Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích những điều kiện cần thiết để dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và quy luật ra đời của Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.02 KB, 13 trang )

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI TẬP
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Phân tích những điều kiện cần thiết để dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng Sản
Việt Nam và quy luật ra đời của Đảng?
1.1. Điều kiện khách quan
- Chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền
(CNĐQ) tiến hành chiến tranh xâm lược và áp bức các dân tộc thuộc địa (Việt Nam có tài
nguyên phong phú, vị trí chiến lược quan trọng nên là tầm ngắm của CNĐQ). Mâu thuẫn giữa
các dân tộc thuộc địa và CNĐQ ngày càng gay gắt, do đó vấn đề chống độc quyền giải phóng
dân tộc là một vấn đề cấp thiết và chỉ có Đảng của gia cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh
lịch sử này.
- Năm 1917 Cách mạng tháng 10 (CMT10) Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế
giới (thắng lợi của CMT10 đã biến học thuyết Mác thành hiện thực, khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng vô sản đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, là một tấm gương sáng đối với
các quốc gia bị bóc lột trong đó có Việt Nam, từ đó cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng của
giai cấp vô sản trên toàn thế giới, mở ra một thời đại mới với mô hình cách mạng mới là mô hình
cách mạng vô sản. Chính vì những nguyên nhân này đòi hỏi Cách mạng Việt Nam (CMVN) phải


có Đảng Cộng Sản để lãnh đạo.
- Tháng 3/1919 Quốc Tế Cộng Sản thành lập đã tạo tiền đề và điều kiện cơ bản thúc đẩy phong
trào cách mạng thế giới (vạch ra cương lĩnh chính trị, phương hướng đấu tranh giải phóng các
dân tộc thuộc địa trên lập trường cách mạng vô sản; vạch ra cương lĩnh, đường lối đấu tranh của
CMVN; truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán của
CMVN như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Lê Hồng Phong …) tạo tiền đề quan trọng cho quá trình
thành lập Đảng cách mạng của Việt Nam.



1.2. Điều kiện chủ quan
- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai
cấp nước ta trong thời đại mới.
- Trước sự đàn áp, bóc lột hết sức dã man và tàn bạo của thực dân Pháp ở Việt Nam lúc này đã
làm gay gắt thêm các mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam. Tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, đặc biệt là mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu tranh để tự giải phóng.
Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta: là nhu cầu bức thiết
của dân tộc. Có một số đảng đứng lên lãnh đạo quần chúng nổi dậy nhưng vẫn chỉ mang tính tự
phát. Đặc biệt các đảng này tuy cùng một chí hướng là đem lại lợi ích cho người dân nhưng lại đi
theo những con đường khác nhau có thể dẫn đến thực dân Pháp lợi dụng mà gây chia rẽ, dễ triệt
phá. Trước tình hình đó, việc thống nhất các đảng phải thành một chính đảng duy nhất là một yêu
cầu cấp bách.

Nông dân Việt Nam dưới thời thực dân Pháp (Ảnh tài liệu)
- Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt
Nam trong những năm 20 của thế kỷ này ngày càng phát triển.
- Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt
Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và là
nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chỉ tính riêng trong hơn


80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, phong trào yêu nước của nhân dân ta dâng lên mạnh mẽ như
những lớp sóng cồn nối tiếp nhau. Phong trào yêu nước liên tục và bền bỉ trong hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước đã kết thành chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở thành giá trị văn hóa tốt
đẹp nhất của dân tộc Việt Nam.
- Phong trào yêu nước của tri thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phong trào yêu nước Việt Nam những thập niên đầu
thế kỷ XX ghi dấu ấn đậm nét bởi vai trò của trí thức, tuy số lượng không nhiều nhưng lại là
những "ngòi nổ" cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp xâm lược và bọn
tay sai, cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất nước. Trong lịch sử Việt Nam một trong

những nét nổi bật nhất là sự bùng phát của các tổ chức yêu nước mà thành viên và những người
lãnh đạo tuyệt đại đa số là tri thức. Với một bầu nhiệt huyết, yêu nước, thương nòi, căm giận bọn
cướp nước và bọn bán nước, họ rất nhạy cảm với thời cuộc, do vậy, họ chủ động và có cơ hội
đón nhận những "luồng gió mới" về tư tưởng của tất cả các trào lưu trên thế giới dội vào Việt
Nam.
- Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của giai cấp công nhân
- Từ sự phân tích vị trí kinh tế- xã hội của các giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy chỉ có giai
cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Nhiệm vụ
giải phóng dân tộc được đặt lên vai giai cấp công nhân Việt Nam.
- Phong trào công nhân ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử tự nhiên. Muốn trở thành
phong trào tự giác nó phải được vũ trang bằng bằng lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin: vũ khí lý
luận và tư tưởng của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng thì cần
phải có Đảng Cộng Sản.
- Sự thành lập của Đảng Cộng Sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ tự
phát sang tự giác, nó được trang bị bằng lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Nguyễn Ái Quốc đầu
tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác Lê-nin và con đường giải phóng dân tộc theo đường lối cách mạng
vô sản. Nguyễn Ái Quốc thực hiện công cuộc truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin vào Việt Nam,
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác Lê-nin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào yêu nước và phong
trào công nhân phát triển.
- Các phong trào đấu tranh từ 1925-1929 chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng thành và đang
trở thành lực lượng độc lập. Tình hình khách quan ấy đòi hỏi phải có một Đảng Cộng Sản lãnh
đạo. Ba tổ chức cộng sản ra đời (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn), thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng.


- Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản là một xu thế khách quan của cuộc vận động giải phóng dân
tộc ở Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của phong
trào yêu nước. Tuy nhiên ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời năm 1929 họat động riêng rẽ,
tranh giành ảnh hưởng của nhau, công kích lẫn nhau, làm phong trào cách mạng trong nước có

nguy cơ chia rẽ lớn. Trước tình hình đó, 3/2/1930 Nguyễn Ái Quốc đã quyết định hợp nhất các
đảng thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai phong trào đó đều có
mục tiêu chung. Khi giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và có phong trào đấu tranh, lúc đầu là
đấu tranh kinh tế, và sau này là đấu tranh chính trị, thì phong trào công nhân kết hợp được ngay
từ đầu và kết hợp liên tục với phong trào yêu nước. Cơ sở của sự kết hợp giữa hai phong trào này
là do xã hội nước ta tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc và
tay sai. Vì vậy giữa hai phong trào đều có một mục tiêu chung, yêu cầu chung giải phóng dân tộc
làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa chính bản
thân phong trào công nhân, xét về nghĩa nào đó lại mang tính chất của phong trào yêu nước, vì
phong trào đấu tranh của công nhân không những chống lại ách áp bức giai cấp mà còn chống lại
ách áp bức dân tộc.
- Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam
phải kể đến phong trào nông dân. Đầu thế kỷ XX, nông dân Việt Nam chiếm tới khoảng hơn
90% dân số. Giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân. Ở Việt Nam,
do điều kiện lịch sử chi phối, không có công nhân nhiều mà họ xuất thân trực tiếp từ người nông
dân nghèo. Do đó giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp thành quân chủ lực của cách mạng.

2. Trình bày nội dung cơ bản và ý nghĩa của Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của
Đảng (2/1930)
2.1. Nội dung cơ bản:
- Về phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: "tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng: trên 3 phương diện chính:
- Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam
hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh; tổ chức ra quân đội công nông.


- Về kinh tế: Thủ tiêu hết quốc trái, thu toàn bộ sản nghiệp lớn của đế quốc Pháp tư bản giao cho

Chính phủ công nông; tịch thu toàn bộ ruộng đất của đế quốc làm của công và chia cho dân cày
nghèo; miễn thuế cho dân nghèo; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
- Về văn hoá, xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ được bình quyền; phổ thông giáo
dục theo hướng công nông hoá.
Những nhiệm vụ trên đây thể hiện đầy đủ yếu tố dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống
phong kiến trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội...Trong đó, chống đế quốc,
giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
- Về lực lượng cách mạng: cương lĩnh xác định đối với từng giai cấp:
+ Công nhân: Đảng phải vận động và thu phục được đông đảo công nhân làm cho giai cấp công
nhân lãnh đạo được dân chúng.
+ Nông dân: Đảng phải thu phục được đông đảo nông dân, dựa vững vào nông dân nghèo để
lãnh đạo họ làm cách mạng ruộng đất.
Đảng phải lôi kéo được tiểu tư sản, trí thức, trung nông đi về phía giai cấp vô sản, lợi dụng hoặc
trung lập phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản Việt nam. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách
mạng thì phải đánh đổ... Trong khi liên lạc với các giai cấp phải thận trọng, không đi vào con
đường thoả hiệp. Lực lượng cách mạng phải đoàn kết công nhân, nông dân, phải dựa vào dân cày
nghèo, lãnh đạo công nhân làm cách mạng ruộng đất, lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông,…
đi vào phe vô sản giai cấp. Như vậy, lực lượng cách mạng theo quan điểm của Nguyễn Ái Quốc
là hết sức rộng rãi.
- Đề ra phương pháp cách mạng Việt Nam: Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh
đổ đế quốc phong kiến.
Cương lĩnh nêu rõ vấn đề đoàn kết quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới.
- Về lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt nam. Đảng là
đội tiên phong của giai cấp vô sản để lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu tranh nhằm giải phóng
toàn thể đồng bào bị áp bức, bóc lột.
- Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt nam là bộ phận của cách mạng thế giới. Đảng phải liên
kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là với quần chúng vô
sản Pháp.
2.2. Ý nghĩa của Cương lĩnh:

- Đây là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.


- Cương lĩnh đã xác định đúng 2 nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến của cách mạng
Việt Nam trên cơ sở thấu hiểu 2 mâu thuẫn cơ bản của xã hội thuộc địa nửa phong kiến nên đã
giải quyết và đáp ứng đúng những nhu cầu bức xúc của lịch sử lúc đó.
- Cương lĩnh cũng xác định đúng trong mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ thì chống đế quốc là nhiệm
vụ hàng đầu và để thực hiện nhiệm vụ nặng nề đó thì lực lượng cách mạng phải hết sức rộng mở.
Đây là sự sáng tạo lớn của Nguyễn Ái Quốc xuất phát từ sự thấu hiểu yêu cầu và đặc điểm của
một xã hội thuộc địa-phong kiến. Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau này đã nhận xét: “Vào thời
điểm ấy (tức những năm 20-30), hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ, khó
lòng tưởng tượng” và đã mở ra một hướng phát triển mới cho dân tộc Việt Nam.
- Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử, Cương lĩnh chỉ ở dạng “vắn tắt” nên nhiều vấn đề chưa được
giải thích cụ thể. Những vấn đề đó sẽ được bổ sung, cụ thể hóa trong công cuộc lãnh đạo đấu
tranh giành chính quyền của Đảng ở giai đoạn sau.
- Cương lĩnh ấy có giá trị to lớn đối với tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của
cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc
đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của
thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là
việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Từ đó, đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác
định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện
đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.
- Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn,
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Đó chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam; kết hợp
đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách
mạng của nhân dân ta với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc

điểm thực tiễn, yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng của thời đại.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng
tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
3. Trình bày đặc điểm, tính chất, ý nghĩa của cuộc cách mạng 8/1945
3.1. Đặc điểm


Đặc điểm thứ nhất: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là một cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ thành công triệt để.
- Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tương đối muộn (1930), chủ trương làm cách
mạng có tính chất dân chủ tư sản lấy hai nhiệm vụ phản đế và phản phong làm cơ bản với giai
cấp công nhân và giai cấp nông dân làm động lực chính của cách mạng. Giai cấp công nhân lãnh
đạo toàn dân nổi lên một ngày nào đó giành độc lập dân tộc, lập chính phủ công nông. Nhưng
khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng Cộng sản thấy tình thế mới cho phép và đòi hỏi một
chuyển hướng chiến lược nhằm tạo ra đầy đủ khả năng đoàn kết tất cả dân tộc không chừa một
giai cấp nào, dù là địa chủ hay tư sản, đoàn kết xung quanh công nông liên minh đã bắt đầu được
xây dựng có hiệu quả ngay từ giai đoạn lịch sử 1930 - 1931 và được thử thách suốt mười mấy
năm.
- Trong đường lối chuyển hướng chiến lược đó, Đảng rút bớt khẩu hiệu cách mạng phản phong;
cách mạng Việt Nam từ nay là cách mạng giải phóng dân tộc, chủ yếu nhằm đạt mục đích độc
lập, tự do, lập chính quyền dân chủ cộng hoà trên cơ sở đại đoàn kết toàn dân trong đấu tranh
chính trị và vũ trang chống Pháp, chống Nhật.
Hồ Chí Minh kêu gọi:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công.”
- Nhìn lại Cách mạng Tháng Tám 1945, chúng ta thấy trong hàng ngũ cách mạng chẳng những
có công nhân, nông dân mà còn có đại địa chủ, nhiều quan lớn của triều đình, đương chức hoặc
đã về hưu; đáng chú ý là sự có mặt của nhiều vị tiêu biểu cho các tôn giáo. Các dân tộc miền núi
có mặt ngay từ những ngày khởi nghĩa tại Hà Nội, Sài Gòn. Sức mạnh của Cách mạng Tháng
Tám là sức mạnh của toàn dân Việt Nam có tổ chức, có lãnh đạo. Chính vì vậy mà Cách mạng

Tháng Tám là cuộc cách mạng thành công triệt để nhất trong các cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc.
- Trong thực tế lịch sử, Cách mạng Tháng Tám hoàn thành cả hai nhiệm vụ lớn của cách mạng
dân chủ tư sản, cách mạng phản đế và cách mạng phản phong.
Đặc điểm thứ hai: Từ một quá trình chuẩn bị lâu dài, liên tục, gian nan tột bậc, Cách mạng
Tháng Tám nổ ra và thành công nhanh, gọn, phi thường trên toàn quốc Việt Nam.
- Cách mạng Tháng Tám thì bắt đầu từ cuộc Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào thuộc Khu giải
phóng Việt Bắc cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho Chính phủ lâm thời nước Việt


Nam Dân Chủ Cộng Hoà đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Thủ đô Hà Nội. Thời gian lịch sử Cách
mạng Tháng Tám là ba, bốn tuần - thời gian lịch sử Cách mạng Tháng Tám chủ yếu là thời gian
tổng khởi nghĩa.
- Ngày 13-8, Tổng bộ Việt Minh, Thường vụ Trung ương Đảng được tin Nhật đầu hàng. Mười
một giờ đêm hôm ấy, từ Tân Trào phát ra Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa: "... đồng bào
hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi
quân thù".
- Rạng ngày 14, Tổng bộ Việt Minh ra hiệu triệu:
"Trước cơ hội có một không hai ấy, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết
can đảm, bao quanh đạo Quân giải phóng, tung xương máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đòi lấy tự do,
hạnh phúc cho nhân dân".
- Làm một cuộc tổng khởi nghĩa trên cả một nước gồm hàng chục vạn, hàng trăm vạn nhân dân,
khác xa với phát lệnh tổng tiến công cho hàng chục, hàng trăm đơn vị quân đội sẵn sàng chiến
đấu. Ở quân đội, tổ chức đã xong trước khi chiến đấu. Ở nhân dân, mọi việc đều còn phải hoàn
thành khi nhận được lệnh khởi nghĩa. Bắc Nam xa cách hàng ngàn km, điện đài thiếu hoặc không
có, tất cả cầu phà trên đường thiên lý đều bị máy bay Mỹ phá. Ngay cả liên lạc giữa Tân Trào và
Hà Nội cũng cực kỳ khó khán, vì lúc ấy đê Vĩnh Yên đã vỡ, giữa sông Hồng và Tam Đảo là một
vùng lũ lụt mênh mông.
- Tình thế lịch sử lúc này đặt ra trước mọi người một cuộc "chạy đua" nước rút giữa cách mạng
Việt Nam quyết tâm giành độc lập, tự do với quân Đồng minh nhập Việt, quân Tưởng ở miền

Bắc, quân Anh ở miền Nam.
- Quân Tưởng thì chưa bao giờ có chút cảm tình nào với Việt Nam, còn Anh thì cấu kết với Pháp.
Quân Đồng minh thì hoặc ở sát biên giới ta, bước một bước đã tới như quân Tưởng, hoặc như
quân Anh có thừa máy bay, tàu chiến để nhanh chóng vào Sài Gòn. Họ có thể có ít nhiều mâu
thuẫn với nhau, nhưng thống nhất với nhau ở chỗ ngăn cản Việt Minh giành chính quyền.
- Đúng giữa tháng tám, pháo lệnh tổng khởi nghĩa đã nổ. Việt Nam Giải phóng quân xuất phát
đánh quân Nhật ở hai cửa ngõ đông, tây của Tân Trào là Thái Nguyên và Tuyên Quang. Chiến
cuộc đang tiếp diễn thì ngày 19, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Hà Nội thành công gọn. Đó là
tiếng súng lệnh cho tất cả các đơn vị trên toàn chiến trường sẵn sàng tiếp ứng. Ngày 23, chỉ bốn
ngày sau Hà Nội, Huế khởi nghĩa thắng lợi. Nhân dân Sài Gòn, tới phiên mình, hoàn thành khởi
nghĩa đêm 24, rạng ngày 25.
- Chưa đầy một tuần lễ, tổng khởi nghĩa thành công trên một đất nước dài hơn 2 ngàn kilômét.


Tất cả đồng bào các tỉnh, huyện, xã nối tiếp nhau, từ Bắc chí Nam, từ miền biển đến miền núi
đều nhất tề đứng dậy và đều thành công trọn vẹn.
- Khởi nghĩa chỉ có mấy ngày mà hoàn thành thì phải chuẩn bị 15 năm mới được như vậy. Trong
15 năm liên tục, Đảng Cộng sản và Mặt trận (Phản đế, Dân chủ, Việt Minh) đã hy sinh hàng vạn
chiến sĩ trong tù, trên máy chém, trong hàng ngàn cuộc bãi công, biểu tình, bãi thị, khởi nghĩa
địa phương; nhưng kết quả lớn nhất của phong trào là qua đấu tranh kinh tế, chính trị và tư
tưởng, Đảng và Mặt trận đã gây được một điều rất cơ bản là làm cho quần chúng nhân dân không
còn rời rạc, không còn thờ ơ với chính trị, mà trái lại hàng triệu người dân từ nay có ý thức về
sức mạnh của mình, có ý thức về vai trò lịch sử của mình. Đó là việc rất lớn không phải đảng nào
cũng biết đặt ra, không phải đảng nào cũng làm nổi. Đó là việc rất lâu dài, phải trải qua đấu tranh
cách mạng gian khổ mới được. Nhờ vậy mà, khi thời cơ thuận lợi cho khởi nghĩa sắp đến, Đảng
Cộng sản và Mặt trận Việt Minh đã tạo nên một lực lượng cách mạng cực kỳ hùng hậu mà trong
thuật ngữ bấy giờ gọi là "đạo quân chính trị"
Đặc điểm thứ ba: Cách mạng Tháng Tám là sự phát huy đến cao độ tính sáng tạo, tính chủ
động, tự lực, tự cường, truyền thống của đại quần chúng và của cán bộ địa phương trên khắp
các vùng đất nước.

- Tính nhân dân, tính quần chúng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là điều nổi bật đối với
bất kỳ nhà nghiên cứu sử học nào. Đây không phải là một cuộc nổi dậy của riêng những đảng
viên cộng sản. Đây không phải là một “Yên Bái”, một “Sài Gòn 1916”.
- Sài Gòn 1916, Yên Bái 1930 đều là những cuộc nổi dậy can đảm, anh hùng của riêng Thiên địa
hội, của riêng Quốc dân Đảng, của riêng những đội tiên phong, không phải của quần chúng nhân
dân.
- Tính sáng tạo, chủ động, tự lực, tự cường của nhân dân và cán bộ địa phương góp phần rất lớn,
khó đánh giá hết, cho sự thành công của khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám. Trong hoàn cảnh
không có liên lạc bằng vô tuyến điện mà khởi nghĩa Hà Nội, khởi nghĩa Huế, khởi nghĩa Sài Gòn
chỉ nổ ra cách nhau có năm, ba ngày. Thời gian năm, ba ngày không đủ để một đoàn thể tổ chức
một cuộc mít-tinh, thế mà từ ngàn dặm, một tiếng gọi khởi nghĩa phát ra được đồng bào toàn
quốc răm rắp nghe theo và làm đúng.
- Trong 15 năm hoạt động cách mạng (1930 – 1945) Đảng Cộng sản bị đánh trúng tới hai lần, hai
lần Tổng Bí thư Đảng bị sát hại. Việc lập lại cơ sở và hệ thông Đảng thật không dễ dàng, nhanh


chóng. Vậy mà, trên thực tế, các xứ uỷ đảng không bao giờ ngừng hoạt động. Chính bản thân các
xứ uỷ cũng nhiều lần bị phá tan, nhưng các tỉnh, thành không bao giờ vắng tiếng cộng sản kêu
gọi đồng bào địa phương. Các đảng bộ địa phương, nói chung đểu biết tự động, tự lực, tự cường,
theo đường lối vạch sẵn, hoặc trong tình hình đổi mới, tự vạch ra con đường đi theo chủ nghĩa
Mác – Lênin, theo chính kiến của Nguyễn Ái Quốc. Nói cho cùng, sở dĩ có sự thật tốt đẹp đó là
do phần lớn các đồng chí bị tù, bị đày biệt xứ lúc trở vể đều biết tự động tuỳ theo sức và năng lực
của mình và anh em xung quanh mà “bắt rễ” vào đồng bào, lập lại cơ sở, hệ thống, không bị
động chờ đợi sự chỉ đạo của cấp trên.
- Tự lực, tự cường là một đức tính truyền thống của Đảng và Đảng viên. Cơ sở tổ chức đã có,
cách tổ chức đấu tranh đã từng được huấn luyện và hành động thì việc nối liên lạc với nhau, bảo
nhau cùng thực hiện một đường lối đã được đồng tình không phải là điều khó. Do đó, khi tin
Nhật đầu hàng được biết thì khắp nước, các đảng bộ đều thấy như nhau là thời cơ khởi nghĩa đã
đến, chỉ còn vấn đề là cả nước ta có đủ lực lượng hay chưa? Lâu nay, toàn Đảng, từ trung ương
đến địa phương đều được giáo dục như vậy.


Cuộc mít-tinh đã biến thành cuộc biểu tình, tuần hành thị uy, bắt đầu từ quảng trường Nhà hát Thành
phố và lan khắp nơi trên phố phường Hà Nội. (Ảnh tư liệu.)

Đặc điểm thứ tư: Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng được Đảng Cộng sản lãnh
đạo.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 đánh dấu một bước tiến, nói cho đúng là một bước
ngoặt, một bản chất mới trong lịch sử hình thành đảng chính trị Việt Nam. Bước tiến, chỗ ngoặt
đó là gì?


- Thứ nhất là lần đầu tiên, ở Việt Nam, có một chính đảng cách mạng, cứu nước chẳng những lấy
tên là Việt Nam mà còn đạt được cơ sở hệ thống ở toàn quốc Việt Nam, trên cả ba kỳ, trên tất cả
các tỉnh từ Cao Bằng đến Bạc Liêu, từ Hà Nội, Huế đến Sài Gòn. Tất nhiên, đó là cả một quá
trình xây dựng đầy xương máu.
- Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất – tôi nhấn mạnh chỗ “duy nhất” –
không bị đế quốc thực dân tiêu diệt trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh đế quốc, tất cả – tôi
nhấn mạnh ở cho “tất cả” – đều bị thực dân đế quốc đánh tan hết, đều không có đời sông lâu dài.
Oanh liệt như Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học mà chỉ có thể sống không đầy hai
năm rưỡi, từ tháng chạp năm 1927 đến tháng hai năm 1930, tuy rằng khủng bố thực dân sau Yên
Bái so với khủng bố thực dân sau Xô viết Nghệ Tĩnh và sau Nam Kỳ khởi nghĩa, thì còn xa mới
nặng bằng. Vậy mà Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn là “trường sinh bất tử”, tiêu biểu cho nghị lực
bất tận và ý chí gang thép của dân tộc Việt Nam.
- Thứ ba là, trường sinh bất tử dưới bất kỳ mức khủng bố nào là trọng yếu lắm nhưng cũng chưa
đủ. Còn sống mà cứ “mai danh ẩn tích” trên núi cao, trong rừng sâu hoặc ở nước ngoài, thỉnh
thoảng lên tiếng, còn sông mà xa lạ lạnh nhạt với phong trào đấu tranh tự phát của đồng bào
mình, thì “bất tử” ấy chỉ ngang hàng với bất lực. Mình không góp sức tạo thời cơ, xây dựng lực
lượng thì chỉ có thể làm nhân chứng bất lực của lịch sử mà thôi. Đảng Cộng sản có mặt mọi lúc
và mọi nơi với đồng bào cả nước, trong lúc khó cũng như trong lúc dễ, trong khi thắng cũng như
trong khi bại, bao giờ cũng đứng ở đầu sóng ngọn gió.

- Thứ tư là Đảng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, ngay từ đầu đến cuối, quan niệm rằng:
Đảng lãnh đạo nhân dân nghĩa là bền bỉ tuyên truyền giáo dục ý thức cho nhân dân (phần nhiều
bị giam hãm trong vòng dốt nát), giáo dục ý thức về quyền lợi, đặc biệt về sức mạnh của mình.
Đảng lãnh đạo nhân dân là làm sao cho những chiếc đũa rời rạc ai bẻ cũng gãy, được trở thành
bó đũa tay nào cũng không bẻ nổi. Đảng lãnh đạo không phải là đứng êm trong bóng tốì mà xúi
giục; Đảng lãnh đạo là đảng viên luôn luôn đi hàng đầu trước hàng lính cảnh sát lê dương vũ
trang sẵn sàng còng, súng. Nhiều khi đòi táng một hào lương, đòi giảm một giạ tô, đảng viên
phải dám đi đầu, chịu 5, 10 năm tù, một hai phát đạn. Cho nên, nhân dân tin rằng Đảng vì dân
mà chiến đấu, vì đồng bào, vì đất nước mà hy sinh, không vì lợi quyền ích kỷ riêng tư nào cả. Sở
dĩ Đảng trường tồn bất tử, không tù ngục súng đạn nào diệt nổi, và khi khởi nghĩa nổ ra, được đa
số nhân dân tích cực, chủ động, sáng tạo tham gia, chính là nhờ mốì quan hệ máu thịt của dân
với Đảng.


- Thứ năm, điều quan trọng bậc nhất về quan niệm và thi hành lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong suốt quá trình cách mạng dài 15, 20 năm, là Đảng có đủ lý luận, trí tuệ và tấm lòng để
vạch ra đưòng đi tới chốn vinh quang của dân tộc. Nhà viết sử trong và ngoài nước, trước kia và
sau này không thể nào phát hiện được bất kỳ một đảng nào đã vạch ra một đường đi chính xác
như thế, con đường đi có uyển chuyển tuỳ lúc, tuỳ nơi nhưng nhìn chung là không thay đổi so
với mục tiêu dân tộc độc lập, chính thể dân chủ, đồng bào hạnh phúc, danh dự dân tộc được bảo
vệ vẻ vang.
Trong các đặc điểm của Cách mạng Tháng Tám Việt Nam 1945, đặc điểm thứ tư này là quan
trọng nhất; ở tất cả các nước thuộc địa trên thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ có cách
mạng dân tộc giải phóng Việt Nam mới mang lại cái đặc điểm lớn này, một đặc điểm sẽ ảnh
hưỏng sâu sắc tới sự thắng lợi của 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
3.2. Tính chất
Tính chất của cách mạng tháng 8/1945 là giải phóng dân tộc
- Cách mạng tháng 8 năm 1945: Toàn dân không phân biệt tầng lớp, giai cấp, là công dân Việt
Nam đều có quyền và nghĩa vụ đánh đuổi đế quốc giành độc lập.
- Dân chủ nhân dân là sau khi giành được độc lập dân tộc thì quyền lợi, nghĩa vụ của mọi công

dân không phân biệt trí thức, công nhân, nông dân đều có quyền bình đẳng như nhau; Thực hiện
nghĩa vụ công dân và pháp luật của nhà nước như nhau, được hưởng phúc lợi xã hội như nhau.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
3.3. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám 1945
- Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam
bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta
từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đánh giá
về ý nghĩa lớn lao này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ
nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính
quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do,
hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”. Tiếp tục nhấn mạnh
giá trị đó, trong Bài phát biểu tại khóa họp Xô viết Tối cao Liên Xô nhân kỷ niệm 40 năm Cách
mạng tháng Mười, ngày 6-11-1957 đăng trên báo Nhân dân, số 1341, ngày 10-11-1957, Người
lại khẳng định: “Năm 1945, nhân dân Việt Nam đã làm Cách mạng Tháng Tám, đánh đuổi bọn


thực dân ra khỏi đất nước và xây dựng chính quyền nhân dân. Đó là một bước ngoặt trong lịch
sử của dân tộc chúng tôi”. Thắng lợi này đã chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực
dân Pháp đối với nước ta, mở kỷ nguyên độc lập, lần đầu tiên tên nước Việt Nam có tên bản đồ
thế giới; đồng thời đã mở ra mối quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới với tư cách và vị
thế của một quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền: “Lịch sử dân tộc ta đã có nhiều thời kỳ
rất vẻ vang. Nhưng trước ngày Cách mạng Tháng Tám, dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ
vô cùng tủi nhục. Trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn chữ “Đông Dương
thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi đồng bào ta là lũ Annamít dơ bẩn. Thiên hạ gọi chúng ta là vong
quốc nô.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của
dân tộc Việt Nam và là thắng lợi vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ thắng lợi to lớn đó, đã cổ vũ nhân dân ta kiên cường đấu tranh
giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 lịch sử.

Đất nước hoàn toàn độc lập, người dân được hoàn toàn tự do, hạnh phúc.



×