Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

luận văn thạc sĩ đánh giá tác dụng điều trị của viên nang cứng từ rau sam (portulaca oleracea l ), rau dền gai (amaranthus spinosus l ) trên bệnh trĩ nội độ II chảy máu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (824.51 KB, 98 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh trĩ là một bệnh thường gặp với tỷ lệ mắc cao trong cộng đồng và là
bệnh đứng hàng đầu trong các bệnh lý hậu môn trực tràng [1]. Ở Áo, theo
Riss S. Weiser FA và cộng sự nghiên cứu năm 2008- 2009 về sự phổ biến của
bệnh trĩ trong một chương trình chăm sóc sức khỏe thì có 380/970 người tham
gia điều tra mắc bệnh trĩ (38.93%) [2]. Theo Kim HS, Baik SJ và cộng sự
nghiên cứu tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ đối với các bệnh đường tiêu hóa ở
người Mỹ gốc Hàn và người Hàn Quốc, cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở 2 nhóm là
29.4% so với 21.3% [3].
Ở Việt Nam, theo nhiều báo cáo, bệnh trĩ chiếm tỷ lệ cao trong cộng
đồng. Trần Khương Kiều điều tra theo phương pháp dịch tễ học số người mắc
bệnh trĩ là 76.97% ± 3%[4]. Theo thống kê tại phòng khám hậu môn trực
tràng của khoa phẫu thuật tiêu hóa Bệnh viện Việt Đức, bệnh trĩ chiếm tỷ lệ
45% số bệnh nhân đến khám về hậu môn trực tràng. Điều tra dịch tễ học của
Nguyễn Mạnh Nhâm và cộng sự ở 5 tỉnh miền Bắc phát hiện được 1446/2651
người dân mắc bệnh trĩ chiếm tỷ lệ 55%[5].
Chẩn đoán bệnh trĩ dựa vào các triệu chứng lâm sàng và soi hậu môn
bằng ống cứng. Tùy theo mức độ của bệnh (độ trĩ, tình trạng chảy máu,
viêm...), tình trạng toàn thân, hoàn cảnh của bệnh nhân, trang thiết bị y tế của
cơ sở khám chữa bệnh và kinh nghiệm điều trị của thầy thuốc mà chỉ định
điều trị khác nhau. Theo Y học hiện đại điều trị bệnh trĩ có thể bằng nội khoa,
thủ thuật, phẫu thuật. Các phương pháp điều trị theo Y học cổ truyền cũng rất
đa dạng: gồm các phương pháp dùng thuốc (uống thuốc, ngâm thuốc, đắp
thuốc, bôi thuốc) và không dùng thuốc (châm cứu, day ấn huyệt). Có nhiều
bài thuốc, vị thuốc y học cổ truyền đã và đang được áp dụng điều trị bệnh trĩ
đem lại hiệu quả tốt trong đó có các vị thuốc như diếp cá, rau sam, dền gai,
hòe hoa…Bên cạnh các bài thuốc uống trong cổ phương lâu đời, gần đây với



2

ý tưởng tìm kiếm, phát triển nguồn dược liệu Việt Nam, nhiều chế phẩm
thuốc y học cổ truyền đã được đưa vào nghiên cứu, sản xuất và cung cấp cho
công tác điều trị. Trên thị trường thuốc điều trị trĩ bằng y học cổ truyền hiện nay
có khá nhiều các loại là thực phẩm chức năng hỗ trợ điều trị bệnh lý này, như An
trĩ vương dùng lá dấp cá, hoa hòe, đương quy… hay như Tottri là chế phẩm
nguồn gốc từ bài bổ trung ích khí. Nhằm mục đích hiện đại hóa Y học cổ truyền
đồng thời góp phần tăng hiệu quả điều trị bệnh trĩ và dễ sử dụng, công ty trách
nhiệm hữu hạn Thiên dược đã sản xuất viên nang cứng từ rau sam (Portulaca
Oleracea L.), rau dền gai (Amaranthus Spinosus L.), có thành phần chính từ hai
dược liệu là rau sam và dền gai. Đây là những dược liệu rất thông dụng và phổ
biến trong cộng đồng. Viên nang cứng đã được nghiên cứu độc tính cấp và bán
trường diễn tại bộ môn Dược lý trường Đại học Y Hà Nội. Kết quả nghiên cứu
trên động vật thí nghiệm và trên người tình nguyện khỏe mạnh cho thấy chế
phẩm có tính an toàn cao. Hiện nay công ty Thiên dược tiếp tục cải tiến phân
đoạn và phối ngũ thuốc để cho tác dụng tốt hơn. Do vậy, chúng tôi tiếp tục tiến
hành nghiên cứu này nhằm đánh giá tác dụng của viên nang cứng từ rau sam
(Portulaca Oleracea L.), rau dền gai (Amaranthus Spinosus L.) trên lâm sàng
điều trị bệnh trĩ với hai mục tiêu cụ thể sau:

1.

Đánh giá tác dụng điều trị của viên nang cứng từ rau sam (Portulaca
Oleracea L.), rau dền gai (Amaranthus Spinosus L.) trên bệnh trĩ nội
độ II chảy máu.

2.

Theo dõi tác dụng không mong muốn của viên nang cứng từ rau sam

(Portulaca Oleracea L.), rau dền gai (Amaranthus Spinosus L.) trên
lâm sàng và cận lâm sàng.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. NGUYÊN NHÂN, CƠ CHẾ BỆNH SINH CỦA TRĨ THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI

1.1.1. Giải phẫu và sinh lý ống hậu môn
1.1.1.1. Giải phẫu ống hậu môn
Ống hậu môn (đoạn trực tràng tầng sinh môn) là phần trực tràng đi ngang
qua phần sau của tầng sinh môn. Được giới hạn ở trên bởi giải mu- trực tràng
của cơ nâng hậu môn, phía dưới là bó dưới da của cơ thắt ngoài. Ống hậu môn
hợp với phần thấp của trực tràng (bóng trực tràng) một góc 90°- 100° chạy
xuống dưới ra sau và đổ ra da qua lỗ hậu môn ở tam giác đáy chậu sau. Ống
hậu môn dài 3-4 cm, đường kính khoảng 3 cm, đóng mở chủ động [6],
[7]. Từ ngoài vào trong, ống hậu môn được cấu tạo bởi các lớp cơ, lớp niêm
mạc và hệ thống mạch máu thần kinh[6],[7].

Hình 1.1 Giải phẫu ống hậu môn
(Nguồn Atlas giải phẫu người Frank Neetter)


4

Cơ vùng hậu môn: Vùng hậu môn có nhiều cơ tạo thành hình thể ống hậu
môn và góp phần quan trọng trong hoạt động chức năng của hậu môn [6],[8] :
*Cơ thắt ngoài.

*Cơ thắt trong.
*Cơ nâng hậu môn.
*Cơ dọc dài phức hợp.
Lớp niêm mạc hậu môn: là lớp biểu mô có 3 lớp từ trong ra ngoài, bắt
đầu bằng lớp tế bào trụ đơn tiếp đến biểu mô vuông tầng, lát tầng và kết thúc
là biểu mô giả da ở đoạn cuối cùng của ống hậu môn [8].
Đường lược: là mốc quan trọng trong phẫu thuật hậu môn trực tràng,
cách rìa hậu môn da khoảng 1.5- 2 cm, đường lược tạo nên bởi sự tiếp nối các
van hậu môn, xen giữa là các cột trực tràng vì vậy nhìn đường lược có hình
răng cưa [8].
Mạch máu của hậu môn- trực tràng:
- Động mạch: có ba động mạch cấp máu cho vùng này.
+ Động mạch trực tràng trên (động mạch trĩ trên): là nhánh tận của
động mạch mạc treo tràng dưới [9].
+ Động mạch trực tràng giữa (Động mạch trĩ giữa): Động mạch trực
tràng giữa bên phải và bên trái xuất phát từ động mạch hạ vị, cấp máu cho
phần dưới bóng trực tràng và phần trên của ống hậu môn [9],[10].
+ Động mạch trực tràng dưới (Động mạch trĩ dưới): Động mạch trực
tràng dưới bên phải và bên trái xuất phát từ động mạch thẹn trong cấp máu
cho hệ thống cơ thắt, các nhánh tận cấp máu cho 1/3 dưới hậu môn và vùng
da hậu môn [9],[10].
. - Tĩnh mạch: gồm đám rối tĩnh mạch trĩ trong và đám rối tĩnh mạch trĩ
ngoài.


5

+ Đám rối tĩnh mạch trĩ trong: máu từ đám rối tĩnh mạch trĩ trong
được dẫn về tĩnh mạch trực tràng trên, đổ về tĩnh mạch mạc treo tràng
dưới (hệ cửa). Khi đám rối tĩnh mạch trĩ trong giãn tạo nên trĩ nội [10].

+ Đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài: máu từ đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài đổ vào
tĩnh mạch trực tràng giữa và dưới rồi đổ vào tĩnh mạch hạ vị (hệ chủ), đám rối
tĩnh mạch trĩ ngoài giãn tạo ra trĩ ngoại. Hai đám rối này được phân cách nhau
bởi dây chằng Parks, khi dây chằng này thoái hóa mất độ bền chắc sẽ trùng ra,
hai đám rối sát liền nhau, trĩ nội sẽ mất liên kết với trĩ ngoại tạo nên trĩ hỗn
hợp. Khi trĩ hỗn hợp to ra có thể không nằm riêng rẽ nữa mà liên hết nhau tạo
nên trĩ vòng [10].
+ Các nối thông động- tĩnh mạch: Durett cho thấy có sự thông thương
giữa động- tĩnh mạch ở lớp dưới niêm mạc của ống hậu môn và máu ở trĩ là
máu động mạch nên tác giả đưa ra lý thuyết thông động tĩnh mạch góp phần
gây bệnh [8].
Thần kinh: Hậu môn trực tràng được chi phối bởi thần kinh sống và thần
kinh thực vật [10]. Hoạt động bài tiết phân thực hiện được tự chủ thông qua
sự chi phối của hai hệ thần kinh này.
- Thần kinh sống: hệ thần kinh sống có dây thần kinh hật môn, tách từ
dây cùng III và dây cùng IV. Dây này vận động cơ thắt hậu môn và cảm giác
vùng quanh lỗ hậu môn, phẫu thuật làm tổn thương dây này sẽ gây nên mất tự
chủ khi đại tiện.
- Thần kinh thực vật: hệ thần kinh thực vật có các sợi thần kinh tách từ
đám rối hạ vị. Các dây giao cảm từ các hạch giao cảm thắt lưng. Các sợi phó
giao cảm xuất phát từ hai nguồn. Các sợi tận cùng của dây thần kinh X đi qua
đám rối mạc treo tràng dưới, qua dây cùng trước và dây hạ vị đi xuống. Các
nhánh này vận động và chỉ huy việc tiết dịch trực tràng. Các dây cùng tách ra


6

từ đoạn cùng của tủy sống và mượn đường đi của rễ trước thần kinh cùng II,
III, IV tới đám rối hạ vị chi phối cho các tạng niệu dục, điều này giải thích
cho các rối loạn tiểu tiện ở các bệnh nhân có phẫu thuật ở vùng hậu môn trực

tràng do sự chi phối của thần kinh thực vật [11],[12].
1.1.1.2. Sinh lý
Sự tự chủ hậu môn: khả năng tự chủ của hậu môn tùy thuộc vào một
chuỗi quá trình phức tạp, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Hiện nay với những
hiểu biết về sinh bệnh học bệnh trĩ, các nhà hậu môn học công nhận đám rối
tĩnh mạch trĩ là trạng thái sinh lý bình thường, tạo nên lớp đệm ở ống hậu
môn, giúp kiểm soát sự tự chủ của đại tiện [12],[13].
Cơ chế đại tiện: ống hậu môn với chức năng sinh lý chính là đào thải
phân bằng động tác đại tiện. Hoạt động sinh lý bình thường của ống hậu môn
hoàn toàn tự chủ [12],[13].
Khi muốn đi đại tiện cơ thể phải hủy bỏ cơ chế giữ phân, phân xuống đến
trực tràng, áp lực trong bóng trực tràng đến ngưỡng (45 mmHg) thì có cảm
giác buồn đại tiện: phản xạ ức chế cơ thắt ngoài và bó mu trực tràng xuất hiện
làm cho 2 cơ này dãn ra, kết hợp với tư thế ngồi gấp đùi 90 sẽ làm mất góc
hậu môn trực tràng; động tác rặn làm tăng áp lực trong ổ bụng để đẩy phân
xuống, lúc này hiệu ứng van không còn nữa áp lực trực tràng tăng cao vượt
quá sức cản của ống hậu môn, phân được tống ra ngoài [12],[13].
1.1.2. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của trĩ theo y học hiện đại
1.1.2.1. Nguyên nhân
Nguyên nhân của bệnh trĩ chưa được xác định một cách rõ ràng. Đa số các
tác giả cho rằng bệnh trĩ xuất hiện trên những cơ địa đặc biệt (di truyền), thể
trạng nhất định, do những yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh gây ra như [13],[15]:

-Yếu tố gia đình và đẻ nhiều.
-Yếu tố nòi giống (người Do Thái bị trĩ nhiều hơn).


7

-Yếu tố nghề nghiệp (phải đứng, ngồi lâu...), một số môn thể thao như

đua ngựa...
-Yếu tố tâm sinh lý: bực bội, buồn vui quá mức, lao động trí óc căng thẳng...

-Rối loạn lưu thông ruột.
-Tuổi: tuổi càng nhiều càng dễ mắc.
-Giới: nữ nhiều hơn nam, ở Việt Nam thì ngược lại.
-Các bệnh của hậu môn, trực tràng: viêm đại tràng mạn, viêm loét đại
trực tràng chảy máu, lỵ amip mạn...
-Chế độ ăn không điều độ.
-U hậu môn trực tràng và tiểu khung làm cản trở máu hậu môn trực tràng
trở về cũng là nguyên nhân của trĩ.
-Thai kỳ: trĩ thường gặp lúc phụ nữ đang mang thai, sau mỗi lần mang
thai, trĩ đều nặng hơn.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác như: béo phì, đái tháo đường là những
yếu tố thuận lợi dễ phát sinh ra bệnh trĩ.
1.1.2.2. Cơ chế bệnh sinh
Hiện nay có 2 thuyết về nguồn gốc phát sinh ra bệnh trĩ được nhiều
người chấp nhận: Thuyết cơ học và thuyết huyết động[13],[15].
Thuyết cơ học: Trĩ nội được giữ tại chỗ đúng vị trí nhờ các dải xơ cơ có
tính đàn hồi. Khi có hiện tượng thoái hóa keo thì các dải này nhẽo dần đến đứt
hoặc tình trạng các mô lỏng lẻo. Thành tĩnh mạch không được các tổ chức bao
quanh nâng đỡ sinh ra trĩ. Hiện tượng thoái hóa này bắt đầu từ độ tuổi 20 bởi
vậy bệnh trĩ ít thấy ở trẻ em. Khi đã có sự trùng nhẽo đứt các dây chằng, tổ
chức nâng đỡ và áp lực trong các khoang bụng tăng lên do táo bón kinh niên,
rối loạn đại tiện hay các nguyên nhân khác thì các búi trĩ nội phồng to bị đẩy
ra ngoài hậu môn. Lúc đầu trĩ còn nằm trong lòng hậu môn nhưng khi các dải
treo đứt hẳn chúng sa ra ngoài và thường xuyên nằm ngoài ống hậu môn.


8


Thuyết huyết động: được mô tả theo các nghiên cứu mô học và quan sát trên
kính hiển vi điện tử, thuyết này liên quan đến cả tuần hoàn động- tĩnh mạch. Diện

vi tuần hoàn của ống hậu môn chứa các Shunt động- tĩnh mạch có khả năng phản
ứng với các kích thích nội tiết hoặc sinh lý thần kinh. Các Shunt động- tĩnh mạch
ở tuần hoàn nông dưới niêm mạc đóng lại khi nghỉ ngơi cho phép sự trao đổi máu
trong mô. Khi chúng nở ra đột ngột dưới tác động của các kích thích làm gia tăng
lượng máu trong động tĩnh mạch trĩ, kết quả là mô không được nuôi dưỡng. Hiện

tượng này đi kèm theo sự co thắt mạch và làm gia tăng áp lực đột ngột và giãn
đám rối tĩnh mạch trĩ. Điều này giải thích tại sao chảy máu trong bệnh trĩ lại là
máu đỏ tươi do đám rối tĩnh mạch trĩ giãn ra và chứa đầy máu động mạch.
Các triệu chứng lâm sàng có thể nặng lên do viêm nhiễm và huyết khối, khi
dòng máu tĩnh mạch bị tắc nghẽn bởi gắng sức do táo bón do trĩ sa.
1.1.2.3. Bản chất của trĩ
Kết quả các công trình nghiên cứu về mạch máu và mô học cho thấy trĩ
là một cấu trúc mạng mạch bình thường được nhiều tác giả công nhận [15].
Trong điều kiện bệnh lý nào đó, một động mạch bị tắc nghẽn thì mạng mạch
sẽ đóng vai trò bù trừ mà bình thường tầm quan trọng của nó ít được biết đến.
Khi mất khả năng bù trừ sẽ nảy sinh ra bệnh trĩ và xuất hiện triệu chứng chảy
máu gặp trong bệnh trĩ [10].
1.1.2.4. Giải phẫu bệnh học
Trĩ nội: bắt đầu từ khoang cạnh hậu môn dưới niêm mạc ở đám rối trĩ
trong (hệ tĩnh mạch cửa). Như vậy, trĩ nội là đám rối mạch máu ở các đệm
Thomson phì đạo có nguồn gốc trên đường lược và được phủ bởi niêm mạc
(rất quan trọng để phân biệt với trĩ ngoại khi bị sa xuống dưới- khi bị sa
xuống dưới trĩ nội có thể nằm ở dưới đường lược nhưng vẫn nhận ra được vì

nó được che phủ bởi lớp niêm mạc). Các búi trĩ này thường xuất hiện ở vị trí

3h, 8h,11h (tư thế nằm ngửa) và các búi phụ (thường nhỏ hơn) nằm rải rác


9

xen lẫn hoặc hòa nhập với các búi trĩ chính. Khi các búi trĩ dầy chi chít chiếm
lớn hơn 2/3 chu vi lỗ hậu môn gọi là trĩ vòng [10].
Về vi thể: búi trĩ gồm các yếu tố huyết quản bị giãn, thành mạch dầy lên
có những kẽ hở thông giữa động mạch với tĩnh mạch, nhiều tổ chức xơ chun
như tổ chức hang [13],[15].
1.1.2.5. Chẩn đoán
Bệnh trĩ lúc mới xuất hiện thường biểu hiện không rõ ràng. Chẩn đoán
bệnh chủ yếu dựa vào các dấu hiệu lâm sàng và soi ống hậu môn [6].
*Biểu hiện lâm sàng: gồm 2 triệu chứng hay gặp nhất[15]:
- Đại tiện ra máu tươi.
- Sa trĩ.
*Thăm và soi hậu môn
- Thăm khám: nhìn có thể thấy trĩ ngoại (da thừa), sa búi trĩ- niêm mạc
hậu môn.
- Thăm trực tràng là động tác bắt buộc với bệnh nhân trĩ.
- Soi trực tràng bằng ống cứng để đánh giá tổn thương của bệnh trĩ, qua
soi hậu môn trực tràng bằng ống cứng để phân độ trĩ nội và cho phép đánh giá
tổn thương khác như nứt kẽ, polyp trực tràng, viêm loét trực tràng và đặc biệt
là phát hiện ra ung thư trực tràng về đại thể[15].
* Phân độ trĩ nội: gồm 4 độ:
- Độ 1: Đại tiện ra máu tươi chiếm 80-90%, chỉ đôi khi có hiện tượng
khó chịu, không thoải mái. Khám qua nội soi trực tràng bằng ống cứng: các
búi trĩ nhô lên thấy cương tụ máu nhưng không bị sa tụt khi rặn.
- Độ 2: triệu chứng chính là đại tiện ra máu tươi, búi trĩ sa ra ngoài, khi
đại tiện xong tự co lên. Soi hậu môn bằng ống cứng: búi trĩ lấp ló ở hậu môn,

có thể kèm theo tiết dịch gây ẩm ướt hậu môn.


10

- Độ 3: xuất hiện các búi trĩ nội khá lớn, đôi khi không còn rõ ranh giới
giứa các búi trĩ nội và ngoại như vậy trở thành một búi trĩ hỗn hợp. Khi đại
tiện trĩ lòi ra ngoài hậu môn không tự co lên, bệnh nhân phải dùng tay đẩy búi
trĩ lên.
- Độ 4: Các búi trĩ không tự co lên được chỉ một gắng sức nhẹ cũng làm
cho búi trĩ sa lồi ra, búi trĩ thường xuyên nằm ngoài hậu môn, gây ẩm ướt,
chảy máu, tiết dịch mất vệ sinh rất khó chịu.
1.2. QUAN NIỆM CỦA Y HỌC CỔ TRUYỀN VỀ BỆNH TRĨ

1.2.1. Nguyên nhân gây bệnh
Trong “Hoàng đế nội kinh”, Tố Vấn Bạch Thoại giải đã ghi chép nguyên
nhân sinh ra bệnh trĩ là do “cân mạch hoành giải trường tích thành trĩ”
(nguyên nhân sinh ra trĩ là do cân mạch bị dãn rộng) [20]. Ngoài ra phát sinh
bệnh trĩ còn do âm dương khí huyết không điều hòa, bên ngoài do lục dâm,
bên trong do thất tình gây nên [21].
Trong “Trung y ngoại khoa học giảng nghĩa” tóm tắt có các loại nguyên
nhân sau:
-Nguyên nhân về ăn uống: ăn quá nóng, no đói thất thường, ăn đồ ăn
sống lạnh, uống nhiều rượu, ăn béo ngậy, ăn quá cay.
-Nguyên nhân về chế độ sinh hoạt: đứng lâu, ngồi lâu, vác nặng đi xa,
phòng sự quá độ.
-Nguyên nhân khác: ỉa chảy mạn, táo bón kéo dài, thể chất quá suy yếu,
mang thai nhiều lần [20].
Các nguyên nhân trên có thể làm khí huyết loạn hành, kinh lạc giao cắt
dẫn đến huyết ứ, trọc khí hạ trú hậu môn gây nên trĩ.

Sau mắc các bệnh làm rối loạn chức năng của các tạng phủ như can, tâm,
tỳ, thận (can khắc tỳ, can tâm thận âm hư, tâm tỳ hư...) gây khí hư, huyết ứ
làm trung khí hư hạ hãm sinh ra trĩ.


11

1.2.2. Phân loại trĩ theo Y học cổ truyền
* Theo y văn kinh điển:
Hải thượng lãn ông chia bệnh trĩ thành 5 loại: mẫu trĩ, tẫn trĩ, khí trĩ, tửu
trĩ, huyết trĩ [21].
Tuệ Tĩnh phân chia trĩ làm 5 loại: Trĩ ngoại, trĩ nội, thử trĩ, nung sang,
trùng trĩ [22].
Ngoại khoa Đại thành (Kỳ khôn đời Thanh) chia trĩ làm 24 loại: tạng ung
trĩ, tỏa giang trĩ, phiếm hoa trĩ, liên hoa trĩ, trùng điệp trĩ, nội ngoại trĩ, đởm
huyền trĩ, huyết tiễn trĩ, khí tráng trĩ, diên giang trĩ, giang mai trĩ, tử mẫn trĩ,
thư hùng trĩ, lăng giác trĩ, bồ đào trĩ, hạnh đào trĩ, thạch lựu trĩ, anh đào trĩ,
ngưu mẫu trĩ, kê quán trĩ, kê tâm trĩ, thử vĩ trĩ.
* Hiện nay đa phần các sách Y học cổ truyền chia trĩ làm 3 thể theo
nguyên nhân gây bệnh:
- Trĩ thể thấp nhiệt: trĩ sưng, nóng, đỏ, loét chảy mủ hoặc chảy nước vàng,
có thể sốt, táo bón, tiểu tiện vàng, mạch hoạt sác, lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng dày.
- Trĩ thể huyết nhiệt huyết ứ: trĩ nằm trong hậu môn, cảm giác đau tức

nặng hậu môn, đại tiện máu tươi, có thể có táo bón, mạch tế sác, lưỡi có điểm
ứ huyết.
- Trĩ thể khí huyết hư: búi trĩ lồi ra ngoài, ra máu kéo dài, người gầy yếu

mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, ù tai, hay quên, sắc mặt xanh xao, đoản hơi,
mạch trầm tế.

1.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ TRĨ

1.3.1. Các phương pháp điều trị trĩ theo YHHĐ
Nguyên tắc [15]:
- Bệnh trĩ có nhiều mức độ tổn thương, nhiều hình thái khác nhau do đó
phải chọn phương pháp điều trị thích hợp


12

- Phải điều trị các rối loạn được coi là yếu tố thuận lợi gây bệnh trĩ.
1.3.1.1. Điều trị bảo tồn (Nội khoa): là sự lựa chọn ban đầu trong điều trị trĩ
*Ngăn chặn yếu tố thuận lợi:
- Chế độ ăn uống: chế độ ăn nhiều chất xơ giúp phòng ngừa táo bón và
làm giảm triệu chứng của bệnh trĩ [12]. Uống nhiều nước đều đặn. Tránh dùng
các thức ăn đồ uống gây táo bón, gây kích thích.
- Chế độ sinh hoạt: đại tiện ngày 1-2 lần, tập thói quen đi đại tiện đúng
giờ giấc, không có đi đại tiện khi chưa mót rặn, vệ sinh hậu môn bằng nước
ấm (sau khi đi ngoài và ngâm hậu môn vào nước ấm 10-15 phút, ngày 2-3
lần). Làm việc vừa sức, tránh những công việc nặng nhọc, những động tác
phải gắng sức nhiều làm cho áp lực ổ bụng tăng lên. Tránh những công việc
phải đứng lâu, phải ngồi nhiều. Tránh thức khuya, tránh căng thẳng thần kinh.
* Điều trị nội khoa [15]:
- Điều trị các rối loạn đại tiện: táo bón, ỉa lỏng, chữa viêm đại tràng làm
bệnh nhân khi đi đại tiện phải rặn nhiều, có thể dùng các thuốc trị amip cấp và
mạn tính như Flagyl, Entetric…kết hợp với kháng sinh và các thuốc chống co
thắt hoặc điều chỉnh rối loạn ruột bằng Debridat…
- Thông thường dùng các thuốc có tác dụng làm tăng sức bền của tĩnh
mạch bằng đường uống: các thuốc họ Flavonoid, Rutosid, Gingko giloba như
Daflon, vitamin P, Ginko Fort, Cyclo 3 fort…

- Các thuốc đặt tại chỗ làm giảm đau, chống ngứa như Menthol và các
dẫn xuất của Cocain.
- Chống phù nề: dùng alpha chymotrysin hoặc Amitase.
- Thuốc có thể dùng dưới dạng viên uống hoặc mỡ bôi ngoài quanh hậu
môn lên các búi trĩ ngoại, bôi trong lòng ống hậu môn cho trĩ nội.
- Viên đạn đặt hậu môn: Preparation-H.


13

1.3.1.2. Các phương pháp dùng dụng cụ (thủ thuật)
Hiện nay có 2 phương pháp chính được sử dụng rộng rãi là tiêm xơ và
thắt trĩ bằng vòng cao su. Chỉ định trong điều trị trĩ nội độ I, II chảy máu [14].
Chống chỉ định của 2 phương pháp này là trĩ nội độ III, độ IV, tụ máu nhồi
máu lớn, trĩ hỗn hợp, trĩ ngoại, đang viêm nhiễm ở hậu môn [14],[15].
Ngoài ra còn có thủ thuật đốt trĩ nội bằng máy WD II (Lê Mạnh Cường,
Nguyễn Mạnh Nhâm) [57].
Hiện nay còn có them phương pháp đốt trĩ dưới niêm mạc bằng laser.
1.3.1.3. Điều trị phẫu thuật
Điều trị trĩ bằng phẫu thuật là phương pháp điều trị tiệt căn nhất [24].
Nhược điểm của phẫu thuật là gây đau, can thiệp vào giải phẫu học bình
thường và kèm theo nguy cơ biến chứng. Do vậy, chỉ lựa chọn phẫu thuật
trong các trường hợp sau: trĩ nội độ IV, độ III có huyết khối, trĩ vòng sa, trĩ
lớn bị sa hoặc chảy máu đáng kể hoặc khi tất cả các phương pháp điều trị
khác thất bại [24],[25].
1.3.2. Các phương pháp điều trị trĩ theo y học cổ truyền
Hiện nay, có 3 nhóm phương pháp điều trị là nội khoa, thủ thuật và kết
hợp YHCT và YHHĐ.
1.3.2.1. Điều trị nội khoa
- Trĩ nội thể huyết nhiệt huyết ứ: lương huyết chỉ huyết, hoạt huyết khứ

ứ. Bài thuốc “Hoạt huyết địa hoàng thang gia giảm”. Hoặc “Chè trĩ số 9” của
Viện YHCT Việt Nam [28].
-Trĩ nội thể thấp nhiệt: Thanh nhiệt lợi thấp, hoạt huyết chỉ thống. Những
bài thuốc thường dùng:“Hòe hoa tán gia vị”, “Chỉ thống thang gia giảm” [27].
-Trĩ nội thể khí huyết hư: bổ khí huyết, chỉ huyết, thăng đề. Dùng bài
thuốc “Bổ trung ích khí thang” [30],[36].


14

Hiện nay, người ta có thể điều trị trĩ theo các chứng theo y học cổ truyền:

+ Chống đau (Chỉ thống): dùng bài “Chỉ thống thang”.
+ Cầm máu (Chỉ huyết): nguyên nhân là do huyết nhiệt gây nên, vì vậy
dùng bài thuốc “Lương huyết địa hoàng thang”.
+ Chống sa trĩ: dùng bài “Bổ trung ích khí gia giảm” [30],[36].
Nhược điểm là mỗi bài thuốc thường gồm rất nhiều vị nên bào chế thành
dạng thuốc uống đơn giản khó vì vậy khi dùng phải sắc uống rất mất thời gian
và không thuận tiện, nhất là đối với những người bị bệnh trĩ hay đi lại.
Dùng các bài thuốc ngâm rửa điều trị trĩ nội và ngoại: có thể dùng một
trong các bài thuốc sau:
Bài 1: gồm Kha tử 100g, Phèn phi 10g.
Cho 1- 2 lít nước đun Kha tử sôi 15 phút, pha phèn phi rồi ngâm rửa.
Bài 2: gồm Hạt cau, Hoàng bá, Tô mộc.
Thuốc tán bột, đóng gói 10g/gói. Khi dùng chỉ việc cho thuốc vào nước
sôi để nguội ngâm hậu môn 5- 10 phút/ lần. Ngày ngâm 1-2 lần.
Bài 3: gồm Hoàng bá 12g, Ngũ bội tử 12g, Hoa kinh giới 12g, Phèn phi
12g.
Cho 1- 2 lít nước đun, ngâm rửa sau đại tiện.
Các bài thuốc ngâm rửa này chỉ có tác dụng sát trùng, làm khô các búi trĩ.


1.3.2.2. Điều trị thủ thuật
- Thắt trĩ bằng Nguyên hoa tuyến [38].
- Thủ thuật thắt và tiêm bôi dung dịch khô trĩ vào búi trĩ nội (Bành Văn
- Nguyễn Tất Trung và cộng sự dùng phương pháp phong bế, day ấn cơ
thắt hậu môn điều trị trĩ nội độ I, II xuất huyết [39].
1.3.2.3. Điều trị kết hợp YHCT và YHHĐ
*Trên thế giới:


15

Ở Trung Quốc đã nghiên cứu ứng dụng những kinh nghiệm điều trị trĩ
của Trung Y kết hợp với YHHĐ: Bệnh nhân được sát trùng, gây tê, bộc lộ búi
trĩ, rạch da hình chữ V, bóc tách sát gốc búi trĩ, kẹp gốc búi trĩ, dùng chỉ tơ
thắt gốc búi trĩ, rồi cắt da và búi trĩ tĩnh mạch trĩ ngoại. Dùng Chỉ huyết tán
rắc bôi lên vết mổ, dùng gạc vaselin che băng lại. Chú ý bảo lưu da giữa các
búi trĩ, làm vài cầu da để tránh hẹp hậu môn. Thường sau 3-4 tuần vết mổ
lành.
* Trong nước:
Phác đồ điều trị kết hợp YHHĐ và YHCT trong mổ thắt trĩ tại Bệnh viện
Y học cổ truyền TW những năm trước:
-Trước mổ thắt trĩ: dùng thuốc tiêu viêm và thông lợi đại tràng của YHCT.

-Chuẩn bị trước mổ: như Y học hiện đại
-Mổ: Châm tê 30 phút, thuốc tiền mê trước 15 phút, gây tê tại chỗ liều
hạn chế, mổ theo phương pháp Milligan Morgan có cải tiến.
-Sau mổ: chế độ ăn nhuận tràng, không gây táo bón; uống thuốc hành
huyết tiêu ứ thông lợi đại tràng (cao tiêu viêm, chè trĩ số 9). Nếu cần cho
kháng sinh. Điện châm để giảm đau và chữa bí tiểu tiện [55],[69].

Hiện nay kết hợp giữa YHCT và YHHĐ tại Bệnh viện YHCT TW là
dùng thuốc YHCT điều trị trước và sau mổ trĩ để nhuận tràng chống viêm và
nhanh liền vết mổ. Dùng các thuốc ngâm rửa bằng các bài thuốc y học cổ
truyền. Phương pháp mổ theo YHHĐ (Milligan- Morgan, khâu treo triệt mạch
dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler…) và phương pháp vô cảm là tê tủy
sống.
1.3.2.4. Tình hình nghiên cứu điều trị bệnh trĩ bằng YHCT ở nước
ta * Về thuốc
Y học cổ truyền của nước ta đã có nhiều nghiên cứu tạo ra những sản
phẩm thuốc đông y thuận tiện cho việc sử dụng của bệnh nhân. Bùi Thị Thanh


16

Huyền dùng bài thuốc “Tứ vật đào hồng” gia vị dạng gói lọc trên bệnh nhân trĩ
nội độ I, II cấp tính cho kết quả tốt [23]. Hoàng Đình Lân cũng dùng bài Chè trĩ
số 9 với các vị thuốc có tác dụng thanh nhiệt (gồm Trần bì, mộc hương, hậu
phác, huyết giác, hòe hoa sao, cỏ nhọ nồi, uất kim, tô mộc, lá móng tay, ý dĩ, đại
hoàng, cam thảo) để điều trị cho bệnh nhân trĩ trong đợt cấp đạt kết quả 94%
[31]. Phạm Văn Trịnh và cộng sự đánh giá tác dụng của Cao trĩ thấy thuốc có tác
dụng điều trị trĩ nội độ I, II, III viêm đau đạt kết quả tốt [33]. Nguyễn Văn Hanh
qua nghiên cứu thuốc “Nang tiêu viêm” thấy có tác dụng điều trị trĩ nội độ II, III
đợt cấp và trĩ ngoại tắc mạch. Thuốc có tác dụng cầm máu đạt 72% số bệnh nhân
trĩ nội độ II, III chảy máu, thời gian cầm máu 4, 12 ngày tương đương với Daflon
500mg [34]. Ngoài ra thuốc còn có tác dụng giảm sưng nề và giảm đau. Nguyễn
Thị Gái đã sử dụng “Chè tan thông u” để điều trị trĩ nội độ II, III cấp. Tác giả
thấy rằng thuốc có tác dụng cầm máu, giảm sưng nề hậu môn và giảm đau, đặc
biệt là thể huyết ứ [35]. Trần Thị Hồng Phương đã sử dụng thuốc chè tan “Bổ
trung ích khí gia vị” (BTIKGV) có tác dụng tốt với triệu chứng chảy máu trĩ. Có
96% bệnh nhân đạt kết quả cầm máu sau đợt điều trị trong đó có 70% cầm máu

trong 4 ngày đầu dùng thuốc, với triệu chứng rỉ ướt hậu môn, đau, táo bón, thuốc
BTIKGV cũng làm hết các và giảm các triệu chứng rất tốt (100% bệnh nhân hết
và giảm các triệu chứng). Đối với tác dụng thu nhỏ búi trĩ thuốc BTIKGV có tác
dụng thu nhỏ búi trĩ khá tốt, có 8% bệnh nhân mất búi trĩ hoặc giảm tới 2 độ,
58% bệnh nhân giảm độ trĩ [36]. Phạm Anh Thư khi dùng bài thuốc BLT có
thành phần là bài “Lục vị địa hoàng hoàn” gia vị khi điều trị trĩ nội độ I, II có
chảy máu cho kết quả cầm máu trong 7 ngày đầu dùng thuốc là 96.7%. Ngoài ra
thuốc còn có tác dụng rất tốt trong việc thu nhỏ búi trĩ, chống chảy dịch, chống
táo bón và giảm đau [37]. Hà Thị Nga, Hoàng Thị Ngọc dùng thuốc Bột ngâm trĩ
điều trị vết thương cho bệnh nhân sau mổ trĩ đạt kết quả tốt đạt 87% [40], [42].

*Về điều trị kết hợp YHCT và YHHĐ


17

-Đỗ Quốc Hương dùng chè tan TVS kết hợp với thủ thuật cắt trĩ trên
bệnh nhân trĩ nội độ II, III cho kết quả tốt [42].
-Đặng Đình Hòa và cộng sự công bố kết quả cắt trĩ bằng Laser CO2 kết
hợp với Cao tiêu viêm. Đã điều trị cho 92 bệnh nhân, kết quả tốt đạt 82.6%,
khá 17.4% [63].
-Tạ Văn Sang dùng kem “Bạch đồng nữ” điều trị cho bệnh nhân sau mổ
trĩ đạt kết quả tốt [43].
- Ngô Quang Linh áp dụng kỹ thuật thắt buộc kiểu Salmon cải tiến kết
hợp với bột ngâm trĩ Đông y cho 118 bệnh nhân trĩ nội độ III, IV. Kết quả tốt,
phẫu thuật đơn giản, ít biến chứng [64].
1.3.2.5. Phương pháp không dùng thuốc (Châm cứu)
Ở Việt Nam, châm cứu áp dụng cho trĩ nội và tùy theo từng thể mà có
phác đồ khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tiễn lâm sàng châm cứu ít được dùng
phổ biến mà chỉ là phương án dùng hỗ trợ điều trị bệnh trĩ.

1.4. TỔNG QUAN VỀ VIÊN NANG CỨNG TỪ RAU SAM (PORTULACA
OLERACEA L.), RAU DỀN GAI (AMARANTHUS SPINOSUS L.) TRONG
ĐIỀU TRỊ BỆNH TRĨ

1.4.1. Xuất xứ, thành phần, các nghiên cứu của viên nang cứng từ rau
sam (Portulaca Oleracea L.), rau dền gai (Amaranthus Spinosus L.)
* Xuất xứ: Viên nang cứng từ rau sam (Portulaca Oleracea L.), rau dền
gai (Amaranthus Spinosus L.) do công ty TNHH Thiên Dược sản xuất theo
tiêu chuẩn GMP -WHO và vùng trồng dược liệu đạt chuẩn GACP - WHO.
Sản phẩm là kết quả của quá trình nghiên cứu đề tài cấp bộ của Nguyễn Thị
Ngọc Trâm và cộng sự [45].
* Thành phần: Viên nang cứng từ rau sam (Portulaca Oleracea L.), rau
dền gai (Amaranthus Spinosus L.) có thành phần chính là các cao chiết phân
đoạn flavonoid của cây dền gai, và cây rau sam. Những phân đoạn này được
chọn lọc và nghiên cứu trên cơ sở nghiên cứu tác dụng dược lý trên cơ trơn,
thời gian máu chảy, thời gian máu đông, số lượng tiểu cầu…


18

* Các nghiên cứu đã làm về viên nang cứng từ rau sam (Portulaca
Oleracea L.), rau dền gai (Amaranthus Spinosus L.) (Phụ lục kèm theo)
- Viên nang từ rau sam (Portulaca Oleracea L.), rau dền gai (Amaranthus
Spinosus L.) đã được thử độc tính cấp và bán trường diễn tại bộ môn Dược lý
trường Đại học Y Hà Nội do PGS. TS Vũ Thị Ngọc Thanh thực hiện với sự cố
vấn của GS. TS Đào Văn Phan.
+ Kết quả thử độc tính cấp ngày 10/ 01/ 2014 cho thấy chưa xác định
được độc tính cấp và chưa tính được LD50 của mẫu thử viên nang từ rau sam
(Portulaca Oleracea L.), rau dền gai (Amaranthus Spinosus L.) số 020713 trên
chuột nhắt trắng theo đường uống.

+ Kết quả thử độc tính bán trường diễn cho thấy thuốc không gây độc
tính bán trường diễn trên thỏ khi uống liều 0.34 g/ kg/ ngày (liều có tác dụng
tương đương liều dùng trên người) và liều gấp 3 lần trong 8 tuần liên tục và
sau 2 tuần ngừng thuốc thử.
- Viên nang từ rau sam (Portulaca Oleracea L.), rau dền gai (Amaranthus
Spinosus L.) cũng đã được nghiên cứu tiền lâm sàng, trong số 13 mẫu thuốc
thử có 5 mẫu có tổng điểm > 10 và có tác dụng trên cơ trơn và co mạch, trên
cơ trơn ruột và tác dụng đông cầm máu.
1.4.2. Tổng quan về dược liệu trong thành phần của viên nang cứng từ
rau sam (Portulaca Oleracea L.), rau dền gai (Amaranthus Spinosus L.)
Viên nang cứng từ rau sam (Portulaca Oleracea L.), rau dền gai
(Amaranthus Spinosus L.) có thành phần chính là cao Dền gai và cao Rau sam.

1.4.2.1. Rau sam (Portulaca Oleracea L.)
-Tên khoa học: Rau sam có tên khoa học là Portulaca Oleracea L. thuộc
họ rau sam Portulaca [46],[47].
- Tác dụng:
Theo Y học cổ truyền, cây có vị chua, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt
giải độc, lương huyết, chỉ huyết, thông lâm. Cây thường được dùng để chữa


19

huyết nhiệt, đái ra máu, ho ra máu, ung nhọt, lở ngứa, đại tiện táo bón, kiết lị
ra máu, ho gà, ngoài ra còn dùng để trị giun kim, giun đũa.
Kinh nghiệm dân gian dùng để chữa trĩ chảy máu: dùng 50-100g lá tươi/ ngày
luộc chín ăn, lại lấy nước luộc ấy mà xông rửa trĩ, dùng trong khoảng 1 tháng.

- Thành phần hóa học
Ở một số vùng thổ nhưỡng, rau sam tích lũy nitrat, chất này có thể tiêu thụ


ở mức độ vừa phải, các sắc tố ở rau sam là betacyanidin đã được acetyl hóa.
Rau sam chứa 3- 6.49% carbohydrat ; 0.5% lipid; 1.4- 1.8% protein;

85mg% Ca; 56mg% P; 1-5mg% Fe; 26mg% vitamin C; 0,32mg% caroten;
0.03mg% vitamin B1; 0.11mg% vitamin B2 và 0.7mg% PP.
100g rau sam có thể chứa 4900 đơn vị quốc tế vitamin A, 20 đơn vị quốc
tế vitamin B và 280 đơn vị quốc tế vitamin C.
- Tác dụng dược lý
+Tác dụng điều trị trĩ.

+Lợi tiểu và chống choáng, tác dụng đối với lỵ trực khuẩn cấp tính, ho
lâu ngày, chữa mọn nhọt sưng đau.
+Cao nước rau sam làm giảm đáng kể trương lực cơ ở bệnh nhân co
cứng cơ, cơ gấp hoặc duỗi, đã nhận thấy giảm 50% trên điện cơ đồ. Cao rau
sam ức chế áp lực co giật cơ do kích thích điện gián tiếp qua dây thần kinh
hoành trên nửa cơ hoành.
+Tác dụng kháng khuẩn: có tác dụng ức chế với mức độ khác nhau các
loại: trực khuẩn lỵ, thương hàn, tụ cầu vàng, một số nấm.
+Rau sam có 2 tác dụng ngược nhau trên tử cung động vật thực nghiệm:
hưng phấn hoặc ức chế, hưng phấn là do muối kali có trong thân rễ và tác
dụng ức chế là do các thành phần hữu cơ chủ yếu ở lá rau sam.
1.4.2.2. Cây dền gai (Amaranthus spinosus L.)
- Tên khoa học: Dền gai có tên khoa học là Amaranthus Spinosus L.
thuộc họ rau dền Amaranthaceae [85].


20

- Tác dụng:

Dền gai có vị ngọt nhạt, tính hơi hàn, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu,
trừ thấp, thu liễm chỉ tả. Lá và ngọn non dùng luộc ăn như các loại rau dền.
Thường dùng trị phù thũng, bệnh về thận, bệnh lậu, chữa lỵ trực khuẩn và làm
thuốc điều kinh. Phần cây trên mặt đất được dùng làm thuốc trị bỏng, đắp tiêu
viêm mụn nhọt. Lá có tính long đờm và được dùng để trị ho và các bệnh
đường hô hấp. Hạt có thể dùng như hạt cây mào gà đắp băng bó chỗ gẫy. Dân
gian còn dùng hạt và rễ trị đau tim. Ở Ấn Độ, rễ được dùng trị rong kinh, lậu,
eczema, làm tiết sữa. Rễ và lá sắc cho trẻ em uống để nhuận tràng, còn dùng
đắp làm dịu bỏng và mụn nhọt. Cây dùng để trị rắn cắn.
- Thành phần hóa học:
+ Cây chứa một tỉ lệ cao Kali nitrat, nhất là ở rễ.
+ Rễ dền gai chứa spinasterol.
+Toàn cây chứa sterol (beta-sitosterol, stigmasterol, campesterol,
cholesterol, n-alkan, các acid béo (acid stearic, acid oleic, acid linoleic).
+ Phần trên mặt đất chứa rutin 1,9%.
+ Lá có rutin 1.9%; acid hydrocyanic kali 4.5%.
- Tác dụng dược lý:
+ Dền gai có hoạt tính kích thích đại thực bào.
+ Cao nước dền gai có tác dụng diệt nấm cercospora cruenta .


21

1.5. TỔNG QUAN VỀ THUỐC PLACEBO
Bảng công thức đóng viên nang giả dược
STT

Thành phần

Tỷ lệ %


1 viên (mg)

1

Tinh bột

96.91%

630

2

Aerosil

0.62%

4

3

Sodium Starch Glycolate

1.54%

10

4

Talc


0.46%

3

5

Magnesi Stearate

0.46%

3

100%

650

Tổng cộng

- Mỗi viên giả dược chứa 630 mg tinh bột và tá dược.
- Được đóng nang bằng viên nang số “0”, có hai màu hai đầu, một đầu
màu xanh nhạt, một đầu màu trắng ngà.
- Bảo quản ở nơi khô mát, tránh ánh sáng.
- Thời hạn sử dụng: 24 tháng kể từ ngày sản xuất


22

Chương 2
CHẤT LIỆU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. CHẤT LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1.1. Thuốc nghiên cứu
- Viên nang cứng từ rau sam (Portulaca Oleracea L.), rau dền gai
(Amaranthus Spinosus L.) do công ty TNHH Thiên dược sản xuất.
- Dạng bào chế: Viên nang cứng, một đầu màu xanh nhạt, một đầu màu
trắng ngà.
- Công thức điều chế cho 1 viên nang :
Bảng công thức đóng nang cứng RS, RDG
STT

Thành phần

Tỷ lệ %

1 viên (mg)

1

Cao hỗn hợp của các phân đoạn
rau dền gai và rau sam

90.77%

590

2

Aerosil

0.62%


4

3

Tinh bột

6.15%

40

4

Sodium Starch Glycolate

1.54%

10

5

Talc

0.46%

3

6

Magnesi stearate


0.46%

3

100%

650

Tổng cộng


23

2.1.2. Thuốc đối chứng: Viên giả dược Placebo
Bảng công thức đóng viên nang giả dược

STT

Thành phần

Tỷ lệ %

1 viên (mg)

1

Tinh bột

96.91%


630

2

Aerosil

0.62%

4

3

Sodium Starch Glycolate

1.54%

10

4

Talc

0.46%

3

5

Magnesi Stearate


0.46%

3

100%

650

Tổng cộng

- Mỗi viên giả dược chứa 630 mg tinh bột và tá dược.
- Được đóng nang bằng viên nang số “0”, có hai màu hai đầu, một đầu
màu xanh nhạt, một đầu màu trắng ngà.
- Bảo quản ở nơi khô mát, tránh ánh sáng.
- Thời hạn sử dụng: 24 tháng kể từ ngày sản xuất
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Các bệnh nhân được chẩn đoán trĩ nội độ II có chảy máu điều trị ngoại
trú tại phòng khám Ngoại tiêu hóa- Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
2.2.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
2.2.1.1.Tiêu chuẩn chung
- Tuổi >18.
- Không phân biệt giới, nghề nghiệp, chỗ ở.
- Bệnh nhân tự nguyện tham gia nghiên cứu.
2.2.1.2.Theo Y học hiện đại


24


- Được chẩn đoán trĩ nội độ II có chảy máu.
* Tiêu chuẩn phân độ trĩ nội theo YHHĐ [49]:
- Độ 2: triệu chứng chính là đại tiện ra máu tươi, búi trĩ sa ra ngoài, khi
đại tiện xong tự co lên. Soi hậu môn bằng ống cứng: búi trĩ lấp ló ở hậu môn,
có thể kèm theo tiết dịch gây ẩm ướt hậu môn.
2.2.1.3. Theo Y học cổ truyền
Y học cổ truyền chia thành 3 thể:
- Trĩ thể thấp nhiệt: trĩ sưng, nóng, đỏ, loét, chảy mủ hoặc chảy nước
vàng, có thể có sốt, táo bón, tiểu tiện vàng. Lưỡi đỏ, rêu vàng. Mạch hoạt sác.
- Trĩ thể huyết nhiệt huyết ứ: búi trĩ nằm trong hậu môn, cảm giác tức
nặng ở hậu môn, đại tiện ra máu tươi, có thể táo bón. Mạch sáp hoặc tế sác.
- Trĩ thể khí huyết hư: trĩ lồi ra ngoài, ra máu kéo dài, người gầy yếu, mệt
mỏi, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, sắc mặt xanh xao, đoản hơi, mạch trầm tế.
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
- Bệnh nhân ung thư.
- Bệnh nhân polyp hậu môn, viêm ống hậu môn.
- Bệnh nhân nứt kẽ hậu môn có chảy máu.
- Bệnh nhân có mắc các bệnh toàn thân (tăng huyết áp, suy gan…).
- Bệnh nhân có mắc các bệnh cấp tính hoặc mạn tính nặng khác.
- Bệnh nhân trĩ hỗn hợp, hoặc tình trạng phải đòi hỏi can thiệp phẫu thuật
ngay như tụ máu hoặc nhồi máu trĩ.
- Bệnh nhân không tuân thủ theo các chế độ điều trị, bỏ thuốc trên 1
ngày, hoặc tự động dùng phối hợp với các thuốc khác.
- Bệnh nhân mới dùng thuốc điều trị trĩ khác dưới 07 ngày.
- Bệnh nhân dị ứng với các thành phần của thuốc.
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.3.1. Thiết kế, cỡ mẫu



25

- Thiết kế: Thử nghiệm lâm sàng mở, so sánh trước sau, có đối chứng.
- Cỡ mẫu: Công thức tính cỡ mẫu đối với thử nghiệm lâm sàng có đối
chứng:
[(

)

*

(

(

)

)

(

)+]

n = cỡ mẫu của nhóm can thiệp
p1: tỉ lệ bệnh nhân nhóm uống placebo hết đại tiện ra máu sau 7 ngày kì
vọng là 50%.
p2: tỉ lệ bệnh nhân nhóm uống Trĩ Thiên Dược hết đại tiện ra máu sau 7
ngày kì vọng là 85%.
p1-p2 = Giả định khác biệt giữa hai nhóm = 0.35
Zα/2: mức độ ý nghĩa thống kê, với 5% là 1.96

Zβ: độ nhạy, với 80% là 0.84
Như vậy ta tính được n= 26,1
Chọn n = n +15% n= 30
Như vậy cỡ mẫu nghiên cứu là 30 bệnh nhân cho nhóm nghiên cứu có
dùng viên nang cứng từ rau sam (Portulaca Oleracea L.), rau dền gai
(Amaranthus Spinosus L.) và so sánh với 30 bệnh nhân nhóm chứng dùng
placebo.
2.3.2. Phân nhóm nghiên cứu
60 bệnh nhân tham gia nghiên cứu được chia làm 2 nhóm
- Nhóm nghiên cứu: gồm 30 bệnh nhân được điều trị bằng viên nang cứng
từ rau sam (Portulaca Oleracea L.), rau dền gai (Amaranthus Spinosus L.).
- Nhóm chứng: gồm 30 bệnh nhân được điều trị bằng viên giả dược.


×