưới Triều Hồ (1400 - 1407):
Kinh đô mới được xây dựng ở tỉnh Thanh Hoá có tên là Tây Đô. Thǎng Long khi đó gọi là Đông Đô
Đến thời thuộc Minh (1407 - 1428): Đông Đô đổi tên gọi là Đông Quan
Thǎng Long dưới triều Lê (1428 - 1527):
Tháng 4/1428 Lê Lợi từ dinh Bồ Đề chuyển vào thành Đông Đô. Ngày 29 tháng tư ông lên ngôi Hoàng Đế.
Nǎm 1430 đổi Đông Đô thành Đông Kinh, nǎm 1466 đổi gọi là phủ Trung Đô, Thành cũ vẫn được dùng, có
mở thêm về phía Đông. Theo bản đồ vẽ nǎm 1490 thì trong cùng là một toà thành hình chữ nhật xây gạch
đó là Cấm thành, cửa chính là Đoan Môn. Bên trong có các cung điện mà thâm nghiêm nhất là điện Kính
Thiên. Nǎm 1467 có việc làm hai lan can bằng đá ở thềm điện (có thể đó là hai trong số bốn lan can đá trạm
rồng hiện còn ở trong khu thành cổ).
Thǎng Long thời Mạc - Lê Trung Hưng - Lê Mạt (1527 - 1788):
Nǎm 1527 triều Mạc (1527 - 1592) lên thay nhà Lê. Chính sách được nới rộng, trong thời gian đầu đã tạo
ra được tình trạng xã hội ổn định, công thương nghiệp nǎng động, Phật giáo và Đạo giáo phục hưng.
Đông Kinh trở lại tên gọi Thǎng Long, vẫn là kinh đô. Chỉ đổi tên huyện Vĩnh Xương thành Thọ Xương.
Một nét mới trong kiến trúc Thǎng Long là bên cạnh hoàng thành của vua Lê, xuất hiện phủ chúa Trịnh,
cơ quan đầu não đích thực của chính quyền trung ương bấy giờ. Đó là một toà thành hình chữ nhật mà hai
cạnh dài có thể là các đoạn đầu phố Quang Trung và phố Bà Triệu, hai cạnh ngang là phố Tràng Thi và phố
Trần Hưng Đạo.
Hồ Gươm lúc này còn rộng, gồm hai phần là Tả Vọng (khu vực hồ hiện nay) và Hữu Vọng (ngày nay là
khu vực từ Bách Hoá tổng hợp chạy xuống đầu phố Lò Đúc). Hồ rộng đến mức có thể thao diễn thuỷ chiến
nên còn có tên là hồ Thuỷ Quân. Nhiều công trình được xây quanh hồ và trên hồ: cung Tây Long (chỗ

khách sạn Sofitel), cung Khánh Thụy (đền Ngọc Sơn), đền Bà Kiệu... và Thǎng Long với tư cách một thành
thị vẫn có bộ mặt phát triển của kinh tế hàng hoá và sự mở rộng quan hệ ngoại thương, thế kỷ XVII - XVIII
là giai đoạn hưng thịnh của các thành thị trên qui mô cả nước.
Nhiều thành thị cũ trở nên thịnh vượng và một loạt thành thị thương cảng mới ra đời trong đó đứng đầu
vẫn là Thǎng Long.
Thǎng Long là một trung tâm vǎn hoá lớn. Người Thǎng Long tự hào về nếp sống thanh lịch với những
công trình nghệ thuật và kiến trúc: chùa, đền, đình, am, miếu với những tượng, hương án, y môn, cửa võng
chạm khắc tinh tế, có cả một dòng tranh Tự Tháp (một làng ven Hồ Gươm), sau đó là dòng tranh Hàng
Trống đặc sắc. Tên tuổi những danh nhân gốc Thǎng Long: Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn, Ngô Thì Sĩ,
Bùi Huy Bích... và các vị lập nghiệp ở đây như Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều đã làm cho vǎn hoá Thǎng
Long thêm sáng giá.
Thǎng Long thời Tây Sơn (1788 -1802):
Mùa hè nǎm 1786, quân Tây Sơn tiến ra Đàng Ngoài lật đổ chế độ chúa Trịnh. Ngày 21/7/1786 quân Tây
Sơn đã làm chủ Thǎng Long. Nền thống trị của họ Trịnh tồn tại 241 nǎm (1545 - 1786), trong đó có 194
nǎm ở Thǎng Long, bị lật nhào bằng chiến công này. Phong trào Tây Sơn đã kiểm soát cả nước, xoá bỏ tình
trạng chia cắt Đàng Trong- Đàng Ngoài kéo dài trên hai thế kỷ.
Cuối nǎm 1788 Thǎng Long và đất nước Đại Việt phải đương đầu với một cuộc xâm lược quy mô lớn
của đế chế Mãn Thanh.
Lúc này nhà Thanh đang cường thịnh muốn bành trướng xuống phía nam, đã phái 29 vạn quân xâm lược
Đại Việt. Quân Tây Sơn theo kế của Ngô Thì Nhậm bỏ Thǎng Long rút về giữ phòng tuyến Tam Điệp-Biện
Sơn chờ lệnh Nguyễn Huệ. Ngày 16-12-1788 quân Thanh vào Thǎng Long.
Tin đó bay về Phú Xuân (Huế), ngày 22-12-1788 Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy hiệu Quang Trung rồi lập
tức lên đường ra Bắc đuổi giặc. Ngày 15-1-1789 tập kết tại Tam Điệp. Đúng đêm giao thừa tết Kỷ Dậu (25-
1-1789) đại quân Tây Sơn vượt Tam Điệp và cuộc tấn công bắt đầu. Sáng mùng 5 Tết (30/1/1789) cùng
một lúc đánh đồn Ngọc Hồi và đồn Đống Đa. Trưa hôm đó đại thắng, quân Thanh tháo chạy, tướng chỉ huy
bỏ rơi cả ấn tín!
Cho đến nay, ở gò Đống Đa hàng nǎm vẫn mở hội để kỷ niệm chiến thắng rực rỡ này.
Quang Trung đóng đô ở Huế, Thǎng Long là thủ phủ của Bắc Thành (Bắc Bộ ngày nay). Tuy vậy hoàng
thành vẫn được chính quyền Tây Sơn tu sửa. Những chính sách khuyến nông, phát triển công thương của
Quang Trung đã tác động đến kinh tế vùng Thǎng Long.

Diện mạo của Kim Liên đẹp và thanh nhã bên hồ Tây như hiện còn là có từ thời Tây Sơn. Kiệt tác Phú
Tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng được viết trong thời này. Nhiều chuông to, đẹp cũng được đúc vào
thời này. Tác phẩm Ai Tư Vãn của bà Ngọc Hân, vǎn thơ của Phan Huy ích, Ngô Thì Nhậm, Đoàn Nguyên
Tuấn... đều mang nhịp đập của một thời Tây Sơn hào hùng.
Lịch sử Tây Sơn ngắn ngủi nhưng đã để lại những dấu ấn đậm đà trên trang sử Thǎng Long - Hà Nội.
Thǎng Long - Hà Nội dưới triều Nguyễn (1802 - 1945)
Nǎm 1802 Gia Long lên ngôi, đóng đô ở Phú Xuân, Thǎng Long vẫn là thủ phủ của Bắc Thành (có 11
trấn). Nǎm 1805, Gia Long ra lệnh phá thành cũ xây trên đó một toà thành mới mà nay vẫn còn nhận diện:
tường bắc giáp phố Phan Đình Phùng; tường tây giáp đường Hoàng Diệu; tường Nam giáp đường Trần Phú
và tường đông là đường Phùng Hưng. Như vậy thành mới tương đương với Cấm Thành đời Lê.
Nǎm 1831, Minh Mạng cải cách bộ máy hành chính, bỏ các trấn chia cả nước làm 29 tỉnh, trong đó có
tỉnh Hà Nội gồm thành Thǎng Long, huyện Từ Liêm của trấn Tây Sơn và ba phủ ứng Hoà, Thường Tín, Lý
Nhân của trấn Sơn Nam.
Các công trình vǎn hoá và sinh hoạt vǎn hoá cũng có những biến đổi. Quốc Tử Giám dời vào Huế, Vǎn
Miếu thuộc tỉnh Hà Nội quản lý. Trường thi Hương ở chỗ nay là phố Tràng Thi. Phường Hoè Nhai và sau
đó là phố Hàng Giấy là nơi vui chơi giải trí, đàn ca. Một số cửa ô được xây dựng lại, trong đó có ô Quan
Chưởng (1817).
Cửa Ô
Hà Nội với bao nhiêu cửa ô, chúng ta được biết qua bài hát của Vǎn Cao có câu: "Nǎm cửa ô đón mừng
đoàn quân tiến về.........", và cũng chỉ biết hiện nay còn một cửa ô duy nhất còn lại cái cổng ba cửa như
cổng thành.
Theo nhà sử học Biệt Lam Trần Huy Bá trích bản đồ Hà Nội nǎm Minh Mạng 12 (1831) thì Hà Nội có 16
cửa ô, đặt tên theo làng theo tổng. Mỗi cửa ô thời ấy có lẽ là một chiếc cổng ngày mở đêm đóng bởi mỗi
phường như một làng, khép kín, có cây có rào, có tuần đinh canh phòng để ngǎn ngừa đạo chích và dè
chừng hoả hoạn.
Người Hà Nội từ giữa thế kỷ XX trở đi đã không còn nhiều người biết đến những cửa ô đã mai một vào
thời gian, chìm đi trong quá khứ. Những Tây Luông (sau Nhà hát Lớn) Thuỵ Chương (đầu Quán Thánh-
Thuỵ Khuê) Đông Yên (Hàng Cau-Hàng Bè) Mỹ Lộc (đầu Hàng Bạc) Trừng Thanh (Hàng Mắm) Phúc
Lâm (Hàng Đậu) Thạch Khối (Hàng Than) Yên Tỉnh (dốc Hàng Than) Nhân Hoà (Hàn Thuyên).... rồi chỉ
còn mang máng như những hoài niệm đẹp, đó là những cửa ô Yên Phụ, Đồng Lầm, Chợ Dừa, Cầu Dền,

Đống Mác, Cầu Giấy... và cửa ô còn lại cái cổng duy nhất: Ô Quan Chưởng.
Ô Đồng Lầm: Chỗ ngã tư Đại Cồ Việt - Kim Liên
Ô Chợ Dừa: Về phía tây, Nơi có cái chợ nhỏ bé từng một thời họp dưới bóng dừa lao xao bát ngát, dẫn tới
Trại Tóc, Trại Nhãn... xuôi sang phía bên kia là con đê La Thành.
Ô Cầu Dền: Phố Huế nối với Bạch Mai
Ô Đông Mác: ở tận cùng phố Lò Đúc, chỗ gặp phố Lương Yên, ngày xưa là một cửa ô. Cửa ô đó mở ở
đúng góc Đông nam của toà thành đất vòng giữa bao quanh khu đông dân cư của kinh thành Thǎng Long
xưa và có nhiều tên gọi khác nhau, tên Đông Mác là tên gọi nôm na của cửa ô này.
Ô Cầu Giấy:
Ô Quan Chưởng: Ngay cạnh chợ Đồng Xuân, một cửa ô duy nhất còn lại cái cổng ba cửa như cổng thành,
có vọng lầu, bằng gạch vồ nâu đỏ, có cả tấm bia đá của Tổng đốc Hoàng Diệu cho dựngnǎm 1882 cấm ngặt
binh lính quan nha không được sách nhiễu người dân qua lại đây vào thành. Cổng ô được xây dựng nǎm
1749, hơn hai trǎm nǎm rồi, là chứng nhân của lịch sử và tấm bia đá kia trǎm nǎm chưa mòn..........
Ô Yên Hoa: Nay là Yên Phụ, ô Yên phụ là nơi mà đào Nhật Tân, quất Nghi Tàm, hoa Tứ Tống ... phải
vượt qua mà vào Hà Nội....
BẢO TỒN DI SẢN KIẾN TRÚC TRONG QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN THỦ ĐÔ
Do đặc điểm của địa hình và một quá trình phát triển lâu dài, thủ Đô Hà Nội được thừa hưởng một quỹ
vǎn hoá rất phong phú, đó là các thắng cảnh và di tích lịch sử. Hiếm có đô thị nào mà số lượng các di tích
lịch sử được Nhà nước xếp hạng lên đến con số 246, riêng các quận nội thành có 86 di tích và các huyện
ngoại thành có 160 di tích (bình quân mỗi quận, huyện có 20-30 di tích).
Đây là những dấu tích của một quá trình phát triển vǎn hoá lâu dài mà Hà Nội là một điểm hội tụ quan
trọng. Những di tích ấy rải ra theo chiều thời gian và cũng được phân bố rộng rãi trong không gian. Các di
tích rất cổ thì cũng bị mất mát đi nhiều do khắc nghiệt của thời gian, của khí hậu và của chiến tranh, nhưng
lác đác cũng còn nhiều dấu tích từ đời Lý, Trần, Lê.... Nhưng dù cổ xưa hay gần đây, đều là những di vật
Photo: Lê Vượng
quý giá của quá khứ, đó là những trang sách để thế hệ sau hiểu thêm về thế hệ trước và để có thêm lòng tự
hào và một nền vǎn hoá dân tộc. Sự phân bố trong không gian của những di tích giúp chúng ta hiểu thêm về
sự di động, chuyển hoá cũng như cấu trúc của những khu dân cư cũ, điều rất cần thiết khi nghiên cứu về
lịch sử phát triển các khu dân cư và lịch sử đô thị nói chung.
Trong số các di sản có giá trị phải kể đến trước tiên là những kiến trúc ở ngay trung tâm đô thị và lại ngay

trên mặt nước hồ, đó là đền Ngọc Sơn cùng với kiến trúc phù trợ ở xung quanh là Cầu Thê Húc và đình
Trấn Ba. Giá trị lịch sử và kiến trúc của đền không hẳn thuộc loại cao nhất, nhưng trong đô thị Hà Nội khó
có di tích nào sánh nổi về lượng người đến thǎm cũng như "tần suất" xuất hiện của di tích trong các tác
phẩm nghệ thuật, nhất là nhiếp ảnh, hội hoạ, đặc biệt trên các bưu ảnh. Chính là nhờ nằm trong một không
gian đô thị đặc biệt mà giá trị của di tích đã tǎng lên bội phần khiến cho bất cứ ai đến thủ đô đều không bỏ
qua.
Cũng thuộc loại di sản có giá trị còn phải kể đến nhiều di tích khác như khu Vǎn Miếu Quốc Tử Giám
đứng một mình trên cả một ô phố. Chùa Một cột nằm trên cả một khu cảnh quan đô thị được bảo vệ cẩn
mật, đền Quán Thánh trên góc phố thoáng đãng gần hồ Trúc Bạch, chùa Trấn Quốc trên mỏm đất nhô ra
Hồ Tây và cũng gần như vậy là chùa Kim Liên, phủ Tây Hồ ...
Trong khi phố cổ và khu phố cũ của Hà Nội còn rất nhiều đình, chùa được nhân dân thường xuyên đến
bày tỏ lòng thành kính. Tuy về cảnh quan có bị hạn chế do tình trạng bị nhà cửa vây quanh dày đặc nhưng
nhiều công trình vẫn được giữ gìn tốt như chùa Bà Đá (phố Nhà Thờ) đền Lý Quốc Sư (Phố Lý Quốc Sư)
chùa Cầu Đông (phố Hàng Đường) chùa Chân Tiên (phố Bà Triệu)...
Nhiều di tích ở vùng ven nội có không gian thoáng đãng nên có điều kiện để bảo vệ tốt như đền Hai Bà
Trưng (Đồng Nhân) ở quận Hai Bà, đền Voi Phục ở công viên Thủ Lệ, chùa Láng (phường Láng Thượng
quận Đống Đa)...
Một đặc điểm của cấu trúc không gian đô thị Hà
Nội là có nhiều mặt nước và cây xanh. Người ta
thường ví Hà Nội là thành phố của sông hồ và cây
cối. Mặt nước, sông, hồ đã trở thành thân quen với
người Hà Nội và gây ấn tượng tốt đẹp với du khách.
Gắn bó với khu phố cũ Hồ Gươm, xa hơn có các hồ
Bảy Mẫu, Thủ Lệ, Thanh Nhàn, Linh Đàm với diện
tích trên 1000ha tạo nên một hệ thống hồ.
Phía Đông Bắc Hà Nội có Đông Anh, Cổ Loa vùng đất lịch sử có gần 300ha thành luỹ xưa cùng với gần
5000ha của các hồ Vân Trì ở Bắc cầu Thǎng Long sẽ dễ dàng tạo các mặt nước thoáng và vườn cây, vườn
rừng phục vụ cho cải tạo môi trường cảnh quan và du lịch, thể thao.
Phía Tây bắc Hà Nội dự kiến có các cụm đô thị Xuân Mai - Hoà Lạc - Sơn Tây - Miếu Môn. Vùng này có
nhiều khu đồi thoải, dễ dàng xây dựng đô thị và nhiều cây xanh mặt nước như hồ Đồng Mô-Ngải Sơn-núi

Ba Vì, Suối Hai... đất đai có tới hàng chục ngàn ha cho phát triển công nghiệp, dân cư.
Photo: Lê Vượng

×