ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN THU TRANG
THáA THUËN PH¢N CHIA DI S¶N THõA KÕ
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN THU TRANG
THáA THUËN PH¢N CHIA DI S¶N THõA KÕ
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số
: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Phương
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để cho tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phan Thu Trang
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tất
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
Chương 1:
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỎA
7
THUẬN PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ
1.1.
Khái niệm "thỏa thuận phân chia di sản thừa kế"
7
1.2.
Điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
10
1.2.1. Chủ thể thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
10
1.2.2. Mục đích, nội dung của thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
28
1.2.3. Hình thức thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
30
1.2.4. Hậu quả pháp lý trong trường hợp vi phạm các điều kiện có
31
hiệu lực của thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
1.3.
Một số vấn đề pháp lý khác
32
1.3.1. Đối tượng của thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
32
1.3.2. Thủ tục phân chia di sản thừa kế
41
1.3.3. Giá trị pháp lý của thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
45
Chương 2:
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA
48
THUẬN PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ HIỆN NAY
2.1.
Người thừa kế đang ở nước ngoài vào thời điểm thỏa thuận
52
phân chia di sản thừa kế (người Việt Nam và/hoặc người
nước ngoài đang ở nước ngoài)
2.2.
Người thừa kế vắng mặt tại thời điểm thỏa thuận phân chia
di sản thừa kế
56
2.3.
Đại diện cho người thừa kế là người chưa thành niên, người
57
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
2.4.
Thực hiện nghĩa vụ tài sản để lại của người chết, quyền của chủ
59
nợ liên quan đến di sản thừa kế và chủ nợ của người thừa kế
2.5.
Di sản dùng vào việc thờ cúng
62
2.6.
Thực hiện thủ tục công chứng khi khai nhận/thỏa thuận phân
63
chia di sản thừa kế
2.7.
Điều kiện "phải thành thai trước khi người để lại di sản chết"
64
Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
66
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỎA THUẬN PHÂN
CHIA DI SẢN THỪA KẾ
3.1.
Về công nhận quyền sử dụng đất tại Việt Nam của người
66
nước ngoài
3.2.
Về đại diện trong thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
67
3.3.
Về thứ tự ưu tiên thanh toán các nghĩa vụ tài sản của người
69
chết để lại
3.4.
Về thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chủ nợ của người để lại di
70
sản thừa kế, chủ nợ của người thừa kế
3.5.
Về di sản dùng vào việc thờ cúng
71
3.6.
Về thủ tục công chứng khi khai nhận/thỏa thuận phân chia di
72
sản thừa kế
3.7.
Về điều kiện "phải thành thai trước khi người để lại di sản chết"
73
KẾT LUẬN
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
77
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật Dân sự
HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình
UBND
: Ủy ban nhân dân
VPCC
: Văn phòng công chứng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
bảng
2.1
Phí công chứng tính theo giá trị di sản
45
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thừa kế là một trong những chế định quan trọng của pháp luật dân sự
Việt Nam và luôn được pháp luật quan tâm, bảo hộ. Chế định này điều chỉnh
mối quan hệ xã hội phổ biến và gần gũi đối với nhân dân. Nhận thức được vai
trò đặc biệt đó của thừa kế, từ những ngày đầu dựng nước, pháp luật về thừa
kế đã được ghi nhận trong nhiều quy định như trong chương "Điền sản" của
Bộ Quốc triều Hình luật dưới triều vua Lê Thái Tổ. Sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945, trải qua nhiều biến cố lịch sử, các quy định về thừa kế đã
được ghi nhận, mở rộng và phát triển qua các văn bản pháp luật, như: Hiến
pháp năm 1959 (Điều 19: "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo vệ quyền thừa
kế tài sản tư hữu của công dân"), Hiến pháp năm 1980 (Điều 27: "Nhà nước
bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân"), Hiến pháp năm 1992 (Điều 58:
"Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân"),
Hiến pháp năm 2013 (Điều 32: "Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được
pháp luật bảo hộ"); Pháp lệnh thừa kế năm 1990... Và sự ra đời của Bộ luật
Dân sự (BLDS) qua các năm 1995, năm 2005 và năm 2015 đã đánh dấu
những bước tiến lớn của pháp luật Việt Nam về thừa kế.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và thực hiện theo cơ chế thị trường,
con người được lao động trong những điều kiện làm việc tốt hơn, vì thế khối
tài sản mà họ tích lũy được nhờ sức lao động của mình ngày một lớn. Về
mặt tâm lý, bất kỳ ai cũng luôn mong muốn có quyền sở hữu đối với tài sản
của mình khi còn sống, kể cả trước khi chết, họ vẫn muốn chi phối chúng.
Tài sản mà một người sở hữu khi còn sống sẽ trở thành di sản khi người đó
chết và được phân chia cho những người thừa kế. Nhìn chung, pháp luật của
các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, việc phân chia di sản này
1
có thể được thực hiện theo ý chí của người chết (theo di chúc) hoặc theo quy
định của pháp luật.
Hiện nay, các tranh chấp về thừa kế có xu hướng gia tăng và ngày
càng phức tạp. Các tranh chấp đó phần lớn là giữa những thành viên trong gia
đình với nhau, bởi vậy ảnh hưởng không nhỏ tới truyền thống đạo đức tốt đẹp
của dân tộc ta. Cách tối ưu nhất để giảm thiểu tình trạng trên đó là những
người thừa kế tự thỏa thuận được về việc phân chia di sản. Việc thỏa thuận
phân chia di sản thừa kế không chỉ tiết kiệm được thời gian, chi phí mà còn
duy trì được truyền thống văn hóa của người Việt Nam.
Pháp luật dân sự nước ta luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các bên,
song việc thỏa thuận này phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Đối với
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, nội dung và hình thức của nó cần phải
bảo đảm chặt chẽ, đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật.
Hiện nay, pháp luật đã có những quy định tương đối chi tiết và tiến bộ
hơn liên quan đến thỏa thuận phân chia di sản thừa kế so với trước đây, nhưng
do tính chất phức tạp của quan hệ thừa kế mà thực tiễn áp dụng pháp luật vẫn
còn những hạn chế, chưa dự trù hết được những tình huống phát sinh trên thực tế
nên việc thỏa thuận phân chia di sản không tránh khỏi bất cập, hạn chế.
Do vậy, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về thừa kế nói chung
và thỏa thuận phân chia di sản thừa kế nói riêng, để phát hiện những bất cập
trong việc áp dụng và đưa ra những đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về thừa kế là rất cần thiết.
Vì những lẽ trên, tác giả lựa chọn đề tài "Thỏa thuận phân chia di sản thừa
kế theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thừa kế là chế định pháp luật phức tạp, có lịch sử hình thành và phát
triển lâu dài, thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà khoa học pháp lý.
2
Liên quan đến thừa kế và thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, có một
số sách chuyên khảo nổi tiếng, có thể kể đến như: "Bình luận khoa học về
thừa kế trong luật dân sự" của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện; "Luật thừa kế Việt
Nam - Bản án và bình luận bản án" của Tiến sĩ Đỗ Văn Đại; "Hỏi đáp về
pháp luật thừa kế" của Luật sư Trần Hữu Bền và Tiến sĩ Đinh Văn Thành;
"Luật Dân sự Việt Nam - Bình giải và áp dụng Luật Thừa kế" của Tiến sĩ
Phùng Trung Tập; "Pháp luật thừa kế của Việt Nam - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn" của tác giả Nguyễn Minh Tuấn...
Vấn đề thừa kế còn được nghiên cứu trong các luận án tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ, tiêu biểu là: đề tài "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt
Nam từ năm 1945 đến nay" của Phùng Trung Tập; đề tài "Thừa kế theo di
chúc theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam" của Phạm Ánh Tuyết; đề tài
"Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa kế trong Bộ luật
dân sự" của Nguyễn Minh Tuấn; đề tài "Thừa kế theo pháp luật của cháu,
chắt theo quy định của pháp luật Việt Nam" của Lê Đức Bền; đề tài "Thừa kế
theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Việt Nam" của Nguyễn Thị Vĩnh;...
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết liên quan được đăng trên các tạp chí
như: Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, Tạp chí Luật học, …
Các công trình nghiên cứu kể trên có giá trị rất lớn trong cả khoa học
lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, vấn đề "thỏa thuận phân chia di sản thừa kế"
chỉ được nêu ra ở mức độ khái quát, chưa được phân tích một cách toàn diện
và đầy đủ. Vậy nên, việc nghiên cứu để có định hướng đề xuất cho các quy
định của pháp luật về vấn đề này là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ các nội dung, cơ sở
lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thừa kế và thỏa
thuận phân chia di sản thừa kế. Trên cơ sở phân tích các quy định và thực
3
tiễn áp dụng, tác giả chỉ ra những bất cập, tồn tại để từ đó đưa ra những đề
xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thừa kế và thỏa thuận phân chia di
sản thừa kế như: BLDS năm 2015, Luật Công chứng 2014, Luật Hôn nhân và
gia đình (HN&GĐ) năm 2014; Luật Đất Đai năm 2013, …và một số văn bản
hướng dẫn thi hành luật. Nội dung luận văn giới hạn trong vấn đề lý luận về
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được pháp luật Việt Nam quy định.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, luận văn tập trung
nghiên cứu các vấn đề sau:
Thứ nhất, những vấn đề lý luận liên quan đến quy định về thỏa thuận
phân chia di sản thừa kế, bao gồm: khái niệm thỏa thuận phân chia di sản thừa
kế; điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận phân chia di sản thừa kế và các vấn
đề pháp lý khác có liên quan.
Thứ hai, nêu và phân tích thực trạng thi hành pháp luật Việt Nam về
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế hiện nay.
Thứ ba, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất để thực hiện hiệu quả quy
định của pháp luật về thỏa thuận phân chia di sản thừa kế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm đạt được các mục tiêu nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu,
tác giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo đó, tác giả đặt các vấn đề về thỏa
thuận phân chia di sản thừa kế trong mối liên hệ mật thiết với nhau, không
phân tích riêng lẻ.
4
Phương pháp phân tích, diễn giải: Những phương pháp này được sử
dụng trong luận văn để làm rõ các quy định của pháp luật về thừa kế nói
chung và thỏa thuận phân chia di sản thừa kế nói riêng.
Phương pháp đánh giá, so sánh: Những phương pháp này được tác giả
vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét về tính hợp lý của các quy định của pháp
luật hiện hành, từ đó so sánh với các quy định đã hết hiệu lực.
Phương pháp quy nạp, diễn dịch: Những phương pháp này được áp
dụng để triển khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến thỏa thuận phân chia
di sản thừa kế, đặc biệt là trong phần các đề xuất, kiến nghị. Ví dụ, khi nêu ra
những kiến nghị mang tính khái quát, tác giả dùng phương pháp diễn dịch để
làm rõ lý do tại sao đưa ra kiến nghị đó…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài này giúp làm sáng tỏ các vấn đề lý luận có liên
quan đến thừa kế và thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, từ đó góp phần vào
việc hoàn thiện hơn ngành khoa học luật trong lĩnh vực dân sự nói chung và
trong lĩnh vực thừa kế nói riêng.
Luận văn là tài liệu tham khảo quan trọng cho việc hệ thống hóa các
quy định của pháp luật về thừa kế và thỏa thuận phân chia di sản thừa kế,
phân tích hiệu quả điều chỉnh các quy định đó trong thực tiễn, phát hiện
những bất cập, tồn tại và đưa ra các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp
luật về thừa kế ở Việt Nam.
Ngoài ra, tác giả cũng mong muốn luận văn sẽ trở thành một tài liệu
tham khảo hữu ích đối với các bạn sinh viên hay học viên đang nghiên cứu về
chế định thừa kế. Bên cạnh đó, những kiến nghị hoàn thiện pháp luật mà tác
giả nêu trong luận văn hi vọng sẽ là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức
năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình xem xét, nghiên cứu để sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện pháp luật về thừa kế.
5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về thỏa thuận phân chia di
sản thừa kế hiện nay.
Chương 3: Một số đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật Việt Nam về thỏa thuận phân chia di sản thừa kế.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ THỎA THUẬN PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ
1.1. Khái niệm "thỏa thuận phân chia di sản thừa kế"
* Khái niệm "di sản thừa kế":
Có nhiều cách hiểu về di sản thừa kế. Nhưng đến nay, vẫn chưa có
một văn bản pháp luật nào đưa ra khái niệm cụ thể về di sản thừa kế.
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học, di sản thừa kế là tài sản của
người chết để lại cho người còn sống kể từ thời điểm mở thừa kế [32, tr. 50].
Theo tác giả Phan Văn Nghĩa, di sản thừa kế là "toàn bộ tài sản có giá
trị vật chất hoặc giá trị tinh thần cùng với các nghĩa vụ về tài sản được lưu
truyền nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác" [14, tr. 7]. Vậy, theo quan
điểm này, di sản thừa kế không chỉ bao gồm các tài sản có giá trị vật chất
hoặc tinh thần mà còn bao gồm các nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại.
Dưới góc độ pháp lý, di sản thừa kế cũng được cụ thể hóa tại Điều 612
BLDS năm 2015: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của
người chết trong tài sản chung với người khác" [24, Điều 612]. Theo tinh thần
của BLDS năm 2015, khi một cá nhân chết đi có di sản để lại và có các nghĩa vụ
chưa được thực hiện thì phần di sản của người chết để lại sẽ được sử dụng để
thanh toán các nghĩa vụ đó trước, phần còn lại mới chia cho những người thừa kế.
Tựu chung lại, di sản thừa kế có thể hiểu là toàn bộ tài sản thuộc
quyền sở hữu của người chết được chuyển dịch cho những người thừa kế hợp
pháp của họ sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ về tài sản (nếu có) mà người
chết chưa thực hiện được.
* Khái niệm "phân chia di sản thừa kế":
Theo nghĩa kỹ thuật, phân chia là tập hợp các hoạt động nhằm chấm
dứt tình trạng có quyền chung của nhiều người trên một hoặc nhiều tài sản.
7
Trong quan hệ thừa kế, việc phân chia di sản chỉ đặt ra khi có ít nhất
từ hai người thừa kế trở lên đối với di sản mà người chết để lại. Bởi nếu chỉ
có một người thừa kế, người này có quyền thừa kế toàn bộ số di sản thừa kế
mà không phải phân chia số di sản đó với ai khác.
Việc phân chia di sản có thể do những người thừa kế cùng thỏa thuận
hoặc do Tòa án thực hiện khi xảy ra tranh chấp về di sản thừa kế giữa các
đương sự. Mục đích của việc phân chia di sản thừa kế là để chấm dứt tình
trạng sở hữu chung theo phần giữa những người thừa kế đối với di sản đó.
Như vậy, phân chia di sản thừa kế có thể hiểu là tập hợp các hoạt
động nhằm xác lập quyền sở hữu của mỗi người thừa kế đối với phần di sản
mà họ có quyền hưởng trong khối di sản chung sau khi đã thanh toán các
nghĩa vụ về tài sản (nếu có), chấm dứt tình trạng nhiều chủ thể cùng có quyền
sở hữu di sản do người chết để lại.
* Khái niệm "thỏa thuận phân chia di sản thừa kế":
Thỏa thuận là việc các bên chủ thể đồng ý với nhau về điều gì đó liên
quan đến họ sau khi đã bàn bạc, trao đổi [31, tr. 1220].
Về bản chất, thỏa thuận phân chia di sản thừa kế là một giao dịch dân
sự - hợp đồng dân sự giữa các chủ thể là những người thừa kế của người để
lại di sản.
Từ đó, có thể rút ra, thỏa thuận phân chia di sản thừa kế là một hợp
đồng dân sự giữa những người thừa kế về việc chấm dứt tình trạng sở hữu
chung đối với di sản thừa kế sau khi thanh toán các nghĩa vụ về tài sản (nếu
có) từ phần di sản do người chết để lại.
* Ý nghĩa của sự thỏa thuận:
Trên thực tế, việc phân chia di sản thừa kế thông thường được thực
hiện thông qua sự thỏa thuận giữa những người thừa kế. Chỉ trong trường hợp
những người thừa kế không tự thỏa thuận được với nhau thì họ mới yêu cầu
phân chia di sản tại Tòa án và đó thường là những tranh chấp có tính chất
8
phức tạp. Việc phân chia di sản thừa kế tại Tòa án có thể có những hệ lụy và
nhược điểm sau đây:
- Việc phân chia di sản thừa kế tại Tòa án ảnh hưởng đến tình cảm của
các thành viên trong gia đình, đặc biệt là người dân ở các nước Á Đông như
Việt Nam.
- Danh dự của cả gia đình có thể bị ảnh hưởng. Ví dụ bố hoặc mẹ mới
chết mà anh, chị, em đã tranh chấp tài sản được bố, mẹ để lại tại Tòa án sẽ
khiến hàng xóm láng giềng dị nghị, đàm tiếu.
- Việc giải quyết tranh chấp di sản thừa kế tại Tòa án kéo dài, phát
sinh nhiều chi phí và tốn nhiều công sức hơn so với việc tự thỏa thuận. Một
vụ án có thể kéo dài đến nhiều tháng, năm, đặc biệt là những vụ việc phức tạp
có thể được giải quyết qua nhiều cấp khác nhau.
- Chi phí để giải quyết một vụ án về thừa kế bao gồm: án phí, chi phí
thuê luật sư, chi phí đi lại, chi phí đi xác minh, thu thập chứng cứ… trong đó,
án phí được xác định theo % giá trị tài sản tranh chấp, tài sản có giá trị càng
lớn thì án phí cho vụ án đó càng cao.
- Việc phân chia di sản thừa kế tại Tòa án sẽ phải thực hiện theo đúng
trình tự, thủ tục cụ thể mà pháp luật quy định. Trình tự, thủ tục này khá rườm
rà, gây phiền hà cho các bên tranh chấp mà các bên không thể tự thỏa thuận
cắt giảm hoặc bỏ qua.
Rõ ràng, việc những người thừa kế tự thỏa thuận với nhau về việc
phân chia di sản có nhiều ưu điểm hơn so với biện pháp giải quyết việc phân
chia di sản thừa kế tại Tòa án, thể hiện ở các điểm sau đây:
- Giữ được tình cảm đoàn kết, yêu thương, gắn bó giữa các thành viên
trong gia đình.
- Thỏa thuận phân chia trên cơ sở tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Những
người thừa kế có hoàn cảnh kinh tế khá hơn có thể tặng cho một phần hoặc
toàn bộ phần di sản mà mình được hưởng cho người thừa kế còn lại.
9
- Nếu những người thừa kế thỏa thuận được việc phân chia di sản thì
sẽ mất ít thời gian hơn với việc giải quyết tại Tòa án. Bởi họ chỉ cần thống
nhất nội dung phân chia, sau đó nếu có nhu cầu thì những người thừa kế yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền công chứng/chứng thực văn bản đó.
- Chi phí phát sinh trong trường hợp thỏa thuận phân chia di sản thừa
kế ít hơn so với việc phân chia di sản tại Tòa án.
- Thủ tục công chứng/chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế nhanh chóng và ít phức tạp hơn so với thủ tục phân chia di sản thừa
kế tại Tòa án.
Từ những ưu điểm trên, có thể thấy, phương án tối ưu nhất đối với
việc phân chia di sản là thỏa thuận phân chia di sản giữa những người thừa kế.
1.2. Điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
Về bản chất, thỏa thuận phân chia di sản thừa kế là một giao dịch dân
sự giữa những người thừa kế với nhau. Vì thế, để thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế có hiệu lực thì phải đáp ứng các điểu kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự được quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015, bao gồm các điều kiện
về chủ thể, mục đích, nội dung và hình thức của thỏa thuận.
1.2.1. Chủ thể thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền và
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, trong đó có quyền thỏa thuận phân chia
di sản thừa kế.
* Tư cách chủ thể của người thừa kế:
Theo nguyên lý chung, khi tham gia vào các giao dịch dân sự, các chủ
thể phải có đủ tư cách chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật dân sự và năng lực
hành vi dân sự. Tuy nhiên, pháp luật thừa kế không đặt ra điều kiện về tư cách
chủ thể đối với người thừa kế vì các lý do sau:
- Di sản mà người thừa kế thực chất được hưởng là số tài sản còn lại
sau khi thanh toán các nghĩa vụ về tài sản mà người chết để lại (nếu có).
10
Người thừa kế có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ này nhưng không vượt
quá phần tài sản mà họ nhận được. Nếu người thừa kế không có hoặc chưa có
đủ năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật của họ (cha, mẹ
hoặc người giám hộ) sẽ đại diện cho họ dùng phần tài sản đó để thực hiện
nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại (nếu có). Vậy nên, không yêu cầu về
mặt năng lực chủ thể đối với người thừa kế.
- Người chưa thành niên hay người mất năng lực hành vi dân sự có thể
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế thông qua người đại diện theo pháp luật.
Việc quản lý tài sản của những đối tượng này cũng do người đại diện theo
pháp luật của họ thực hiện và có sự giám sát chặt chẽ theo quy định của pháp
luật để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của họ.
- Người có quyền thừa kế vắng mặt tại nơi cư trú hoặc bị Tòa án tuyên
bố là mất tích thì việc quản lý tài sản của những người này sẽ được thực hiện
theo quy định tại Điều 65 và Điều 69 BLDS năm 2015.
Nếu như người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi có quyền đại diện cho họ thỏa thuận về việc phân
chia di sản thừa kế, thì theo quy định pháp luật hiện hành, người quản lý tài
sản của người vắng mặt hoặc mất tích không chắc có quyền đại diện cho
những người này trong việc thỏa thuận phân chia di sản mà họ được hưởng.
- Tương tự như quyền sở hữu, quyền thừa kế là một quyền tuyệt đối.
Trong quyền sở hữu, người có tài sản một cách hợp pháp thì dù có năng lực
hành vi hay không, người đó vẫn là chủ sở hữu tài sản. Trong quan hệ thừa kế
cũng vậy, người được hưởng di thừa kế di sản do người chết để lại thì bất luận
có hay không năng lực hành vi thì họ vẫn có quyền hưởng thừa kế.
Tóm lại, người thừa kế nói chung khi đáp ứng được các điều kiện mà
pháp luật quy định thì họ sẽ có quyền hưởng di sản mà không bắt buộc phải
có năng lực chủ thể.
11
* Chủ thể thỏa thuận phân chia di sản thừa kế hoàn toàn tự nguyện:
Đây là nguyên tắc quan trọng được quy định tại Điều 3 BLDS năm
2015: Tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Bản chất của thỏa thuận là sự
thống nhất ý chí giữa các bên tham gia thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện. Vì
vậy, bất kỳ giao dịch dân sự nào thiếu sự tự nguyện của các bên sẽ không làm
phát sinh hậu quả pháp lí.
1.2.1.1. Người thừa kế theo di chúc
Di chúc là "sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của
mình cho người khác sau khi chết" [24, Điều 624]. Di chúc thể hiện ý chí đơn
phương của người lập di chúc, là hành vi pháp lý đơn phương. Ý chí đơn
phương của người lập di chúc được thể hiện ở việc người lập di chúc có toàn
quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai và có quyền cho
ai bao nhiêu phần trong số tài sản thuộc sở hữu của mình mà không phụ thuộc
vào việc người được hưởng thừa kế có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi
dưỡng hoặc thân thích với người lập di chúc hay không.
Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân (người trong hàng thừa
kế/ngoài hàng thừa kế) hoặc không phải là cá nhân (cơ quan/tổ chức).
* Người thừa kế theo di chúc là cá nhân:
Điều 613 BLDS năm 2015 quy định: "Người thừa kế là cá nhân phải là
người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm
mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết" [24, Điều 613].
Theo quy định của điều luật trên, cá nhân chỉ có thể trở thành người
thừa kế khi người đó thuộc một trong hai trường hợp sau:
Thứ nhất, phải là người "còn sống vào thời điểm mở thừa kế".
Đặc trưng cơ bản của chế định thừa kế chính là sự tiếp nối quyền sở
hữu tài sản từ người đã chết sang người còn sống nên người tiếp nhận quyền
sở hữu tài sản đương nhiên phải là người "còn sống" vào "thời điểm mở thừa
kế". Có một số trường hợp tuy là một người đã chết trên thực tế nhưng họ lại
còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
12
Mặt khác, cũng có trường hợp, người thừa kế không hiện diện vào
thời điểm mở thừa kế do mất tích nhưng người đó chưa được Tòa án tuyên bố
là đã chết nhưng ngày được coi là đã chết của họ được xác định sau ngày mở
thừa kế thì họ vẫn được coi là còn sống vào thời điểm mở thừa kế và có quyền
hưởng di sản. Nếu người thừa kế bị tuyên bố đã chết trước thời điểm mở thừa
kế mà sau này họ còn sống và quay trở về trước khi di sản được phân chia thì
người này được coi là còn sống và có quyền hưởng di sản nhưng họ phải yêu
cầu Tòa án hủy quyết định tuyên bố chết đối với mình.
Thứ hai, phải được "sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết".
Pháp luật dân sự bảo hộ quyền thừa kế của thai nhi nhưng thai nhi
phải thành thai trước khi người để lại di sản chết và còn sống sau khi được
sinh ra. Một cá nhân chưa được sinh ra thì chưa phải là chủ thể của quan hệ
pháp luật dân sự, nhưng pháp luật lại quy định bảo lưu quyền thừa kế của thai
nhi với hai điều kiện trên. Quy định này nhằm bảo vệ quyền của người con đã
thành thai trước khi người cha/mẹ chết và còn sống sau khi chào đời.
Hiểu thế nào là "sinh ra và còn sống" là một vấn đề tương đối nhạy
cảm. Vì việc xác định ranh giới giữa "sinh ra và còn sống" với "sinh ra và
chết" đôi khi chỉ là một khoảnh khắc nhất định. Hai tình trạng này lại dẫn tới
hai hậu quả pháp lý hoàn toàn khác nhau.
Để xác định tình trạng "còn sống" hay "đã chết" của một đứa trẻ sinh
ra rồi chết cần căn cứ vào các quy định của pháp luật. Trước đây, Nghị định
83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch quy định:
- Trẻ em sinh ra sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết, thì cũng phải
đăng ký khai sinh theo quy định của Nghị định này, nếu chết trước khi sinh
(chết lưu) hoặc sinh ra mà sống chưa được 24 giờ, thì không phải đăng ký
khai sinh [7, Điều 20].
- Trẻ em sinh ra mà còn sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết thì vừa
phải đăng ký khai sinh, vừa phải đăng ký khai tử [7, Điều 29].
13
Về quyền được khai sinh, khai tử của cá nhân, khoản 3 Điều 30 BLDS
năm 2015 quy định: Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên
mới chết thì phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai
mươi bốn giờ thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ
đẻ có yêu cầu [24, khoản 3 Điều 30].
Như vậy, theo tinh thần của pháp luật hiện hành, một đứa trẻ sau khi
sinh ra mà còn sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên rồi mới chết thì được
coi là "sinh ra và còn sống" và đứa trẻ trở thành người thừa kế, có quyền
hưởng di sản mà người cha/mẹ để lại. Tuy nhiên, khi đứa trẻ sinh ra đã chết
thì phần di sản đó sẽ được chia cho những người thừa kế của chúng. Với đứa
trẻ sinh ra mà chết ngay hoặc chỉ sống được dưới hai mươi bốn giờ thì không
được nhận di sản thừa kế.
Vấn đề là phải "thành thai trước khi người để lại di sản chết" nhằm
xác định mối quan hệ giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản.
Khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:
- Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong
thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
- Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt
hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
- Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là
con chung của vợ chồng [22, khoản 1 Điều 88].
Nguyên tắc suy đoán pháp lý được áp dụng khi xác định cha, mẹ, con.
Nghĩa là, khi người vợ mang thai hoặc sinh con trong thời kỳ hôn nhân, người
vợ không cần phải chứng minh chồng mình có phải là cha đứa trẻ hay không
mà pháp luật mặc nhiên thừa nhận đứa trẻ là con chung của vợ chồng. Trên
thực tế, có nhiều trường hợp người vợ có thai hoặc sinh con trong thời kỳ hôn
nhân nhưng chưa chắc con đã có cùng huyết thống với người chồng. Vậy nên,
tư cách cha, mẹ, con có thể được xem xét lại.
14
Trường hợp hai vợ chồng thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc
xác định cha, mẹ, con vẫn được thực hiện theo quy định đã nêu ở trên.
Trường hợp người phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản thì người này là mẹ của đứa trẻ ngay cả khi đứa trẻ đó không mang huyết
thống với họ.
Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan
hệ cha, mẹ, con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với đứa trẻ
được sinh ra mặc dù có cùng mã gen.
Với trường hợp con được sinh ra do mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo, thì là con chung của vợ, chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con
được sinh ra.
Có thể thấy, nếu như trước đây, quan hệ huyết thống là căn cứ vững
chắc nhất để xác định cha, mẹ, con thì trong xu thế phát triển hiện đại của xã
hội, huyết thống không còn là cơ sở để xác định cha, mẹ, con trong mọi
trường hợp. Vì thế, không nhất thiết phải có quan hệ huyết thống thì người
con mới được thừa hưởng di sản thừa kế của cha, mẹ.
* Người thừa kế theo di chúc không là cá nhân:
Những chủ thể không là cá nhân (cơ quan/tổ chức) cũng có quyền
hưởng di sản thừa kế theo di chúc nhưng phải "tồn tại vào thời điểm mở thừa
kế". Trường hợp người thừa kế là pháp nhân, khi xác định tình trạng tồn tại
hay không tồn tại thì cần xét đến các trường hợp khác nhau. Theo quy định tại
Điều 96 BLDS năm 2015, pháp nhân chấm dứt tồn tại trong các trường hợp:
hợp nhất, sáp nhập, chia, chuyển đổi hình thức, giải thể, phá sản pháp nhân.
Nếu vào thời điểm mở thừa kế, pháp nhân đã bị giải thể hoặc phá sản
thì được coi là chấm dứt hoàn toàn sự tồn tại và không thể trở thành người
thừa kế. Phần di sản đáng lẽ pháp nhân đó được hưởng theo di chúc sẽ được
chia cho những người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.
15
Trong trường hợp pháp nhân chấm dứt tồn tại do hợp nhất, sáp nhập,
chia, chuyển đổi hình thức thì có hai quan điểm đối lập nhau về tình trạng
"tồn tại" theo quy định của pháp luật về thừa kế, cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất, việc pháp nhân hợp nhất, sáp nhập, chia, chuyển
đổi hình thức chỉ là các hình thức cải tổ pháp nhân, là thay đổi sự tồn tại của
pháp nhân từ phương thức này sang phương thức khác. Theo quy định tại các
Điều 88, 89, 90, 92 BLDS năm 2015 thì quyền và nghĩa vụ của pháp nhân cũ
sẽ được chuyển giao cho pháp nhân mới, trong đó bao gồm cả quyền thừa kế.
Quan điểm thứ hai, các trường hợp trên là những căn cứ để chấm dứt
pháp nhân. Khi một pháp nhân đã bị hợp nhất, sáp nhập, chia, chuyển đổi
hình thức thì được coi là không còn tồn tại nữa. Pháp nhân chấm dứt tồn tại
trước thời điểm mở thừa kế không có quyền hưởng thừa kế theo di chúc.
* Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc:
Pháp luật dân sự Việt Nam trao quyền tự định đoạt cho cá nhân trong
việc lập di chúc để lại tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bất kỳ ai được
hưởng sau khi người đó chết. Một người được tự do lập di chúc cho người
khác hưởng tài sản của mình nhưng cũng có quyền truất quyền hưởng di sản
của người thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, sự "tự do" định đoạt đó của cá
nhân để lại di sản vẫn phải nằm trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Điều 644 BLDS năm 2015 quy định về người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc như sau:
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp
luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản
hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
16
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối
nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền
hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này [24, Điều 644].
Để được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, người
thừa kế quy định tại Điều 644 nêu trên phải đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, những người này phải là những người mà người lập di chúc
không cho họ hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật (hai phần ba một suất theo pháp
luật được xác định bằng cách giả định toàn bộ di sản chia theo pháp luật).
Thứ hai, không thuộc trường hợp những người từ chối nhận di sản
theo quy định tại Điều 620 BLDS năm 2015.
Thứ ba, không thuộc trường hợp những người không có quyền hưởng
di sản theo quy định tại Điều 621 BLDS năm 2015.
Về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc mà là con
chưa thành niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động thì
việc thỏa thuận phân chia di sản thừa kế sẽ thông qua vai trò của người đại
diện hợp pháp. Lưu ý là người đại diện hợp pháp của những người này không
được phép tặng cho phần di sản của người mà mình đại diện được hưởng.
* Người được di tặng:
Tài sản dùng để di tặng là phần tài sản trong khối tài sản mà người
chết để lại, được chỉ định trong di chúc là dành phần di sản đó tặng cho người
nhất định.
Người được di tặng cũng phải đáp ứng các điều kiện chung về người
thừa kế. Người được di tặng có thể là cá nhân hoặc không phải là cá nhân.
Người được di tặng có quyền thỏa thuận phân chia di sản, họ có thể
tặng cho người khác phần di sản mà họ được nhận hoặc nhận phần di sản mà
người khác tặng cho.
17
1.2.1.2. Người thừa kế theo pháp luật
Khác với hình thức thừa kế theo di chúc là sự thể hiện ý chí của người
lập di chúc, có thể định đoạt di sản cho bất kỳ ai, thừa kế theo pháp luật là
thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
* Diện thừa kế:
Đến nay, chưa có khái niệm cụ thể nào về "diện thừa kế" được ghi
nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật nên có nhiều cách hiểu khác
nhau. Theo Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập 1, Trường Đại học Luật Hà
Nội: "Diện những người thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di
sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật" [33, tr. 327]. Khái
niệm diện thừa kế còn có thể hiểu là "phạm vi những người có thể được
hưởng di sản do người chết để lại được xác định theo một trong ba quan hệ
(quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng) với người để
lại di sản" [13, tr. 278]. Theo đó, cách hiểu thứ hai hợp lý và cụ thể hơn.
Diện thừa kế theo pháp luật bao gồm những cá nhân còn sống vào thời
điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã
thành thai trước khi người để lại di sản chết, có quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
• Quan hệ hôn nhân:
Trước năm 1945, ở nước ta, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ảnh
hưởng sâu sắc tới chế định thừa kế. Địa vị của người phụ nữ trong xã hội và
trong gia đình luôn ở thế yếu, mọi quyết định đều phụ thuộc vào người chồng.
Vì thế, trong quan hệ thừa kế thời kỳ bấy giờ, người vợ không thuộc diện thừa
kế theo pháp luật của người chồng. Hay nói cách khác, quan hệ hôn nhân
không được ghi nhận là cơ sở để xác định diện thừa kế.
Sau năm 1945, pháp luật thừa kế ở nước ta đã có sự tiến bộ vượt trội
khi quyền bình đẳng giữa nam và nữ đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm
1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: "Đàn bà
18