Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

SỰ ĐA DẠNG VỀ TỔ CHỨC, HỆ PHÁI CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 195 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI LỆ QUYÊN

SỰ ĐA DẠNG VỀ TỔ CHỨC, HỆ PHÁI
CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI - 2020


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI LỆ QUYÊN

SỰ ĐA DẠNG VỀ TỔ CHỨC, HỆ PHÁI
CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 9229009

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS NGUYỄN THANH XUÂN

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết luận khoa học của luận
án chưa từng được công bố trên bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Bùi Lệ Quyên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.2. Cơ sở lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu
1.3. Những khái niệm liên quan đến luận án

Trang
1
7
7
25
29

Chương 2: ĐẠO TIN LÀNH VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ
ĐA DẠNG VỀ TỔ CHỨC, HỆ PHÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Đạo Tin lành và những đặc điểm cơ bản
2.2. Quá trình du nhập, phát triển của các tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam

2.3. Những yếu tố tác động đến sự đa dạng tổ chức, hệ phái của đạo Tin
lành ở Việt Nam

34
34
52
59

Chương 3: THỰC TRẠNG SỰ ĐA DẠNG VỀ TỔ CHỨC, HỆ PHÁI CỦA
ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Sự đa dạng về thời gian, nguồn gốc du nhập của các tổ chức, hệ phái
Tin lành ở Việt Nam
3.2. Sự đa dạng về loại hình của các tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam
3.3. Sự đa dạng về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ
chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam

72
72
83
100

Chương 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ KIẾN NGHỊ VỀ CÔNG TÁC
ĐỐI VỚI SỰ ĐA DẠNG VỀ TỔ CHỨC, HỆ PHÁI CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Những vấn đề đặt ra từ sự đa dạng về tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam
4.2. Xu hướng đa dạng về tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam
4.3. Một số giải pháp, kiến nghị về công tác đối với Tin lành
KẾT LUẬN

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
ĐÃ CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

121
121
131
134
144
148
149
161


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Số lượng tổ chức, hệ phái và tín đồ các tỉnh Đồng bằng sông Hồng tính
đến 3/2015 và 4/2019 .........................................................................93
Biểu đồ 3.2. Số lượng tổ chức, hệ phái và tín đồ các tỉnh miền núi phía Bắc tính đến
3/2015 và 4/2019................................................................................94
Biểu đồ 3.3. Số lượng tổ chức, hệ phái và tín đồ các tỉnh miền Trung tính đến
3/2015 và 4/2019................................................................................94
Biểu đồ 3.4. Số lượng tổ chức, hệ phái và tín đồ các tỉnh Tây Nguyên, Bình Phước
tính đến 3/2015 và 4/2019 ..................................................................95
Biểu đồ 3.5. Số lượng tổ chức, hệ phái và tín đồ các tỉnh Đông Nam Bộ tính đến
3/2015 và 4/2019................................................................................95
Biểu đồ 3.6. Số lượng tổ chức, hệ phái và tín đồ các tỉnh Tây Nam Bộ tính đến
3/2015 và 4/2019................................................................................96



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1911 đã đặt dấu mốc cho công cuộc truyền giáo Tin lành của các giáo
sỹ Bắc Mỹ vào Việt Nam. Có thể nhận định, so với các tôn giáo có nguồn gốc từ
nước ngoài, Tin lành du nhập vào Việt Nam muộn hơn. Gần 65 năm, từ năm 1911
đến năm 1975, đạo Tin lành ở Việt Nam có khoảng gần 180 ngàn tín đồ với gần
mười tổ chức, hệ phái, trong đó chủ yếu là Hội thánh Tin lành Việt Nam (Hội
Truyền giáo The Christian and Missionary Alliance - CMA do mục sư A. B.
Simpson sáng lập truyền vào), có mặt chủ yếu ở các tỉnh phía Nam.
Từ năm 1975, do nhiều nguyên nhân, việc nhận thức và giải quyết vấn đề tôn
giáo theo quan điểm cũ; hướng tới hạn chế, thu hẹp tôn giáo, đặc biệt sau khi một
bộ phận tín đồ đạo Tin lành ở Tây Nguyên bị FULRO lợi dụng đã khiến đạo Tin
lành ở phía Nam không được nhìn nhận hợp pháp về tổ chức. Trong khi đó ở miền
Bắc, đạo Tin lành hoạt động cầm chừng; số lượng tín đồ, mục sư ít ỏi.
Tuy nhiên những năm gần đây, đạo Tin lành không những không thu hẹp mà
còn tồn tại, phát triển với sự gia tăng nhanh về số lượng tín đồ và mở rộng phạm vi
hoạt động ở Việt Nam, đặc biệt ngày càng nhiều tổ chức, hệ phái và nhóm Tin lành
xuất hiện. Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2015 cả nước có trên
dưới 100 tổ chức, hệ phái và nhóm Tin lành khác nhau hoạt động trên địa bàn các
địa phương trong cả nước. Sự đa dạng về tổ chức, hệ phái được coi là “căn tính” của
đạo Tin lành, nhưng tốc độ gia tăng nhanh các tổ chức, hệ phái của Tin lành ở Việt
Nam là điều bất thường cần quan tâm.
Sự phát triển đột biến của đạo Tin lành về số lượng tín đồ, số lượng tổ chức,
hệ phái và mở rộng phạm vi hoạt động đã biến đạo Tin lành ở Việt Nam trở thành
vấn đề “vừa mới, vừa lớn, vừa khó”, vừa mang tính thời sự (tính cập nhật, nóng lên
hàng ngày liên quan đến vấn đề Tin lành), vừa mang tính thời đại (liên quan đến
thời kỷ đổi mới mở cửa, công nghiệp hóa - hiện đại hóa), thu hút sự quan tâm của
các nhà khoa học, chính trị, quản lý và của các cấp, các ngành, từ trung ương đến

địa phương.


2
Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 04 tháng 02
năm 2005 Về một số công tác đối với đạo Tin lành, với sự nỗ lực của các ngành ở
trung ương và các địa phương, tình hình đạo Tin lành ở Việt Nam chuyển biến tích
cực, hoạt động đi theo xu hướng ổn định và tuân thủ pháp luật, những mặt tiêu cực
trong quá trình truyền đạo, theo đạo giảm đi và triệt tiêu dần, những mặt tích cực
được bộc lộ và phát huy. Tuy nhiên, tình hình đạo Tin lành ở Việt Nam vẫn còn nổi
lên nhiều vấn đề cần quan tâm, trong đó có việc nhiều tổ chức Tin lành mới hình
thành, mới truyền vào chưa được đăng ký và công nhận tư cách pháp nhân về tổ
chức, vẫn hoạt động “ngoài vòng pháp luật”. Điều này gây ảnh xấu đến xã hội, dư
luận ở Việt Nam và cả trên bình diện quốc tế.
Đến nay nhiều nghiên cứu về đạo Tin lành ở Việt Nam, về chính sách tôn
giáo đối với đạo Tin lành của Đảng và Nhà nước đã đạt được những kết quả quan
trọng, nhiều công trình được công bố và xã hội hóa. Tuy nhiên, nghiên cứu một
vấn đề cụ thể về sự đa dạng của tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam hiện nay,
phục vụ cho việc nhận diện đầy đủ về đạo Tin lành, từ đó có cơ sở để thực hiện
tốt chính sách đối với đạo Tin lành, chưa được các nhà nghiên cứu và quản lý quan
tâm đúng mức.
Đặt vấn đề như vậy, đề tài nghiên cứu “Sự đa dạng về tổ chức, hệ phái của
đạo Tin lành ở Việt Nam hiện nay” để nhận thức, ứng xử với sự đa dạng về các tổ
chức, hệ phái Tin lành trong điều kiện mới. Đây là nhiệm vụ cần thiết, cấp bách và
có ý nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu của luận án
Luận án nghiên cứu, làm rõ hiện trạng đa dạng của các tổ chức, hệ phái Tin
lành ở Việt Nam từ sau năm 1975 đến nay; luận giải nguyên nhân, những vấn đề đặt
ra, dự báo xu hướng; từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để góp phần thực

hiện tốt công tác quản lý của Nhà nước đối với Tin lành trong bối cảnh Việt Nam
tiếp tục đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục tiêu đã nêu trên, luận án sẽ giải quyết một số nhiệm vụ sau:


3
Một là, phân tích những đặc trưng của Tin lành về tôn giáo và xã hội, làm rõ
quá trình du nhập, phát triển của Tin lành ở Việt Nam và các yếu tố tác động đến sự
đa dạng về tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam;
Hai là, phân tích hiện trạng sự đa dạng về tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt
Nam hiện nay;
Ba là, xác định một số xu hướng đa dạng về tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt
Nam, một số vấn đề đặt ra và những giải pháp, kiến nghị về công tác đối với các tổ
chức, hệ phái Tin lành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự đa dạng của các tổ chức, hệ phái của Tin lành ở Việt
Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu các tổ chức, hệ phái
của Tin lành ở Việt Nam, tuy nhiên tập trung ở địa bàn các thành phố lớn (thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng), một số tỉnh đồng bằng và miền
núi phía Bắc (Lào Cai, Lai Châu, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Hải
Dương), một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên (Đắc Nông, Đắc Lắc, Lâm Đồng).
Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu các tổ chức, hệ phái
Tin lành hoạt động tính từ năm 1975 đến nay, tập trung ở giai đoạn 2005 (thời điểm
ra đời Chỉ thị 01 Về một số công tác đối với đạo Tin lành) đến năm 2019.
Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu những nhóm nhân
tố tác động đến sự đa dạng tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam hiện nay; hiện

trạng đa dạng; những vấn đề đặt ra từ sự đa dạng, xu hướng biểu hiện tính đa dạng
tổ chức, hệ phái Tin lành trong tương lai và đưa ra những đề xuất, kiến nghị.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách pháp
luật của Nhà nước về tôn giáo, đặc biệt là: quan điểm lịch sử cụ thể và toàn diện


4
trong xem xét các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; quan điểm về nguồn gốc hiện
thực của tôn giáo; quan điểm tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; quan điểm đoàn kết đồng bào có đạo, đoàn kết giữa các tôn giáo, đoàn kết
toàn dân tộc.
Bên cạnh đó, luận án còn được thực hiện trên cơ sở đường lối, chủ trương
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về công tác đối với đạo Tin
lành, đặc biệt là: quan điểm về vấn đề theo đạo, truyền đạo tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật; chủ trương công nhận tư cách pháp nhân đối với các tổ chức, hệ phái đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trước hết, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu chung dựa trên phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phương
pháp luận này xem xét các tổ chức, hệ phái Tin lành Việt Nam với trạng thái vận
động, phát triển đa dạng riêng nhưng có mối quan hệ tác động qua lại nhất định theo
chiều dọc, chiều ngang, quốc gia - quốc tế trên tinh thần đồng đức tin Kitô.
Trên cơ sở đó, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:
Một là, phương pháp phân tích và tổng thuật tài liệu thứ cấp: Luận án thu
thập, phân tích, tổng thuật các tài liệu đã có. Đây đồng thời cũng là một nhiệm vụ
quan trọng của luận án, giúp tác giả luận án kế thừa chọn lọc thành tựu nghiên cứu
từ các học giả đi trước, tìm ra khoảng trống và bổ sung thêm những luận cứ, luận

chứng cá nhân thu thập được.
Hai là, phương pháp tiếp cận khảo sát: Tác giả luận án tập trung vào 3
phương pháp điển hình trong tiếp cận khảo sát là tiếp cận nội quan, tiếp cận lịch sử
và lôgic, tiếp cận cá biệt và so sánh, hệ thống cấu trúc. Cụ thể là, luận án bày tỏ
quan điểm, nhận định cá nhân bằng phương pháp tiếp cận nội quan; thu thập thông
tin, xử lý số liệu về các tổ chức, hệ phái Tin lành Việt Nam theo thời gian, dòng sự
kiện bằng phương pháp tiếp cận lịch sử và lôgic; đánh giá sự đa dạng các tổ chức,
hệ phái Tin lành Việt Nam trong mối tương quan với nhau và với một số tổ chức, hệ
phái Tin lành nước ngoài (cụ thể là Mỹ) cũng như Phật giáo là một tôn giáo khác
bằng phương pháp tiếp cận cá biệt và so sánh, hệ thống và cấu trúc.


5
Ba là, phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Nhằm có cái nhìn toàn diện, đa
chiều và đạt mục tiêu nghiên cứu, tác giả luận án sử dụng phương pháp xin ý kiến
chuyên gia là những nhà nghiên cứu khoa học chuyên sâu. Phương pháp này được
hỗ trợ thêm bằng phương pháp phỏng vấn sâu trong quá trình tác giả đi điền dã,
quan sát, phỏng vấn, ghi chép từ thực tiễn. Tác giả luận án sử dụng phương pháp
phỏng vấn sâu đối với các đối tượng gồm nhà quản lý công tác Tin lành của Ban
Tôn giáo, Sở Nội vụ, đại diện chính quyền địa phương ở địa bàn có Tin lành (ví dụ
công an, chủ tịch xã,...), mục sư Tin lành, tín đồ Tin lành. Bên cạnh đó, tác giả cũng
lồng ghép các phương pháp khác như quan sát tham dự, phân tích tình huống, diễn
dịch, quy nạp,...
5. Đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, luận án là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện, hệ thống, cập
nhật về tính đa dạng tổ chức, hệ phái Tin lành Việt Nam.
Thứ hai, luận án làm rõ diện mạo sự đa dạng tổ chức, hệ phái Tin lành Việt
Nam dưới các góc độ thời gian, nguồn gốc ra đời, xu hướng thần học, cơ cấu tổ
chức, phương thức hoạt động, tín đồ, cơ sở pháp lý.
Thứ ba, luận án nhận định một số vấn đề thực tiễn đặt ra từ sự đa dạng tổ

chức, hệ phái Tin lành Việt Nam và những dự báo xu hướng, kiến nghị giải pháp
phù hợp, khả thi cho công tác tôn giáo của nhà nước từ sự đa dạng ấy.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Ở một mức độ nhất định, luận án đóng góp một số luận cứ khoa học trong
nghiên cứu lý luận về đa dạng tổ chức, hệ phái Tin lành, về các tổ chức, hệ phái
Tin lành.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trước hết, kết quả nghiên cứu bước đầu của luận án thiết thực hỗ trợ nhiệm
vụ giảng dạy đại học của tác giả về Lý luận tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam. Luận án còn có thể trở thành một tài liệu tham khảo trong nghiên cứu tổng
quan hoặc chuyên sâu về Tin lành cũng như từng tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt
Nam. Ở góc độ khác, việc luận án nhận định những vấn đề đặt ra hiện nay và dự


6
báo những biểu hiện đa dạng tổ chức, hệ phái Tin lành trong tương lai góp phần
nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo của nhà nước đối với đạo Tin lành nói chung,
từng tổ chức, hệ phái Tin lành nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài Lời cam đoan, mục lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình
nghiên cứu khoa học, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 4 chương,
12 tiết.


7
Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ


1.1.1. Những nghiên cứu về các tổ chức, hệ phái Tin lành trên thế giới và
Việt Nam
Một số nghiên cứu từ tác giả nước ngoài
Năm 1999, Mười tôn giáo lớn trên thế giới do Hoàng Tâm Xuyên chủ biên
được xuất bản [158]. Tính đến năm 2016, tác phẩm đã 5 lần được tái bản ở Việt
Nam. Trong đó, nhóm các tác giả xem đa dạng tổ chức, hệ phái như là một tất yếu
lịch sử của đạo Tin lành thế giới.
Ngoài việc khái quát về mười tôn giáo lớn hiện nay trên thế giới như đạo Cơ
đốc, đạo Phật, đạo Hồi,… công trình còn phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa tôn
giáo với phát triển xã hội, tôn giáo với tiến bộ văn hóa, sự cố gắng đối thoại giữa
“những người khác nhau về tông phái và hình thái ý thức”,… Công trình bao gồm
13 chương, trong đó, phần “Phái hệ và thể chế tổ chức” (thuộc chương XII “Đạo Cơ
đốc”) đưa ra nhận định về đạo Tin lành nói chung và Tin lành Trung Quốc nói riêng
trong thế so sánh với hai phái khác được tách ra từ Cơ đốc giáo là Công giáo và
Chính thống giáo.
Hoàng Tâm Xuyên và các học giả Trung Quốc gọi các tổ chức, hệ phái là
các “tông phái”. Làm rõ sự đa dạng về tổ chức, hệ phái như là tính tất yếu lịch sử
của đạo Tin lành, nhóm tác giả nhận xét thêm “trong Tin lành thì tông phái xuất
hiện nhiều như cây rừng, chẳng ai quản được ai. Gần đây tuy có đề xướng cuộc vận
động giáo hội phổ thế, nhưng về tổ chức cũng chưa thể hợp nhất thực sự” [158,
tr.508]. Các học giả chỉ rõ, xu hướng ngày càng đa dạng các tổ chức, hệ phái được
xem như là “một trong những đặc điểm nổi bật nhất của tư tưởng thần học Cơ đốc
đương đại” [158, tr.520]. Quan điểm này được họ bình chú bởi hàng loại minh
chứng như: hiện nay phần lớn các tông phái Tin lành chỉ thừa nhận lễ Bắp - têm và
Tiệc thánh là Thánh lễ do đích thân chúa Giê su định ra nhưng cũng có tông phái
không thừa nhận, không ít tông phái không còn ăn bánh thánh trong dịp lễ ngày Chủ


8

nhật,… ngày càng nhiều tông phái nỗ lực xây dựng tổ chức “mang tính Đường hội
để tiện việc quản lý tập thể đối với giáo hội” [158, tr.520], nhiều loại tông phái cùng
tồn tại, thúc đẩy nhau phát triển như Tông Vệ Lý, Tông Tín nghĩa, Hội Cứu nghệ,
Hội Cứu thế quân, Hội Ngũ Tuần tiết,…
Năm 2006, Jean Baubérot xuất bản Lịch sử đạo Tin lành [78], qua đó tiếp tục
khẳng định tính tất yếu lịch sử trong tính đa dạng của Tin lành thế giới. Cuốn sách
phân tích những đặc trưng của đạo Tin lành (tập trung trong chương 1); quá trình
hình thành, phát triển đạo Tin lành với những nhân vật thần học Tin lành tiêu biểu,
sự kiện điển hình, tại các vùng lãnh thổ thể hiện rõ nhất dấu ấn của Tin lành như
Đức, Thụy Sĩ, Anh, Pháp, Mỹ,… (tập trung trong chương II, III); những cơ hội phát
triển, khó khăn, thách thức và các vấn đề mới phát sinh đối với Tin lành hiện nay
(tập trung trong chương IV, V, VI).
Nghiên cứu một cách khái quát các niên điểm phát triển của Tin lành trong
lịch sử nhân loại, tác giả khẳng định cùng những dạng mới về tổ chức chính trị dân
chủ tư sản, Tin lành góp phần tạo nên sự tiếp hợp “mang tính lịch sử” đối với tổ
chức tư bản (tức là nhà nước tư bản). Từ đó, tác giả đồng quan điểm với Max
Weber khi cho rằng những người Tin lành “đã tham dự làm xuất hiện một xã hội
phương Tây hiện đại” [78, tr.179] và “đã đóng góp vào sự hình thành của chủ nghĩa
tư bản” [78, tr.96]. Trong đó “tính đa giáo phái” của Tin lành được xem như là một
“sự bùng nổ uy quyền tôn giáo” tất yếu [78, tr.65], phù hợp với “tính hợp lý đặc thù
của xã hội công nghiệp” [78, tr.179].
Mặc dù công trình không trực tiếp nghiên cứu sự đa dạng tổ chức, hệ phái
của Tin lành, song những nhận định của tác giả đã khẳng định một đời sống Tin
lành sống động, phong phú từ khi mới ra đời đến nay với nhiều tác phẩm thần học,
xu hướng thần học, tổ chức giáo hội, các cuộc đấu tranh,… Trong phần kết luận, tác
giả bày tỏ quan điểm rằng “tính đa giáo phái” đã là “một tất yếu lịch sử” của Tin
lành, tiếp tục có khả năng vẫn là xu hướng phát triển của Tin lành trong tương lai.
Bởi lẽ, hiện nay, Tin lành đang phải “đối diện” với “cái thế giới hiện đại mà chính
nó đã góp phần tạo nên” [78, tr.151]. Tin lành buộc phải lựa chọn hoặc “các giáo
phái chống đối lẫn nhau” hoặc tìm cách cùng chung sống với nhau, tức là “con



9
đường duy trì tính thống nhất bằng chủ nghĩa đa nguyên nội bộ, sự đa dạng về các
tổ chức, hệ phái” [78, tr.185].
Năm 2008, Max Weber trong Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư
bản [89] chỉ rõ hơn rằng sự đa dạng về tổ chức, hệ phái cũng đã gây nên không ít xung
đột và diễn biến phức tạp cho Tin lành nói riêng, đời sống xã hội nói chung.
Công trình gồm hai phần, phần 1 “Vấn đề” gồm 3 chương tập trung phân tích
các khía cạnh chung của tôn giáo, “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản, các mục tiêu
nghiên cứu; phần 2 “Quan niệm đạo đức về nghề nghiệp trong đạo Tin lành khổ
hạnh” gồm 3 chương tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của Tin lành đến sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản trong tinh thần tính duy lý về kinh tế, giá trị cá nhân, kỷ luật
trong kinh doanh, lao động,…
Ở phần “Các giáo phái Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản”, các hệ
phái (sekte - tác giả trích nguyên văn theo sách dịch) được coi là “một nhóm tôn
giáo nhỏ”, là “các hội đoàn gồm những thành viên có đủ tư cách về tôn giáo”
khác với các giáo hội (kirche) được “quan niệm như là một tổ chức nhắm đến sự
cứu rỗi”. Tin lành không có giáo hội thống nhất. Sự tồn tại của hệ phái và giáo
hội là nguyên tắc có tính cơ cấu tất yếu của Tin lành và đã gây nên sự xung đột
bên trong, bên ngoài. Điều này đã được kiểm chứng qua lịch sử phát triển của
Tin lành thế giới từ nhiều thế kỷ trước đến nay, từ thời kỳ Zwingli đến Kuyper
và Stocker [89, tr.369-352].
Năm 2016, nghiên cứu sinh người Malaisia Annette Wong Ai Khim đã thực
hiện luận án A few significant protestant christian denominations officially
recognized by the VietNam government in the approach through socio- history from
2007 to present (Một số hệ phái đạo Tin lành mới được chính phủ Việt Nam công
nhận theo cách tiếp cận lịch sử và xã hội từ năm 2007 đến nay) [1].
Luận án bao gồm 3 chương: giới thiệu về đạo Tin lành và hai quan điểm về
hai tôn giáo chính/triết lý và đạo Tin lành ở Việt Nam (chương 1), lịch sử phát triển

của đạo Tin lành ở Việt Nam từ khi hình thành đến hiện tại (chương 2) và những
thách thức của các hệ phái Tin lành nổi bật được chính phủ Việt Nam công nhận
đang phải đối mặt hiện nay (chương 3).


10
Bên cạnh việc chỉ ra những “khó khăn trong việc hiểu rõ sự khác nhau về
thần giáo và đức tin cũng như sự riêng biệt của các hình thức tôn giáo giữa các hệ
phái” [1, tr.4] và việc tài liệu nghiên cứu gắn với sự phát triển các hệ phái ở Việt
Nam được lưu giữ bị thiếu hụt, tác giả đã nhận thấy, ngày nay Tin lành Việt Nam
vẫn tiếp tục phát triển nhanh chóng trở thành cộng đồng tôn giáo nổi bật với sự đa
dạng về hệ phái. Với cách tiếp cận lịch sử và xã hội, tác giả giải thích ngắn gọn
những hiểu biết cơ bản về pháp lý và thần học của các hội thánh đạo Tin lành được
công nhận ở Việt Nam (tác giả lựa chọn giới hạn nghiên cứu gồm Hội thánh Tin
lành Việt Nam miền Bắc và miền Nam, Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam, Hội
thánh Mennonite Việt Nam, Tổng hội Báp tít Việt Nam Ân điển Nam phương) đồng
thời đưa ra những cách lí giải của mình về những lí do tại sao các hội thánh được và
chưa được công nhận tư cách pháp nhân về tổ chức.
Một số nghiên cứu từ tác giả trong nước
Năm 2002, tác giả Nguyễn Thanh Xuân xuất bản Đạo Tin lành trên thế giới
và ở Việt Nam [155]. Đây là ấn phẩm đầu tiên ở Việt Nam viết chuyên về đạo Tin
lành nêu bật sự đa dạng về tổ chức, hệ phái, coi đó là một đặc điểm của đạo Tin
lành. Tác giả nói rõ thêm, tính đa dạng này cũng được thể hiện rõ nét ở Việt Nam,
qua việc có nhiều tổ chức, hệ phái cùng tồn tại, có mối liên hệ qua lại với nhau, cả
trong nước và quốc tế. Tác giả đã dành mục “Một số hệ phái Tin lành” để khái quát
hóa mối quan hệ quốc tế giữa một số hệ phái Tin lành thế giới với các hệ phái Tin
lành ở Việt Nam như Tin lành trưởng lão, Tin lành Báp tít, Tin lành Mennonite, Tin
lành Giám lý, Tin lành Thanh giáo và Giáo hội Công nghị, Tin lành Quây cơ, Tin
lành Lutheran, Tin lành Cải cách, Giáo hội Thống nhất, Tin lành Môn đệ Đấng
Christ, Tin lành Ngũ tuần, Những nhà khoa học Kitô giáo, Cơ đốc Phục lâm, Cứu

thế quân, Nazarene, Tân sứ đồ, Giáo hội Quốc tế bốn phương, Chứng nhân Jehovah
(Giê hô va), Mormon (Mặc Môn) và Hội Liên hiệp Phúc âm và Truyền giáo (trong
đó đáng chú ý là lượng tín đồ của Hội Liên hiệp Phúc âm và Truyền giáo trên toàn
thế giới chiếm tỉ lệ lớn nhất tại Việt Nam) [155, tr.287].
Năm 2011, Tọa đàm bàn tròn Đạo Tin lành ở Việt Nam giai đoạn 1976-2011
(The Protestantism in VietNam from 1976 to 2011) [134] đã có nhiều tham luận


11
xoay quanh 2 nhóm vấn đề chính: những vấn đề Tin lành chung nhất và những
trường hợp Tin lành cụ thể như ở Đà Nẵng, Thái Nguyên,…
Trong số các trao đổi, đáng chú ý là Mối quan hệ giữa Nhà nước Việt Nam
với các tổ chức Tin lành của tác giả Nguyễn Hồng Dương, Về thành phần tổ chức,
hệ phái trong đạo Tin lành tại Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Xuân Hùng,
Mấy vấn đề thần học Tin lành ở Việt Nam hiện nay của tác giả Đỗ Quang Hưng,…
Tác giả Nguyễn Hồng Dương trong bài viết “Mối quan hệ giữa Nhà nước
Việt Nam với các tổ chức Tin lành” cùng chung nhận định với nhiều nhà nghiên
cứu ở điểm “Tin lành ngay từ khi ra đời đã phân liệt thành các hệ phái” [134, tr.29]
và hiện tại, việc thống kê chính xác con số là tương đối khó khăn bởi nhiều tổ chức,
hệ phái vẫn tiếp tục ra đời. Chính tính đa dạng về tổ chức, hệ phái cùng tính đặc thù
về lịch sử truyền giáo phát triển đạo Tin lành ở Việt Nam đã trở thành “hai đặc
điểm quan trọng quy định vấn đề quan hệ giữa Nhà nước Việt Nam với các tổ chức
Tin lành ở Việt Nam” [134, tr.28]. Nguyên tắc tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo
của nhân dân, đặc biệt là việc công nhận tổ chức của đạo Tin lành đã và đang được
triển khai ở Việt Nam chính là những nguyên nhân căn bản giúp cải thiện mối quan
hệ giữa Nhà nước Việt Nam với các tổ chức, hệ phái Tin lành.
Tác giả Nguyễn Xuân Hùng trong bài viết “Về thành phần tổ chức, hệ phái
trong đạo Tin lành tại Việt Nam hiện nay” bên cạnh nhận định: “khác biệt với nhiều
tôn giáo khác, tính đa nguyên, đa dạng của đạo Tin lành có ngay từ buổi ban đầu
khi tôn giáo này ra đời” [134, tr.79] đã đi sâu làm rõ một số vấn đề thuật ngữ và

khái niệm như “giáo phái, hệ phái, giáo hội”. Trong khi thuật ngữ “giáo hội” không
gây nhiều tranh luận thì “giáo phái, hệ phái” lại tạo nên nhiều tranh luận, điển hình
nhất là 2 trường phái tranh luận “lịch sử - nguồn gốc” và “xã hội học”. Song tác giả
nhận định dẫu là trường phái nào, cũng không thể phủ nhận một thực tế là giai đoạn
hiện nay, thế giới bùng phát phong trào của nhiều nhóm phái Tin lành tự do “với
quy mô nhỏ, lúc hợp lúc tan với số lượng lên tới vài nghìn người” [134, tr.83].
Tác giả Đỗ Quang Hưng trong bài viết “Mấy vấn đề thần học Tin lành ở Việt
Nam hiện nay” chỉ ra rằng, các vấn đề chính trị - xã hội, hội nhập văn hóa, hệ phái
đã và đang trở thành những vấn đề thần học Tin lành cơ bản ở Việt Nam hiện nay.


12
Thực tế truyền giáo và đời sống thuộc linh của tín đồ chịu sự chi phối của những
giáo lí căn bản, song “dần dần, “đời sống thần học” của các mục sư, truyền đạo, tín
hữu cũng có sự thay đổi theo chiều hướng ngày càng sát hợp hơn với đời sống
thường nhật” [134, tr.122]. Trong số các đặc điểm thần học, tác giả nhận xét: “di
sản xa của Tin lành Phúc âm Pháp sẽ tiếp nối với những di sản gần (trước năm
1975) của Hội CMA, trở nên một đặc điểm thần học quan trọng nhất của cộng đồng
Tin lành Việt Nam hôm nay” [134, tr.118].
Năm 2014, tác giả Vũ Thị Thu Hà với luận án Hoạt động truyền giáo của
đạo Tin lành tại Việt Nam và Trung Quốc (từ khởi đầu đến đổi mới - cải cách mở
cửa) tiếp tục cùng tuyến quan điểm này. Luận án phân tích hoạt động truyền giáo
của đạo Tin lành từ khi tôn giáo này du nhập vào Việt Nam (từ năm 1911 đến đổi
mới năm 1986, tập trung trong chương 2) và vào Trung Quốc (từ năm 1807 đến cải
cách mở cửa năm 1979, tập trung trong chương 3).
Ở mục 1.4 của chương 1, luận án nhận định “Hiện nay, sự phát triển đa
nguyên đa hệ phái của đạo Tin lành đã hình thành nên một cục diện vô cùng phức
tạp, thần học Tin lành cũng tỏ ra vô cùng phong phú và đa dạng” [38, tr.24]. Tác giả
luận án Vũ Thị Thu Hà đánh giá thêm, các tổ chức, hệ phái Tin lành luôn luôn vận
động theo xu hướng khi thì sáp nhập, khi thì phân hóa chứ không tồn tại bất biến

nguyên thể. Trong số đó, có 6 tổ chức, hệ phái lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến các tổ
chức, hệ phái khác gồm Luther, Calvin, Anh giáo, Công lí, Báp tít, Giám lý. Ngoài
ra, hiện nay xuất hiện hàng trăm tổ chức, hệ phái Tin lành phân bố ở trên hơn 200
quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp nơi trên thế giới với những đặc điểm, phương
pháp truyền giáo khác nhau.
1.1.2. Những nghiên cứu về đa dạng, nhân tố tác động và hiện trạng sự
đa dạng của các tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam
Một là lý thuyết đa dạng, những nhân tố tác động đến sự đa dạng về tổ chức,
hệ phái Tin lành ở Việt Nam hiện nay
Một số nghiên cứu từ tác giả nước ngoài
Năm 2006, Diana L. Eck viết “From Diversity To Pluralism” (Từ đa dạng
đến đa nguyên) [160], xuất bản trên Columbia University Press (Báo Đại học


13
Columbia) (số hiệu 1-800-944-8648), đăng tải trên link báo điện tử:
/>8192a192286/1450141002478/From+Diversity+to+Pluralism.pdf.
Tác giả bài báo so sánh hai thuật ngữ “đa nguyên” (pluralism) và “đa dạng”
(diversity) và khẳng định đôi khi trong đời sống được sử dụng như thể chúng là từ
đồng nghĩa, nhưng sự đa dạng đơn giản chỉ là số nhiều, là các dạng biểu hiện. Đa
nguyên là sự tham gia tạo ra một xã hội chung từ tất cả số nhiều đó. Tác giả ví dụ,
trên cùng một con đường ở Silver Spring, Maryland có nhà thờ Công giáo Việt Nam,
chùa Phật giáo Campuchia, nhà thờ Chính thống Ukraine, Trung tâm Cộng đồng Hồi
giáo, nhà thờ Disciples of Christ và đền thờ Mangal Mandir Hindu đều nằm trong
cùng một khu phố. Đây chắc chắn là sự đa dạng, nhưng không có bất kỳ sự tham gia
hay mối quan hệ nào với nhau, nó có thể không phải là một ví dụ của đa nguyên.
Đa nguyên chỉ là một trong những phản ứng có thể có đối với sự đa dạng
này. Một số người có thể cảm thấy bị đe dọa bởi sự đa dạng, hoặc thậm chí là thù
địch với nó. Xuyên suốt lịch sử nước Mỹ đã có những nhóm bày tỏ định kiến và
không khoan dung đối với những người mới đến của các tôn giáo và văn hóa khác.

Những người khác có thể mong đến ngày khi tất cả những khác biệt này mờ dần và
nền văn hóa chủ yếu là Kitô giáo. Rõ ràng chủ nghĩa đa nguyên sẽ thu hút những
người thuộc các tôn giáo và văn hóa khác nhau trong việc tạo ra một xã hội chung không phải là một thứ có sẵn, mà là một thành tựu.
Năm 2007, trên Tuần báo ICFAI Journal of History and Culture (Tuần báo Lịch
sử và Văn hóa) số 1, trang 25-43, tiến sĩ V.S.Harrison, Department of Philosophy,
University of Glasgow Glasgow, Scotland, UK (Khoa Triết học, trường đại học
Glasgow Glasgow, Scotland, Anh) viết bài “Theorising Religious Diversity in a
Multicultural World” (Lý thuyết hóa đa dạng tôn giáo trong thế giới đa văn hóa) [162],
đăng tải trên link báo điện tử: ea rchgate.net/publication/38415694_T
heorising_religious_diversity_in_a_multicultural_world.
Bài viết này xem xét một loạt các phản ứng đối với các vấn đề tôn giáo và
triết học được nảy sinh từ “đa nguyên tôn giáo” (religious pluralism). Bên cạnh các
câu hỏi cụ thể được đặt ra từ đa nguyên tôn giáo là sự khác nhau giữa các truyền


14
thống của từng tôn giáo như thế nào, thì vấn đề chung hơn mà tất cả các trí thức tôn
giáo phải đối mặt là làm thế nào để cung cấp một lý thuyết thuyết phục về mối quan
hệ giữa các tôn giáo khác nhau trên thế giới. Bài viết đánh giá ngắn gọn chủ nghĩa
“độc thần tôn giáo” (exclusivism) và chủ nghĩa “bao gồm” (inclusivism), trước khi
tập trung vào các lý thuyết về đa nguyên tôn giáo. Sau khi làm rõ sự khác biệt giữa
đa nguyên tôn giáo và chủ nghĩa “tương đối” (relativism) về tôn giáo, và so sánh,
đánh giá các hình thức đa nguyên khác nhau, bài viết kết luận rằng mức độ
thuyết phục của bất kỳ lý thuyết cụ thể nào về sự đa dạng tôn giáo sẽ phụ thuộc
vào việc người ta thấy những giáo lý căn bản của tôn giáo thuyết phục như thế
nào. Điều này ngụ ý rằng ưu tiên thực sự của các học giả khi nói đến các lý
thuyết đối lập với đa nguyên tôn giáo là cố gắng hướng tới một sự hiểu biết
chung về bản chất của tôn giáo.
Năm 2015, Dale Tuggy viết “Theories of Religious Diversity” (Các lý
thuyết về đa dạng tôn giáo) [160] xuất bản trên tạp chí của State University of

New York at Fredonia (Hệ thống Đại học Bang New York ở Fredonia), đăng tải
trên link báo điện tử: Đây là bài báo khoa
học được trích dẫn rất nhiều trong nghiên cứu về đa dạng, đa nguyên tôn giáo trên
thế giới tính đến nay.
Cũng cùng tuyến quan điểm với V.S.Harrison ở bài viết nêu trên, tác giả
Dale Tuggy nói về đa dạng tôn giáo trên các quan điểm “đa nguyên” (pluralism),
“độc thần” (exclusivism) và “bao gồm” (inclusivism). Đa dạng tôn giáo được xem
là những sự khác biệt đáng kể trong niềm tin và thực hành tôn giáo. Điều này luôn
được công nhận bởi những người bên ngoài các cộng đồng nhỏ và cô lập nhất.
Nhưng gần đây, sự phổ biến của thông tin do du lịch, các sách báo xuất bản và di
cư đã buộc những người suy nghĩ thấu đáo phải nhìn nhận sâu sắc hơn về đa dạng
tôn giáo. Các cách tiếp cận “đa nguyên” về đa dạng tôn giáo cho rằng, bất cứ tôn
giáo nào cũng có giá trị, ý nghĩa như các tôn giáo khác trong giới hạn nào đó.
Ngược lại, các cách tiếp cận “độc thần” cho rằng chỉ có một tôn giáo là có giá trị
độc nhất. Cuối cùng, những người theo lý thuyết “bao gồm” cố gắng đứng trung
lập bằng cách đồng ý với chủ nghĩa “độc thần” là chỉ một tôn giáo có giá trị nhất,


15
trong khi vẫn đồng ý với chủ nghĩa “đa nguyên” là các tôn giáo khác cũng có giá
trị to lớn.
Năm 2008, Lưu Bành xuất bản Tôn giáo Mỹ đương đại - nằm trong bộ sách
Nước Mỹ đương đại tùng thư [23]. Đây là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về
tôn giáo Mỹ gồm 3 nội dung chính: quan hệ của người dân Mỹ với tôn giáo (tập
trung trong chương 1), quá trình hình thành, phát triển của các tôn giáo Mỹ (tập
trung trong chương 2, 3, 4, 5, 6), quan hệ của tôn giáo Mỹ với chính trị và xã hội
(tập trung trong chương 7, 8).
Tin lành được được nghiên cứu tổng hợp tập trung trong chương 3, được
nhìn nhận là một nhân tố chủ đạo, sôi động và quan trọng nhất trong tôn giáo của
nước Mỹ, góp phần làm nên tính đa nguyên với mức độ đa nguyên hóa ngày càng

gia tăng trong tôn giáo Mỹ. Đây là một đặc điểm nổi bật của tôn giáo Mỹ đương
đại. Mỹ cũng như một số nước khác trên thế giới, chiến tranh và di cư là nhân tố tác
động tới tính đa dạng của các tổ chức, hệ phái Tin lành.
Tác giả nhận định các tổ chức, hệ phái Tin lành đều phân tán, hoạt động độc
lập, có xu hướng già hóa về kết cấu tuổi tác đối với các tổ chức, hệ phái chủ lưu,
truyền thống. Số này bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc chiến tranh Nam Bắc Mỹ năm
1864, bởi các cuộc di cư, bởi các hệ văn hóa của các cộng đồng người khác nhau,...
Trong quá trình phát triển, một số tổ chức, hệ phái tỏ ra thích ứng với dòng văn hóa
chủ lưu, số khác lại trở nên cực đoan. Đến khi nào các tổ chức, hệ phái cực đoan
thay đổi địa vị, được xã hội thừa nhận thì hàng loạt tổ chức, hệ phái khác lại ra đời
[23, tr.270]. Sự tác động qua lại giữa tôn giáo và xã hội, giữa các giáo phái diễn ra
liên tục và xuyên suốt trong lịch sử tôn giáo của nước Mỹ.
Năm 2011, Nguyễn Hồng Dương và P. Hofman đã xuất bản Đa dạng tôn
giáo: So sánh Pháp - Việt Nam. Đây là công trình tập hợp các bài viết tham dự Hội
thảo của Dự án: “Tính hiện đại của tôn giáo và “đổi mới” - Sự chuyển bước của
Phật giáo và Ki tô giáo ở Việt Nam”. Trong đó, liên quan trực tiếp tới Luận án có
bài viết Một số vấn đề về cộng đồng Tin lành tại Việt Nam của Nguyễn Xuân Hùng,
Đời sống tôn giáo Việt Nam những thách thức đầu tiên của xu thế đa dạng hóa
(pluralism) của Đỗ Quang Hưng và một số bài viết của các tác giả khác.


16
Tác giả Nguyễn Xuân Hùng trong bài viết Một số vấn đề về cộng đồng Tin
lành tại Việt Nam [61] nhận định, trong khoảng thời gian 20 năm trở lại đây “hoạt
động truyền giáo Tin lành được gia tăng và hệ quả là bức tranh về thành phần giáo
phái Tin lành tại Việt Nam đã có sự thay đổi theo hướng đa dạng và phức tạp hơn”
[61, tr.204]. Tác giả cho rằng tính đa tổ chức, hệ phái của Tin lành Việt Nam là điều
tất yếu, tương tự quá trình phát triển ở các quốc gia khác, tuy nhiên đặc trưng và
những yếu tố tác động lại có những “dị biệt cần lưu ý”, điển hình nhất là sự phân
tách thành các tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam chủ yếu do mục đích trần thế,

thay vì các vấn đề thần học như nhiều nước khác trên thế giới [theo 61, tr.206]. Tính
đa dạng này được tác giả nhận định như là “những nét chấm phá rõ nhất” trong đời
sống tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam hiện nay.
Tác giả Đỗ Quang Hưng trong bài viết Đời sống tôn giáo Việt Nam những
thách thức đầu tiên của xu thế đa dạng hóa (pluralism) đánh giá việc xuất hiện, du
nhập gần đây của các tổ chức, hệ phái Tin lành từ nước ngoài vào Việt Nam là điều
“không dễ bóc tách, nhận diện” [61, tr.228]. Đó là các hệ phái có từ trước, hiệp
thông với nhau trong “Hiệp hội Thông công Tin lành Việt Nam” VEF và “Hiệp hội
Thông công Liên hữu Tin lành Việt Nam” CFV, các hệ phái có từ trước năm 1975
nay được phục hồi trở lại,… Điều này được xem là một trong những dấu hiệu biến
đổi của “hệ thống tôn giáo”, khiến hệ thống này “thực sự phong phú”. Tuy nhiên,
tác giả bài viết đặt vấn đề “phản ứng của bản sắc văn hóa với xu trào đa nguyên tôn
giáo hiện nay ở Việt Nam là thế nào?” [61, tr.235]. Cuối cùng, tác giả bài viết gợi
mở những suy nghĩ về thách đố pháp lý trước việc công nhận tư cách pháp nhân cho
các tổ chức tôn giáo nói chung, Tin lành nói riêng.
Năm 2012, ở Mỹ, sự đa dạng về tổ chức, hệ phái Tin lành được nhà nghiên
cứu Catherine L. Albanese mô tả trong Các tôn giáo và tín ngưỡng ở Mỹ như
“những màu sắc khác nhau” [27, tr.410] của phong trào Cải cách, được biểu hiện
thành “làn sóng giáo phái hóa” [27, tr.441] mạnh mẽ trong đời sống xã hội. Trước
sự tác động mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật công nghệ hiện nay, đặc biệt là các “đế
chế truyền hình tôn giáo”, các tổ chức, hệ phái Tin lành sẽ “ngày càng nhân rộng
trong xã hội hiện đại, không có dấu hiệu nào cho thấy sẽ kết thúc” [27, tr.418].


17
Các tôn giáo và tín ngưỡng ở Mỹ của Catherine L. Albanese nhắc đến Tin
lành tập trung trong chương 4, 5 phần A (phần 1), chương 11 phần B (phần 1) và
chương kết phần 2 với sự đa dạng về tổ chức, hệ phái và chủ nghĩa cá nhân được
xem là đặc trưng cơ bản nổi bật [27, tr.400]. Phần 1 của công trình nghiên cứu lịch
sử tôn giáo Mỹ này nhấn mạnh chủ nghĩa đa nguyên tôn giáo ở Mỹ bắt đầu từ sự đa

dạng trong tín ngưỡng tôn giáo của người da đỏ, như là “một phương tiện duy trì
bản sắc và thúc đẩy hoạt động chính trị” của họ [27, tr.35]. Phần 2 của cuốn sách
bàn luận về khả năng có thể hợp nhất sự đa dạng của tôn giáo Mỹ hay không khi sự
đa dạng ấy đã nâng lên “thành chủ nghĩa hệ phái và trở thành một cơ cấu xã hội thế
tục, hỗ trợ đắc lực cho cam kết siêu phàm” của nhiều người, thuộc nhiều thành phần
xã hội [27, tr.443].
Một số nghiên cứu từ tác giả Việt Nam
Năm, tác giả Nguyễn Thanh Xuân xuất bản Một số tôn giáo ở Việt Nam (lưu
hành nội bộ) [156], sau đó năm 2005 chính thức phát hành rộng rãi. Đây là ấn phẩm
đầu tiên về tôn giáo, về Tin lành ở Việt Nam. Từ khi mới được tác giả biên soạn
cho đến nay, công trình nghiên cứu này đã trải qua hàng chục lần tái bản với trọng
tâm là giới thiệu lịch sử ra đời, phát triển và đặc trưng của Phật giáo, Công giáo, Tin
lành, Hồi giáo, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo. Trong đó, Tin lành được tiếp cận đa
chiều từ góc độ lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội để luận giải và làm rõ một số vấn
đề như tại sao Tin lành nảy sinh từ châu Âu nhưng hiện nay lại phát triển cực thịnh
ở nước Mỹ; tại sao mặc dù có nhiều tổ chức và hệ phái song Tin lành đều dựa trên
những nguyên tắc chính (đặc biệt là đề cao lí trí trong đức tin và đề cao dân chủ).
Trong phần Tin lành ở Việt Nam, tác giả làm rõ sự đa dạng của các tổ chức,
hệ phái Tin lành qua việc trình bày theo dòng lịch sử từ thời kỳ đầu truyền giáo đến
sự hình thành tổ chức Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Tin
lành Việt Nam (miền Bắc), Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số
tổ chức, hệ phái Tin lành khác. Ở cuối cùng của phần này, tác giả chú dẫn thêm một
số Nghị định, Quyết định công nhận, Giấy chứng nhận của Ban tôn giáo Chính phủ
cấp đăng ký hoạt động cho một số tổ chức, hệ phái Tin lành ở nước ta. Tác giả nhận
định việc được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, được đăng kí hoạt động đã


18
có tác động mạnh mẽ tới hoạt động của các tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam
theo chiều hướng tích cực.

Năm 2002, tiếp tục hướng nghiên cứu trên, công trình Bước đầu tìm hiểu đạo
Tin lành trên thế giới và Việt Nam của tác giả Nguyễn Thanh Xuân [154] gồm 4
chương, 10 phụ lục đã trình bày chi tiết về lịch sử ra đời, phát triển của Tin lành
(tập trung trong chương I); giáo lý, luật lệ lễ nghi, tổ chức giáo hội Tin lành, sự
tương đồng và khác biệt giữa Tin lành và Công giáo (tập trung trong chương II).
Đặc biệt, chương III và IV ngoài việc thống kê một số lượng lớn các tổ chức, hệ
phái Tin lành tiêu biểu trên thế giới (27 tổ chức, hệ phái) và Việt Nam (Hội thánh
Tin lành Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và 10 tổ
chức, hệ phái khác còn khảo tả những điểm mốc sự kiện gắn liền với lịch sử quá
trình phát triển của các tổ chức, hệ phái.
Trong công trình, tác giả Nguyễn Thanh Xuân nhận định nhiều tổ chức, hệ
phái là “đặc trưng cơ bản của Tin lành thế giới” và từng tổ chức, hệ phái có mối
quan hệ dọc trong tổ chức, hệ phái cũng như quan hệ theo chiều ngang giữa các tổ
chức, hệ phái với nhau “trên thềm đồng đạo” [154, tr.471], tác giả đồng thời luận
giải các nguyên nhân, các hệ quả lịch sử - xã hội, văn hóa - tôn giáo từ sự đa dạng
của các tổ chức, hệ phái Tin lành. Tác giả khẳng định có nhiều nguyên nhân dẫn tới
sự đa dạng của các tổ chức, hệ phái Tin lành như sự “tiếp thu vay mượn của nhau”
[154, tr.100], sự “tự do giải thích Kinh thánh” [154, tr.132], thậm chí là “đôi khi vì
những lí do không đâu” [154, tr.195],… Tác giả nhấn mạnh, có nhiều nguyên nhân
khác nhau dẫn đến sự đa dạng về các tổ chức, hệ phái nhưng dù là lí do gì đi chăng
nữa, để nhìn nhận đúng đắn, khách quan và toàn diện về các tổ chức, hệ phái Tin
lành, giới nghiên cứu phải “dựa theo những tiêu chí nhất định” [154, tr.23] một cách
khoa học và tiếp cận từ góc độ tồn tại khách quan của các tổ chức, hệ phái ấy.
Năm 2016, luận án tiến sĩ Tác động của đạo Tin lành đến an ninh xã hội ở Tây
Nguyên thời kỳ đổi mới của Nguyễn Thị Ngà [93] tập trung phân tích quá trình du nhập
của đạo Tin lành vào Tây Nguyên và những tác động của tôn giáo này đến an ninh xã
hội của Tây Nguyên (tập trung trong chương 3, 4). Mặc dù chỉ luận giải tác động của
Tin lành đến một môi trường xã hội cụ thể, song tác giả Nguyễn Thị Ngà cũng khẳng



19
định ngay từ khi mới ra đời, đạo Tin lành đã tồn tại nhiều tổ chức, hệ phái chống đối và
phủ định lẫn nhau. Đồng thời, tác giả đưa ra một số nhận xét mang tính khái quát liên
quan đến nguyên nhân tồn tại đa dạng tổ chức, hệ phái của đạo Tin lành như xuất phát
từ quan niệm dân chủ tư sản trong tổ chức, sự tự do giải thích Kinh thánh, tình thế
khách quan thuận lợi như đói nghèo, chiến tranh [93, tr.153],…
Năm 2017, tác giả Nguyễn Khắc Đức với Đạo Tin lành trong vùng dân tộc
Mông, Dao ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam [33] đã nghiên cứu sự du nhập,
phát triển của đạo Tin lành trong dân tộc Mông và dân tộc Dao ở khu vực miền núi
phía Bắc từ năm 1987 đến 2004 (tập trung trong chương 1) và từ khi có chỉ thị số
01/2005/ CT - TTg đến nay (tập trung trong chương 2).
Mục III chương 2 khẳng định cuốn sách chỉ đề cập tới những tổ chức, hệ
phái Tin lành có ảnh hưởng mạnh và số tín đồ đông đảo nhất ở khu vực miền núi
phía Bắc. Trong số đó, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) được tác giả đánh
giá là “hệ phái tích cực” và đạt hiệu quả cao nhất trong truyền đạo ở khu vực này.
Bằng những số liệu, minh chứng, tác giả đã cho thấy sự phát triển đa dạng
của các tổ chức, hệ phái Tin lành và chỉ ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự
phát triển này như sự nghèo đói về đời sống vật chất, sự nghèo nàn về đời sống tinh
thần, sự khôn khéo của các đoàn truyền giáo và cả sự hạn chế của hệ thống chính trị cơ
sở (được phân tích trong mục V chương 1). Tác giả khẳng định, nhận định về Tin lành
không phải điều dễ dàng đối với các nhà nghiên cứu, song khó hơn cả là “tìm đúng
nguyên nhân, đánh giá đúng ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội miền núi phía
Bắc” [33, tr.75]. Bên cạnh đó, tác giả cũng dự báo trong tương lai, ở khu vực miền núi
phía Bắc, đạo Tin lành sẽ tiếp tục gia tăng các tổ chức, hệ phái nhưng hoạt động thế
nào còn phụ thuộc vào công tác quản lý của hệ thống chính trị cơ sở.
Hai là hiện trạng sự đa dạng về tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam hiện nay
Năm 2014, quan điểm các tổ chức, hệ phái Tin lành mới liên tục xuất hiện
như một kiểu “tái cấu trúc bên trong” được tác giả Đỗ Quang Hưng nhận định trong
Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền [77].
Trong công trình nghiên cứu lịch sử công tác lí luận về tôn giáo của Đảng và

Nhà nước ta này, Tin lành được nhận diện là một tôn giáo đa dạng về tổ chức, hệ


20
phái song có sự khác biệt ở mỗi tồn tại xã hội khác nhau và bởi vậy, không dễ dàng
để bóc tách hay nhận diện một cách thật đầy đủ. Nhiều tổ chức, hệ phái Tin lành
được du nhập từ xã hội Âu Mỹ vào Việt Nam, nhiều tổ chức, hệ phái được hình
thành mới hoặc tách ra từ các tổ chức, hệ phái cũ trong nước,... và “gần như tất cả
các hệ phái Tin lành mà Nhà nước công nhận hiện nay đều có cơ sở chi hội đan xen
nhau” [70, tr.123].
Tác giả khẳng định trong khoảng 3 thập niên gần đây, từ địa vị một tôn giáo
nhỏ bé, Tin lành đã liên tục được “tái cấu trúc từ bên trong”, ngày càng trở thành
một tôn giáo có tính thời sự, cấp bách nhất. Bởi vậy, liên tiếp qua các giai đoạn lịch
sử, Nhà nước đã có những chính sách kịp thời đáp ứng những diễn biến phức tạp
của vấn đề Tin lành. Từ những số liệu thực tế về sự gia tăng nhanh chóng của các
điểm nhóm, tín đồ, cơ sở thờ tự,... thay vì xóa bỏ, hạn chế, chính phủ Việt Nam đã
có những thay đổi căn bản về nhận thức trong giải quyết vấn đề Tin lành. Qua công
trình, tác giả phân tích khá kĩ các văn bản pháp luật, các nghiên cứu liên quan. Từ
đó, tác giả khẳng định, vấn đề Tin lành chỉ có thể được giải quyết khi chính quyền
không khuyến khích phát triển nhưng cũng không cấm đạo và phải hợp pháp hóa để
công tác quản lý có hiệu quả.
Năm 2015, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam của tác giả Nguyễn
Thanh Xuân [157] đã cung cấp thêm những số liệu, luận điểm mang tính khái quát
về diện mạo sự đa dạng của các tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam. Công trình
được xuất bản kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Ban Tôn giáo Chính phủ và ngày
truyền thống ngành quản lý nhà nước về tôn giáo, gồm 2 phần: phần 1 giới thiệu
khái quát về tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam, phần 2 nêu những căn cứ lý luận, căn
cứ thực tiễn cho việc xây dựng chính sách tôn giáo và việc thực hiện chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Bên cạnh nhiều tổ chức, hệ phái có đường hướng rõ ràng, hoạt động bình

thường, ổn định, một số tổ chức, hệ phái Tin lành hiện nay vẫn còn thái độ cứng
nhắc, bảo thủ, đi theo khuynh hướng độc tôn chủ nghĩa, phủ nhận văn hóa bản địa
nơi Tin lành đi qua [157, tr.13]. Nhận định này được tác giả thẳng thắn đề cập tới
cùng với những đánh giá, nhận xét mới về tổ chức, hệ phái Tin lành so với những


×