Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

ảnh hưởng của phương thức tự sự trong truyện cổ dân gian việt nam đối với truyện kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.34 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................... 4
I. PHƢƠNG THỨC TỰ SỰ TRONG TRUYỆN CỔ DÂN GIAN VIỆT
NAM .......................................................................................................................4
1. Phƣơng thức tự sự .......................................................................................4
1.1. Khái niệm ..................................................................................................4
1.2. Đặc điểm ....................................................................................................4
2. Phƣơng thức tự sự trong truyện kể dân gian ...........................................5
2.1. Phương thức tự sự trong tác phẩm văn học nói chung ..............................5
2.2. Phương thức tự sự trong truyện kể dân gian .............................................6
II. ẢNH HƢỞNG CỦA PHƢƠNG THỨC TỰ SỰ TRONG TRUYỆN CỔ
DÂN GIAN VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUYỆN KIỀU ........................................8
1. Yếu tố tâm linh trong Truyện Kiều ...........................................................8
1.1. Khái niệm tâm linh ....................................................................................8
1.2. Yếu tố tâm linh trong Truyện Kiều ...........................................................9
1.2.1. Lễ hội ...................................................................................................9
1.2.2. Hồn ma ..............................................................................................11
1.2.3. Giấc mộng (chiêm bao) .....................................................................14
1.2.4. Bói toán .............................................................................................18
2. Cách ứng xử trong Truyện Kiều ...............................................................21
2.1. Văn hóa ứng xử trong quan hệ gia đình từ tư tưởng Nho giáo.................21
2.1.1. Quan hệ cha con theo đạo hiếu .........................................................21
2.1.2. Quan hệ vợ chồng với Thúc Sinh và Từ Hải .....................................23
2.2. Văn hóa ứng xử trong quan hệ gia đình từ đạo lí dân tộc .......................26
2.2.1. Tình cảm con cái - cha mẹ ................................................................26
2.2.2. Tình cảm chị em ................................................................................27
3. Quan hệ xã hội trong Truyện Kiều ..........................................................29
3.1. Quan hệ xã hội từ đạo lý dân tộc .............................................................29



3.2. Quan hệ xã hội từ tư tưởng Nho giáo ......................................................35
3.3. Quan hệ xã hội giữa quan và dân ............................................................37
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................40
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................42


PHẦN MỞ ĐẦU
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được xem là một thành tựu đỉnh cao
của nền văn học dân tộc. Trước niềm tự hào khôn xiết ấy, nhân lễ kỉ niệm ngày
mất của Tố Như vào năm 1924, trong tác phẩm Diễn thuyết về quốc văn, nhà văn
Phạm Quỳnh đã say sưa bộc bạch tình yêu của mình đối với kiệt phẩm ấy. Nhà văn
xem Truyện Kiều là một kho tàng quí báu đã làm vẻ vang cho cả giống nòi: “Hiện
nay suốt quốc dân ta, từ trên hàng thượng lưu học thức, dưới đến kẻ lam lũ làm ăn,
bất cứ già, trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết Truyện Kiều, ai ai cũng kể
Truyện Kiều, ai ai cũng ngâm Truyện Kiều”. Với những giá trị to ấy, ngay từ khi ra
đời, Truyện Kiều đã được tiếp cận theo nhiều chiều hướng khác nhau. Các nhà
nghiên cứu đã thẩm định, phê bình, khảo cứu, nghiên cứu Truyện Kiều dưới góc độ
thi pháp học, loại hình học, tiếp nhận văn học, so sánh văn học,... Từ đó cho thấy
tác phẩm của đại thi hào Nguyễn Du đã có một vị trí vững chãi trong lòng bao thế
hệ, nhận được biết bao sự ngưỡng mộ, quan tâm, khám phá của giới văn nghệ sĩ
cũng như những nhà nghiên cứu khoa học văn chương.
Điều đáng tự hào và trân quí đó là Truyện Kiều đã du nhập vào đời sống
giáo dục qua việc tác phẩm này được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông
cũng như xuất hiện trong hệ thống chương trình, các học phần của bậc cao đẳng,
đại học. Chúng tôi nhận thấy về số lượng thì các đoạn trích của tác phẩm được
bình giảng ở trường phổ thông nhiều hơn cả so với các tác phẩm khác. Chẳng hạn
ở bậc trung học cơ sở có đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Cảnh ngày xuân, Kiều ở
lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều báo ân báo oán. Lên tới bậc trung học phổ thông thì
đó là đoạn trích Trao duyên, Chí khí anh hùng, thậm chí ngay cả các văn bản đọc
thêm như Nỗi thương mình, Thề nguyền. Chúng tôi thực hiện thao tác tìm hiểu,

so sánh và nhận thấy trong sách giáo viên tại các trường phổ thông, định hướng
của Bộ giáo dục và đào tạo từ trước tới nay trong việc giảng dạy Truyện Kiều vẫn
thiên về bình giảng vẻ đẹp của ngôn từ, nghệ thuật khắc họa tính cách, nội tâm
1


nhân vật, như vậy chủ yếu gắn với bối cảnh xã hội của một thời kì trung đại.
Chúng tôi từ đó trăn trở một phần về hiện thực này, thiết nghĩ vấn đề nảy sinh và
đáng suy ngẫm từ việc giảng dạy, tiếp cận Truyện Kiều và thậm chí từ thực tế quan
sát, theo dõi, thực hiện công tác chấm trả bài viết cho học sinh trong các kì thi
mang tính chất toàn quốc hay trong kì thi học sinh giỏi cấp quốc gia bộ môn Ngữ
Văn các cấp, chúng tôi băn khoăn: “Góc độ, phương pháp tiếp cận Truyện Kiều
như thế nào để phù hợp và trọn vẹn với tư tưởng của nhà thơ và thể hiện sự am
hiểu hết tinh túy của nền văn hóa dân tộc được phản ánh qua Truyện Kiều”. Ngày
nay, việc dạy học tác phẩm chưa thật sự đi vào sâu nguồn cội, gốc rễ, khai thác các
yếu tố kế thừa của một nền văn học trước đó trở nên phổ biến trong học đường.
Thiết nghĩ đây là một điểm khuyết, chưa được tròn đầy của người cầm phấn,
những nhà sư phạm. Ở đây, chúng tôi muốn nhắc đến folklore, văn học dân gian.
Chính đại thi hào Nguyễn Du đã từng khẳng định “Thôn ca sơ học tang ma ngữ”.
Có nghĩa là chúng ta phải học tập ngôn ngữ từ những người nông dân trồng dâu,
trồng gai giản dị, chân chất quê mùa. Bởi ông nhận thức được rằng chính nhà thơ
cũng phải kế thừa từ kho tàng văn học dân gian, những yếu tố từ dân gian như một
dòng suối mát lạnh chảy trôi vô tận trong khí huyết nhà thơ và tạo nên thi hứng cho
Truyện Kiều. Thật vậy, điểm xuyến qua từng câu, từng chữ trong Truyện Kiều,
chúng tôi nhận ra biết bao môi trường văn hóa, tín ngưỡng gắn với những phong
tục tập quán của cha ông ngày trước, mọi cái hay, cái đẹp, cái tinh túy của nền văn
học trước thời kì trung đại được Tố Như vận dụng rất nhuần nhuyễn, sáng tạo làm
nên một vẻ đẹp rất riêng cho Truyện Kiều. Như vậy, thử hình dung xem nếu chúng
ta bỏ qua việc tìm hiểu sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều và
nhận thức sai lầm rằng toàn bộ vốn liếng ngôn từ ấy là sự sở hữu của đại thi hào

Nguyễn Du thì có lẽ chúng ta hoàn toàn chưa hiểu cái qui luật kế thừa, phát huy
truyền thống của từng giai đoạn văn học và một cách vô hình trung cách hiểu của
chúng ta về tính cao nhã của tác phẩm cũng còn nhiều trúc trắc. Việc dạy học một
2


tác phẩm có tầm vóc lớn lao như vậy tại trường phổ thông liệu có thực sự đúng với
tinh thần của văn hóa, văn học dân tộc?
Từ cơ sở lí luận và từ những thực trạng trên, chúng tôi - những người thầy
với những kinh nghiệm nhỏ bé trong giảng dạy và trong suốt quá trình học tập
muốn hi vọng đem đến một nhận thức đầy đủ hơn về cách tiếp cận có chiều sâu
Truyện Kiều của Nguyễn Du đặt trong mối tương quan giữa văn học dân gian và
văn học trung đại. Để từ đó, với các thao tác đối chiếu, so sánh giúp nhận ra những
giá trị truyền thống được gìn giữ, cũng những cách tân sáng tạo, mới mẻ của
Nguyễn Du. Một lần nữa khẳng định trình độ ngôn từ đạt đến toàn bích, bậc thầy
của nhà thơ trong nền thi ca trung đại. Với đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của
phương thức tự sự trong truyện cổ dân gian đối với Truyện Kiều” với ước
nguyện được góp thêm những tri thức quí giá trên cơ sở học tập, kế thừa những
kinh nghiệm của các bậc tiền nhân đi trước để việc tiếp cận, học tập, giảng dạy
Truyện Kiều sẽ có sự khởi sắc hơn nữa. Chúng tôi mong sẽ khơi dậy, hồi sinh lại
những đam mê tâm huyết cho những người lái đò sư phạm cũng như phục sinh lại
ngọn lửa yêu văn chương cho bao thế hệ học trò.

3


PHẦN NỘI DUNG
I.

PHƢƠNG THỨC TỰ SỰ TRONG TRUYỆN CỔ DÂN GIAN VIỆT NAM

1. Phƣơng thức tự sự
1.1. Khái niệm: Tự sự là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự

việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
1.2. Đặc điểm
- Nhân vật: Nhân vật trong văn tự sự là kẻ thực hiện các sự việc và là kẻ
được thể hiện trong văn bản. Nhân vật chính đóng vai trò chủ yếu trong việc thể
hiện tư tưởng của văn bản, nhân vật phụ chỉ giúp nhân vật chính hoạt động. Nhân
vật được thể hiện qua các mặt: tên gọi, lai lịch, tính nết, hình dáng, việc làm,…
- Sự việc: Sự việc trong văn tự sự được trình bày một cách cụ thể: sự việc
xảy ra trong thời gian, địa điểm cụ thể, do nhân vật cụ thể thực hiện, có nguyên
nhân, diễn biến, kết quả,… Sự việc trong văn tự sự được sắp xếp theo một trật tự,
diễn biến sao cho thể hiện được tư tưởng mà người kể muốn biểu đạt.
- Chủ đề: Mỗi câu chuyện đều mang một ý nghĩa xã hội nhất định. Ý nghĩa
đó được toát lên từ những sự việc, cốt truyện. Mỗi văn bản tự sự thường có một
chủ đề; cũng có văn bản có nhiều chủ đề, trong đó có một chủ đề chính.
- Lời văn tự sự: Chủ yếu là kể người, kể việc. Khi kể người thì có thể giới
thiệu tên, lai lịch, tính tình, tài năng, ý nghĩa của nhân vật. Khi kể việc thì kể các
hành động, việc làm, kết quả và sự đổi thay do các hành động ấy đem lại. Đoạn
trong văn tự sự thường là đoạn diễn dịch.
- Thứ tự kể: Khi kể chuyện, có thể kể các sự việc liên tiếp nhau theo thứ tự
tự nhiên, việc gì xảy ra trước kể trước, việc gì xảy ra sau kể sau, cho đến hết.
Nhưng để gây bất ngờ, gây chú ý, hoặc thể hiện tình cảm nhân vật, người ta có thể
đem kết quả hoặc sự việc hiện tại kể ra trước, sau đó mới dùng cách kể bổ sung
hoặc để nhân vật nhớ lại mà kể tiếp các việc đã xảy ra trước đó.

4


- Ngôi kể: Người đứng ra kể chuyện có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức

khác nhau, với những ngôi kể khác nhau. Ngôi kể trong văn tự sự có thể là ngôi
thứ nhất, bộc lộ được những tâm tư tình cảm, suy nghĩ trực tiếp của nhân vật một
cách sâu sắc; có thể được kể theo ngôi thứ ba, thể hiện được sự khách quan với câu
chuyện được kể, phạm vi câu chuyện được kể trong không gian lớn hơn và có thể
cùng lúc. Người kể giấu mình nhưng lại có mặt khắp nơi trong văn bản.
Người kể chuyện có vai trò dẫn dắt người đọc đi vào câu chuyện, như giới
thiệu nhân vật tình huống, tả người, tả cảnh, đưa ra các nhận xét, đánh giá hay bộc
lộ thái độ, cảm xúc trước những điều được kể.
Mỗi ngôi kể đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, nên cần lựa chọn
ngôi kể cho phù hợp và có thể chuyển đổi ngôi kể trong câu chuyện.
2. Phƣơng thức tự sự trong truyện kể dân gian
2.1. Phương thức tự sự trong tác phẩm văn học nói chung
Có rất nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những sự khác biệt giữa hai phương
thức tự sự và trữ tình trong văn học dân gian nói riêng và văn học nói chung.
Người đầu tiên phải kể đến là nhà triết học nổi tiếng Arixtot. Theo Arixtot có ba
phương thức mô phỏng hiện thực. Đó là kể về một cái gì đó tách biệt với mình;
người mô phỏng nói về mình mà không thay đổi ngôi xưng; hoặc là trình bày tất cả
các nhân vật trong hành động. Tên gọi lần lượt của ba dạng trên là: tự sự, trữ tình,
kịch.
Như vậy, ở dạng ban đầu, tự sự chỉ được coi là phương thức mô phỏng hiện
thực. Cho đến sau này, trong quá trình phân loại văn học, các nhà nghiên cứu mới
dựa vào ba phương thức trên để phân thành 3 loại hình văn học. Lúc này, tự sự mới
xuất hiện là một loại hình. Cũng trong cách phân loại đó, theo Belinxki: Tự sự bao
gồm toàn bộ những tác phẩm biểu hiện đời sống thong qua miêu tả sự kiện. Đặc
trưng quan trọng nhất, nổi bật nhất của tự sự chính là tính khách quan. Cũng theo
Belinxki,trong mối quan hệ với những loại hình còn lại, nếu tác phẩm trữ tình ưa
5


nói tới cái chủ quan, kịch là sự dung hợp giữa tự sự và trữ tình, thì đối tượng mà tự

sự hướng tới chính là tính khách quan của thế giới.
Trong “Từ điển thuật ngữ văn học” các tác giả đã nhấn mạnh rằng: “Nếu
tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trong cảm nhận chủ quan của nó thì tác
phẩm tự sự tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự
sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời
gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc sống con người. Trong tác phẩm
tự sự, nhà văn cũng thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Nhưng ở đây tư tưởng và
tình cảm của nhân vật thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động bên ngoài của
con người tới mức giữa chúng dường như không có sự phân biệt nào cả”.
Vậy yếu tố cơ bản trong phương thức tự sự là nhà văn kể lại, tả lại những gì
bên ngoài mình, khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực phản ánh trong
tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình đang tự phát triển.
2.2. Phương thức tự sự trong truyện kể dân gian
Những sáng tác văn học dân gian sử dụng phương thức tái hiện, phản ánh
đời sống thông qua những cốt truyện và nhân vật cụ thể sẽ là các sáng tác tự sự dân
gian mà các nhà nghiên cứu gọi đó là loại hình tự sự dân gian. Trong các loại hình,
tự sự dân gian là bộ phận có nhiều thể loại nhất, bao gồm: thần thoại, sử thi, truyền
thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ.
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân được viết bằng thể tiểu
thuyết chương hồi, đến Nguyễn Du, đại thi hào đã chuyển thể thành thể loại truyện
thơ Nôm (một thể loại thuộc văn học dân gian).
Truyện Nôm là một bộ phận văn học độc đáo và thể hiện nét thẫm mỹ độc
đáo của văn học phong kiến Việt Nam. Đây là một loại hình tự sự có khả năng
phản ánh hiện thực với một phạm vi tương đối rộng và cũng là một di sản văn hóa
phi vật thể của dân tộc ta.

6


Giá trị của truyện Nôm được khẳng định qua sức mạnh trường tồn của nó và

sự hâm mộ của quần chúng nhân dân lao động nhiều thế hệ. Ra đời và tồn tại với
hình thái đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu, về sau các nhà Nho bình dân và bác
học đã dựa trên cơ sở cốt truyện đã có ghi chép, tái tạo lại, vì thế truyện Nôm viết
bắt đầu xuất hiện và sống mãi trong dân gian cho đến tận hôm nay. Có rất nhiều
truyện thơ Nôm nổi tiếng như: Phạm Công – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Sơ
kính tân trang, Tiễn dặn người yêu, Thoại Khanh Châu Tuấn,…
Kế thừa những yếu tố tự sự trong văn học dân gian, đại thi hào Nguyễn Du
với tài năng của mình đã đưa thể loại truyện thơ Nôm phát triển đến đỉnh cao.
Nhìn bề ngoài, tưởng như đó là sự trần thuật khách quan, nhưng đằng sau đó
là tấm lòng xót thương, đau đớn, dõi theo của thi nhân dành cho nàng Kiều. Ông
không chỉ miêu tả “con người khuôn mẫu”, “con người lí tưởng” mà miêu tả con
người trong những “tình huống cụ thể” và ứng xử với tất cả những gì nó có,… Căn
bản, đại thi hào đã tôn trọng sự thật khách quan, không nhào nặn “Kiều để làm
rạng danh cho một đạo đức nào”, Kiều cũng có những lúc sai lầm, yếu đuối, thậm
chí là tham “Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu”. Hay cũng có lúc tiếc nuối “Nhị
đào thà bẻ cho người tình chung”, có chỗ không dứt khoát “duyên này thì giữ vật
này của chung” khi “cậy” em thay mình gá nghĩa cùng Kim Trọng.
Là tự sự, nhưng là một trình độ tự sự đỉnh cao, tự sự rất khách quan nhưng ta
cảm nhận được nỗi đau của Nguyễn Du trong từng câu chữ:
Tiếc thay một đóa trà mi,
Con ong đã tỏ đường đi lối về.
Một cơn mưa gió nặng nề,
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.
Đêm xuân một giấc mơ màng,
Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ.

7


Nhà thơ kể lại, tả lại những gì bên ngoài mình, khiến cho người đọc có cảm

giác rằng hiện thực phản ánh trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình đang tự
phát triển, tồn tại ngoài nhà thơ, không phụ thuộc vào tình cảm của nhà thơ.
II.

ẢNH HƢỞNG CỦA PHƢƠNG THỨC TỰ SỰ TRONG TRUYỆN CỔ
DÂN GIAN VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUYỆN KIỀU
1. Yếu tố tâm linh trong Truyện Kiều
1.1. Khái niệm tâm linh
Tâm linh gồm chữ tâm và chữ linh tạo nên. Tâm là lòng, tấm lòng, thuộc về

thế giới bên trong. Linh có rất nhiều nét nghĩa như: linh trong linh hoạt, nhạy bén;
linh trong thần linh; người chết cũng được gọi là linh; linh còn dùng để nói đến
những ứng nghiệm, bói toán.
Hoàng Phê cũng cho rằng tâm linh là “tâm hồn, tinh thần” hoặc là “khả
năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy
tâm”.
Vậy tâm linh là niềm tin của con người vào sự linh thiêng. Một trong
những xác định súc tích và khá chuẩn về tâm linh phải kể đến, là khái niệm tâm
linh của Nguyễn Đăng Duy: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống
đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng
cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý
niệm”.
Tâm linh là một biểu hiện trong đời sống tinh thần của con người với tất cả
sự phong phú và phức tạp của nó. Do đó không nên đơn giản hóa cho rằng tâm linh
là mê tín dị đoan, cũng không nên thần bí hóa, tuyệt đối hóa khái niệm tâm linh,
gán cho nó những đặc tính cao siêu phi thường, coi đó là cứu cánh của nhân loại.
Tâm linh là phương diện quan trọng, rất cần thiết cho đời sống tinh thần của nhân
loại. Ở đó, con người tin vào tín ngưỡng, tôn giáo và có cả niềm tin về chính cuộc
sống trần thế này.
8



Ra đời và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, qua các thế hệ, các
yếu tố tâm linh được gìn giữ và phát huy lên một tầm cao mới, nó không chỉ là một
bộ phận thiết yếu của cuộc sống mà còn góp phần làm thăng hoa đời sống tinh thần
của người dân Việt. Bởi nhu cầu tâm linh là nhu cầu chính đáng, không thể thiếu
của con người. Thể hiện niềm tin thiêng liêng của con người vào thế giới thiêng,
niềm tin vào cái đẹp, cái cao cả trong cuộc sống đời thường. Tuy rằng ngày nay,
một số biểu hiện tâm linh được xem là hành động mê tín dị đoan, duy tâm, siêu
hình nhưng xét cho cùng, nó sẽ rất cần thiết khi muốn đi sâu, khám phá hết những
chiều kích phong phú của đời sống tâm linh con người. Nói như vậy để thấy rằng,
trong dòng chảy văn học Việt Nam, yếu tố tâm linh được thể hiện trong tác phẩm
Truyện Kiều của Nguyễn Du thực sự giữ một vai trò quan trọng trong việc lưu giữ
những giá trị truyền thống của dân tộc bên cạnh việc đi sâu vào nội tâm sâu thẳm
của con người thời trung đại.
1.2. Yếu tố tâm linh trong Truyện Kiều
Mỗi một tác phẩm văn học đều mang trong nó tính văn hóa đặc trưng của
dân tộc. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng như thế. Mặc dù dựa trên tác phẩm
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng cơ sở nền tảng cho Truyện
Kiều là tín ngưỡng truyền thống văn hóa Việt chứ không phải văn hóa Trung
Quốc. Tất nhiên truyền thống văn hóa của hai nước có nhiều điểm giống nhau
nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt. Một trong những điểm khác biệt ấy phải kể
đến thế giới tâm linh. Thế giới tâm linh hiện lên rõ rệt trong Truyện Kiều, ở đó
không chỉ có không khí lễ hội mà còn có trời, phật, thánh thần, hồn ma, nghĩa địa,
không chỉ có chiêm bao (mộng mị) mà còn có bói toán, thề nguyền,…
1.2.1. Lễ hội
Tiết thanh minh và hội đạp thanh:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
9



Theo lịch cổ truyền Trung Quốc, tiết thanh minh là một trong hai mươi bốn
tiết trong năm, vào khoảng tháng ba âm lịch. Ở nước ta, tiết thanh minh đã trở
thành nét đẹp của truyền thống văn hóa. Vì tảo mộ là hành vi tôn kính thiêng liêng
gắn với tục thờ cúng tổ tiên.
Nước ta có truyền thống đi viếng mộ vào tiết thanh minh. Thời gian này tiết
trời trong xanh, quang đãng, mát mẻ, mọi người ra nghĩa trang thăm viếng mộ
phần của gia đình, quét dọn sửa sang mộ phần cho sạch sẽ. Người đi viếng mộ còn
phát quang và đắp thêm đất vào mộ. Sau đó người ta thường sắm một lễ nhỏ gồm:
hương, đèn, trầu cau, tiền vàng, rượu thịt, hoa quả rồi thắp hương khấn vái, đốt
vàng bạc cho ông bà tổ tiên, người thân quá cố.
Khi tảo mộ, những ngôi mộ có chủ thường được sửa sang, thường xuyên
được hương khói, vong hồn người quá cố luôn được ấm áp, gần gũi với dương
gian. Còn những ngôi mộ vô chủ thì hương khói tàn lạnh, cỏ hoang mọc rậm, nấm
đất thấp dần và có thể mất đi,… và có lẽ những người nằm dưới mộ rất buồn tủi, cô
đơn. Với tinh thần nhân ái, đoàn kết, người Việt mỗi khi viếng mộ, nếu phát hiện
mộ hoang, không chủ cũng động lòng từ tâm, cắm một nén hương cầu mong linh
hồn người nằm trong mộ đỡ lạnh lẽo, bơ vơ.
Sau buổi tảo mộ, con người thường ra về với một trạng thái bâng khuâng thơ
thẩn. Lúc này, Kiều phát hiện ra nấm mồ hoang, nói đúng hơn là “nấm đất”, “sè
sè” bên đường, nàng thảng thốt kêu lên:
Rằng nay: trong tiết Thanh minh
Mà sao hương khói vắng tanh thế này?
Không như Vương Quan và Thúy Vân, khi thấy nấm mồ vô chủ lạnh lẽo, bơ
vơ, Kiều đã động lòng thương cảm. Biết được người dưới mộ “nổi danh một thời”
tên Đạm Tiên ra đi trong sự lãng quên của người đời, càng khiến nàng xót xa.
Đã không kẻ đoái người hoài
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương
10



Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho
Phải chăng Kiều hay chính Nguyễn Du đang vấn vương, chia sẻ niềm cảm
thông đối với người bạc mệnh? Hành động của Thúy Kiều thể hiện tình cảm và
thái độ trân trọng của người còn sống đối với người đã mất. Điều này thể hiện
được đặc trưng văn hóa của người Việt: sống và đối xử với nhau rất tình cảm, nhất
là đối với người đã mất. Dù cho khi còn sống, họ là người thân hay sơ, độc ác hay
hiền lành, đã gây nhiều tội lỗi hay gieo nhân tích đức thì lúc chết, họ vẫn được
người sống tôn kính…
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Hội đạp thanh (dẫm lên cỏ mới) là dịp để con người hiện tại thể hiện những
khát khao và hoài vọng trước cuộc đời. Hội cuốn hút tất cả mọi người, nô nức tìm
đến, trang phục lộng lẫy, đông đúc, chen chúc. Đây còn là dịp nam thanh nữ tú, tài
tử giai nhân trò chuyện kết bạn với nhau. Và trong hội đạp thanh ấy, Thúy Kiều đã
gặp Kim Trọng. Nguyễn Du đã sắp xếp cho Kiều tiếp xúc với mộ của Đạm Tiên
rồi mới gặp Kim Trọng. Cái buổi gặp gỡ ấy rất tình cờ. Vì tình cờ nên luyến lưu,
xao xuyến. Buổi hội ngộ tình cờ mà đẹp đẽ, nên thơ giữa Thúy Kiều và Kim Trọng
nhân tiết thanh minh như thế đã mở đầu cho một trong những mối tình đẹp nhất
trong lịch sử văn học Việt Nam.
Người Việt Nam có quan niệm: lễ trước hội sau. Đến với phần lễ, con người
dường như tuân theo các lễ tục thiêng liêng, làm tròn bổn phận của mình một cách
tự nguyện, thấm đẫm tình yêu thương và hơn hết là làm sống dậy mối giao cảm
thiêng liêng với thế giới vô hình.
1.2.2. Hồn ma
11



Tuy không phải là đấng tối cao có quyền lực vạn năng nhưng hồn ma cũng
có sức mạnh vô hình ghê gớm mà “người trần mắt thịt” như chúng ta không thể
lường biết được. Đâu đó vẫn còn tồn tại hiện tượng linh hồn người chết nhập vào
thân xác của người sống để gây bệnh tật, chết chóc hoặc linh hồn người đã khuất
có thể cư trú ở bất kì nơi nào đó để gây phiền nhiễu cho con người. Hiện tượng này
dù có hay không có thật thì chí ít vẫn cho chúng ta thấy được người xưa hay người
nay đều có niềm tin vào linh hồn người quá cố. Cũng với niềm tin thiêng liêng về
linh hồn sau khi chết vẫn còn tồn tại nên trong tâm thức người Việt cho rằng không
phải lúc nào hồn người chết cũng chỉ biết gieo họa cho con người và ngược lại.
Tùy vào căn cơ, sự thành tâm thành ý của người sống, linh hồn người quá cố tìm
cách báo mộng tin lành hay tin dữ, điềm xấu hay điềm tốt để họ có cách ứng xử
trong cuộc sống.
Trong Truyện Kiều, hồn ma không xuất hiện nhiều nhưng hình ảnh hồn ma
Đạm Tiên là điểm nhấn để lại dư âm trong lòng người đọc. Có ý kiến cho rằng hồn
ma của Đạm Tiên làm bước đệm cho Thúy Kiều lên ngôi vì ranh giới giữa thực và
ảo là quá nhỏ. Bóng ma Đạm Tiên xuất hiện với tư cách là người đồng đẳng ngang
hàng với Thúy Kiều, là hai chị em song sinh về mặt tâm linh. Đạm Tiên là cái bóng
của Thúy Kiều. Chính nhân vật này làm nên cái tài tình mà Nguyễn Du xây dựng
để chia sẻ đời sống tâm linh, đời sống tinh thần và cả đời sống thực đọa đày của
Kiều. Nỗi đau của Kiều, của Đạm Tiên sẽ không còn là nỗi đau của một con người
cụ thể nữa mà được nâng lên thành “nỗi đau truyền kiếp” của thân phận người phụ
nữ tài sắc, tài tình trong xã hội phong kiến xưa. Do đó, nếu không có hồn ma Đạm
Tiên thì độ dày và độ sâu của hiện thực sẽ phần nào mất đi. Từ đó, Nguyễn Du đã
khái quát lên triết lí nhân sinh sâu sắc:
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu

12



Với hình ảnh hồn ma Đạm Tiên, thế giới nhân vật trong Truyện Kiều không
chỉ là thế giới hiện hữu mà còn là thế giới do con người tưởng tượng ra – thế giới
của những người đã khuất. Từ đó, Truyện Kiều đã phần nào phản ánh được niềm
tin tâm linh trong đời sống tinh thần của người xưa, một phương diện văn hóa tinh
thần của con người Việt Nam.
Hồn ma Đạm Tiên đã theo sát cuộc đời của nhân vật Thúy Kiều, hiển linh
báo mộng cho nàng biết trước cuộc hành trình mười lăm năm lưu lạc, chìm nổi.
Người đọc có cảm giác như lạc vào không khí lung linh huyền ảo nửa thực nửa hư,
nửa như linh thiêng, nửa như ma quái của buổi chiều ngày thanh minh “ào ào đổ
lộc rung cây” đến hình ảnh hồn ma Đạm Tiên hiển linh khi Kiều khấn vái và ba
lần trong giấc mộng.
Lần đầu, bắt đầu đến để trước bạ tên nàng vào sổ đoạn trường:
Âu đành quá kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội một thuyền đâu xa
Lần thứ hai, đến để ngăn không cho nàng chết, bắt nàng phải sống mà trả hết
tiền căn nghiệp báo:
Kĩ rằng: nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao
Và lần thứ ba, đến để giữ sổ cho nàng:
Đoạn trường sổ rút tên ra,
Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau
Sự xuất hiện của Đạm Tiên đã khiến Kiều mang theo một ám ảnh tâm linh
sâu sắc về Đạm Tiên như là một sự đồng dạng đáng sợ. Nó buộc Kiều phải tin vào
những điều mù mờ huyễn hoặc trong tương lai, phải làm theo như “ma đưa lối quỷ
dẫn đường” chịu cảnh sống đọa thác đày. Nỗi lo âu và sự ám ảnh hiển hiện trong
Kiều hoàn toàn không phải là niềm tin vào trời, số trời, mệnh trời mà thực sự thức
dậy của tâm thức cộng đồng trước hồn ma Đạm Tiên.
13



Người ta cho rằng linh hồn là sự nhận thức thế giới sơ khai, khoa học không
chấp nhận nhưng rõ ràng tâm linh vẫn thừa nhận nó, với niềm tin vào sức mạnh
của một quyền lực không được biết tới nhưng vẫn tồn tại trong thế giới chúng ta.
Hồn ma Đạm Tiên thực chất là chứng nhân cho lối tư duy bi quan yếm thế của Tố
Như. Kiều tin vào hồn ma Đạm Tiên nhưng không mù quáng nhắm mắt làm theo.
Kiều đã nhiều lần chống đối những chỉ bảo của Đạm Tiên. Đầu tiên, Kiều không
chỉ vượt qua bức tường thành kiên cố của phong kiến Nho giáo mà nàng còn vượt
qua nỗi ám ảnh của bóng ma Đạm Tiên để toàn tâm, toàn ý, toàn hồn đến với Kim
Trọng “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Tiếp theo đó là hàng loạt hành
động Kiều chống trả thế lực hữu hình mà thực chất là có thế lực vô hình đứng đằng
sau điều khiển. Ác nghiệt thay, Kiều càng vẫy vùng vượt thoát nỗi ám ảnh ghê
gớm thì càng bị nhấn vào vòng xoáy của dòng sông định mệnh sâu hơn.
Bởi tin có linh hồn, nên khi trao duyên cho Thúy Vân, Kiều tức tưởi coi
mình là người đã chết, chết oan. Mà chết oan thì không siêu thoát được.
Có thể nói rằng hồn ma Đạm Tiên không chỉ xuất hiện bốn lần mà xem xét
trong toàn truyện, Nguyễn Du đã dành tới 230 câu thơ để tả sự liên kết giữa Kiều
và hồn ma Đạm Tiên: Kiều gặp mộ Đạm Tiên (câu 51-116), Đạm Tiên hiện về
(117-134), Kiều thương cho số phận Đạm Tiên (171-184), Kiều mơ gặp Đạm Tiên
và buồn cho số phận mình (185-242), Kiều tự tử, Đạm Tiên báo mộng (985-1004),
Kiều tự tử được cứu, Đạm Tiên báo mộng (2695-2738).
1.2.3. Giấc mộng (chiêm bao)
Nói nôm na, mộng đối lập với thực. Mộng được gọi bằng nhiều tên khác
nhau: chiêm bao, chiêm mộng, mộng mị, giấc mộng,... nhưng tựu chung cũng chỉ
nói đến những gì con người nhận được từ thế giới ảo mộng.
Mộng là đỉnh điểm của nhớ thương, mong ngóng và cả trăn trở, suy tư,
những gì làm người ta bận tâm nhiều thì sẽ gặp trong giấc mộng. Mộng cũng được
đặt trong mối tương thông giữa người sống với thế gới siêu nhiên như bụt, thần
14



thánh hay thế giới của cõi âm như ông bà cha mẹ quá cố hay người đã khuất nào
đó không có quan hệ về huyết thống để tiên báo trước sự việc xảy ra cho mỗi số
phận con người.
Khi Thúy Kiều bước vào cõi người ta để nếm bao cay đắng, tủi nhục thì
cũng là lúc nàng không nguôi nhớ về gia đình và Kim Trọng. Dù Thúy Vân và
Kim Trọng đã kết tóc se tơ nhưng Kim Trọng vẫn nặng lòng thương nhớ Kiều.
Thúy Vân cũng thế, nỗi nhớ chị không nói được bằng lời, những suy nghĩ, nhớ
thương của Vân đối với Kiều có thể thấy rõ trong giấc chiêm bao:
Phòng xuân trướng rũ hoa đào,
Nàng Vân nằm, bỗng chiêm bao thấy nàng.
Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
Nghe lời, chàng cũng hai đàng: tin, nghi
Nọ Lâm Thanh với Lâm Tri,
Khác nhau một chữ, hoặc khi có lầm
Nếu như giấc mộng của Thúy Vân xuất phát từ sự nhớ thương chị mà nên thì
giấc mộng của Thúy Kiều lại là điềm báo cho những điều chẳng lành. Ban ngày đi
chơi gặp mộ Đạm Tiên, tối Kiều liền gặp chiêm bao. Phải chăng người ta thường
nói “thấy người ta ra mình”, Thúy Kiều tự nhiên thắp hương cho Đạm Tiên và
khóc cho số phận người dưới mồ để rồi “vin” vào mình: “Thấy người nằm đó biết
sau thế nào?”. Kiều mơ gặp Đạm Tiên:
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận có chiều thanh tân
Sương in mặt tuyết pha thân,
Sen vàng lãng đãng như gần như xa
Khi Kiều hỏi, Đạm Tiên trả lời:
Vâng trình hội chủ xem tường,
Mà sao trong sổ đoạn trường có tên.
15



Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội một thuyền đâu xa!
Từ đó dẫn đến việc đoán mộng, cho rằng đó là điềm hung:
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Thân con thôi có ra gì mai sau!
Như vậy, muốn biết được giấc mộng lành hay dữ, người ta lại đi tìm cách
giải mộng. Những giấc mộng do thế lực siêu hình đem đến, dù có thực hay không
có thực nhưng vẫn được dân gian tin vào, Nguyễn Du tin và Kiều cũng tin là có
thật. Kiều tin Đạm Tiên báo mộng cho nàng biết trước số phận nghiệt ngã của
mình. Trong cuộc đời mình, Kiều đã nằm mộng thấy Đạm Tiên ba lần hiện về
mách bảo.
Lần đầu, Kiều mộng thấy Đạm Tiên sau khi đi hội đạp thanh về:
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển mới là chị em
Đã lòng hiển hiện cho xem

Thềm hoa khách đã trớ hài
Nàng còn cầm lại một hai tự tình
Gió đâu sịch bức mành mành
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao
Lần chiêm bao đầu tiên bao giờ cũng để lại nỗi ám ảnh sâu sắc đối với người
nằm mộng, nó chi phối từ suy nghĩ đến hành động của Kiều.
Lần thứ hai, khi Kiều rơi vào lầu xanh, toan tự tử, Kiều mộng thấy Đạm
Tiên hiện về vừa nhắc nhở vừa khẳng định:
Rỉ rằng: “Nhân quả dở dang,
Ðã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
Số còn nặng nghiệp má đào,
16



Người dầu muốn quyết trời nào đã cho!
Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
Sông Tiền Ðường sẽ hẹn hò về sau.
Đạm Tiên hiển linh báo mộng cho Kiều biết rằng số mệnh truân chuyên của
nàng chưa chấm dứt, nó còn bám riết Kiều cho tới tận sông Tiền Đường. Dù Kiều
có muốn thoát thì trời cũng chẳng cho, Kiều chỉ có một lựa chọn duy nhất là phải
chấp nhận nợ đoạn trường. Mười lăm năm đoạn trường của Thúy Kiều là một minh
chứng cho giấc mộng Đạm Tiên.
Yếu tố mộng xuất hiện 32 lần, các từ “mộng”, “chiêm bao”, “cơn mê” lặp
lại 25 lần, không chỉ là hình thức thông linh giữa con người và giới thần linh mà
còn là điềm trời, báo mộng vận số của thần linh đến với người trần.
Như vậy, trong cuộc sống vô cùng đa dạng và phức tạp của con người, có
những sự việc mà các nhà khoa học đã giải thích song cũng còn rất nhiều điều bí
ẩn đang mời gọi, thách đố khả năng khám phá của họ. Vì lẽ đó, mà đến ngày nay,
dù khoa học đã phát triển nhưng tâm linh vẫn còn tồn tại và có ý nghĩa nhất định
nào đó với con người.
Đặc biệt đối với Truyện Kiều, chiêm mộng của Thúy Kiều về Đạm Tiên
được liên kết thành mạch kể xuyên suốt cốt truyện. Có mở đầu, phát triển và có kết
thúc. Đạm Tiên “bám riết”, chi phối cuộc đời Kiều. Tiên đoán, tiền định, hư hư,
thực thực,… là những tính chất, màu sắc đa dạng của chiêm mộng.
Ranh giới giữa vô thức và hữu thức, trần thế và cõi thiêng vốn dĩ rất mờ
mỏng. Yếu tố chiêm mộng trong truyện thơ Nôm là một môtip xuất hiện gắn với
những ý đồ nghệ thuật khác nhau của người cầm bút. Nó nối tiếp dòng quan niệm
về hồn mộng của người Việt cổ kết hợp với ước vọng của con người. Yếu tố chiêm
mộng tham gia tiến triển của cốt truyện, số phận đường đời nhân vật. Chiêm mộng
lý giải thái độ của con người trong ứng xử với tôn giáo, là bộ phận gắn với đời
sống tâm linh của con người xưa nay.
17



1.2.4. Bói toán
Những phương thuật tướng số, tử vi, bói toán,… thực chất có nguồn gốc từ
Đạo giáo ở Trung Quốc và khi ảnh hưởng vào nước ta các biểu hiện này trở nên
phổ biến trong tín ngưỡng người Việt. Đa số người Việt không chỉ tin vào linh hồn
còn tồn tại, chết chưa phải là hết mà còn tin vào thuật tướng số, bói toán. Bói toán
là hình thức dự báo về con người, về một vấn đề nào đó liên quan tới cộng đồng.
Và lời tiên đoán, dự báo của tướng sĩ vô tình gặp gỡ trong cuộc trò chuyện cùng
Kim Trọng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Kiều:
Nhớ từ năm ấy thơ ngây
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Và quả thật, hậu vận của Kiều là cả một “thiên bạc mệnh”. Chính bởi có khả
năng đoán định tương lai, hậu vận của người đời nên nhân vật tướng sĩ đã thu hút
biết bao sự tò mò của dân gian muốn biết về bí mật của cuộc đời mình. Vương ông,
Vương bà cũng thế, họ cũng muốn biết trước số phận của Thúy Kiều nên mới mời
thầy tướng số về xem. Đáng chú ý hơn là Kiều đã nghe và đã tin tuyệt đối, tin đến
nỗi những lời sấm truyền này đã nhập sâu vào tâm khảm, vào phần vô thức của
nàng, ám ảnh chi phối tư tưởng và hành vi của Thúy Kiều.
Sau lời tiên tri của thầy tướng số, Kiều đã gặp mộ Đạm Tiên, lại nghe
Vương Quan kể về tiểu sử tài sắc mà “thoắt đã gãy cành thiên hương” của người
ca nhi quá cố, thì chất keo bạc mệnh như kết tinh thành một khối vận mệnh của
cuộc đời Thúy Kiều:
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chồng
Hay nhân vật đạo nhân được Thúc Sinh mời về lập đàn cầu đảo cầu siêu cho
oan hồn Kiều đã phán rằng:
18



Người này nặng kiếp oan gia
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho!
Mệnh cung đang mắc nạn to,
Một năm nữa mới thăm dò được tin.
Điều mà đạo nhân nói đã được chứng nghiệm về sau, cho dù lúc đó ai ai
cũng cảm thấy đây chẳng qua chỉ là lời nói quàng xiên của đồng cốt. Nhưng quả
thật một thời gian sau, Kiều và Thúc Sinh đã gặp lại nhau trong cảnh trớ trêu như
thầy đã phán:
Hai bên giáp mặt chiền chiền
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!
Ngoài ra còn có nhân vật Tam Hợp đạo cô. Nhân vật này vốn là tiên tri, xuất
hiện hai lần trong tác phẩm. Một lần là qua lời kể của sư Giác Duyên với Kiều, báo
tin cho Kiều về lần hội ngộ sắp tới. Tam Hợp đạo cô đưa ra lời tiên đoán cho cuộc
đời Kiều trong tương lai:
Nhớ ngày hành cước phương xa
Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri
Báo cho hội ngộ chi kì
Năm nay là một nửa thì năm sau
Mới hay tiền định chẳng lầm
Đã tin điều trước, ắt nhằm việc sau
Lần thứ hai là cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Giác Duyên và Tam Hợp đạo cô.
Tại cuộc gặp gỡ này, sư đã hỏi đạo cô về trường hợp của Kiều. Tam Hợp đạo cô đã
đưa ra cách lí giải về thân phận và cuộc đời Kiều:
Có trời mà cũng tại ta
Tu là cỗi phúc tình là dây oan
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
19



Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong
Cho nên những chốn thong dong
Ở không yên ổn ngồi không vững vàng
Giác Duyên nghe nói rụng rời, đạo cô bèn trấn an ngay:
Sư rằng song chẳng hề chi
Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
Mắc điều tình ái khói đường tà dâm
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời
Hại một người cứu muôn người
Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng
Thừa công đức ấy ai bằng
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi
Như vậy Kiều đã “đức năng thắng số”. Đạo cô khuyên:
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau
Tiền Đường thả một bè lau rước người
Giác Duyên làm đúng lời của đạo cô. Vì vậy đã cứu được Kiều khi nàng
gieo mình xuống sông Tiền Đường. Có thể thấy lời lí giải này rất quan trọng đối
với Giác Duyên và đối với Kiều.
Theo GS Phan Ngọc nhận xét: “Những lời đoán trước xuất hiện bốn lần
trong Truyện Kiều, nhằm mục đích báo trước cho người đọc biết được cuộc đời
sau này của nàng”. Bói toán có tác dụng lớn trong việc cứu sống Kiều. Chính sự
ứng nghiệm của những lời phán báo, do thế những người tinh thông phép thuật đã
gây nên niềm tin cho con người. Có thể nói, Nguyễn Du đã phản ánh một thực tế là
người xưa tin vào tướng số, bói toán, tiên tri là điều có thật.
20



Dù rằng hình thức bói toán, tiên tri vốn có nguồn gốc từ Đạo giáo của Trung
Quốc nhưng khi ảnh hưởng vào Việt Nam thì nó được dân gian hóa, tiếp thu phù
hợp với tâm lí thích bói toán để biết trước điều sắp xảy ra.
2. Cách ứng xử trong Truyện Kiều
2.1. Văn hóa ứng xử trong quan hệ gia đình từ tư tưởng Nho giáo
2.1.1. Quan hệ cha con theo đạo hiếu
Nước ta đã trải qua hàng ngàn năm phong kiến Trung Hoa đô hộ nên các hệ
tư tưởng, các giá trị văn hóa Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu sắc đến người Việt,
trong đó Nho giáo chiếm vai trò chủ đạo.
Theo Khổng nho, những tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức đến từ nền tảng gia
đình: “tu thân, tề gia trị quốc, bình thiên hạ”. Nho giáo khẳng định rằng sự giáo
dục từ trong gia đình có tác động mạnh mẽ, thậm chí quyết định sự thành công của
việc trị nước.
Chữ Hiếu là cả một hệ thống giá trị, tư tưởng và đạo đức của con người.
Trong gia đình, làm người phải hiếu thuận, giữ đạo làm con đối với cha mẹ. Đối
với các trí thức Nho giáo, chữ Hiếu là tiêu chuẩn phải có trong tam cương, ngũ
thường, hướng con người đi trên con đường Chân - Thiện - Mỹ.
Với quan niệm về chữ Hiếu như vậy, nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du đã thực hiện được đạo Hiếu đối với cha mẹ nàng. Thúy Kiều
không chỉ là người phụ nữ có sắc có tài mà còn là người con hết mực hiếu thảo.
Khi gia đình Kiều gặp tai biến, Vương ông và Vương Quan bị bắt, nàng đã
quyết định bán mình để lấy tiền chuộc cha và em. Tận mắt chứng kiến cảnh cha và
em bị hành hạ, đánh đập, Kiều vô cùng đau xót. Trong giây lát, tuy có sự đắn đo,
cân nhắc giữa bên tình bên hiếu song Thúy Kiều cũng đã đưa ra quyết định chọn
chữ Hiếu, hi sinh chữ Tình để thể hiện lòng hiếu thảo của mình đối với cha mẹ.
Duyên hội ngộ đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn
21



Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành
Quyết tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha
Như vậy ứng xử của Kiều là xuất phát từ tình cảm yêu thương chân thành
của nàng dành cho cha và em. Phận làm con Thúy Kiều nhận thấy mình phải có
trách nhiệm trước cơn tai biến của gia đình. Nàng cũng biết rằng trong cái xã hội
ấy, muốn cứu được cha và em không có cách nào khác là phải dùng tiền “Làm cho
khốc hại chẳng qua vì tiền”. Trong hoàn cảnh hiện tại của gia đình bấy giờ, muốn
có tiền thì chỉ có cách là bán tấm thân tuyết sạch giá trong của nàng. Hành động
của nàng là một hành động tất yếu nảy sinh trong hoàn cảnh thực tế mà nhân vật
không có sự lựa chọn nào khác. Nó xuất phát từ một lý trí tỉnh táo và một tấm lòng
tràn đầy yêu thương của Thúy Kiều dành cho cha và em. Có thể thấy, Kiều đã
làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo. Nàng đã hết sức thương cảm và
thậm chí không tiếc tấm thân của mình để thực hiện đúng đạo của người làm con.
Quyết định bán mình chuộc cha và em, Thúy Kiều đã trở thành một món
hàng không hơn không kém. Nhờ có người mai mối, Mã Giám Sinh đã đến mua
nàng. Cuộc mua bán Kiều diễn ra đúng với bản chất một cuộc mua bán thông
thường. Và nó cũng giống như bao cuộc mua bán khác: Có xem người, thử tài, có
cò kè, cân lên đặt xuống, thêm bớt mặc cả:
Đắn đo cân sức cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu…
…Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm

22



Chứng kiến cảnh con gái trở thành một món hàng để người ta “cân lên đặt
xuống”, Vương ông định tự tử để Thúy Kiều khỏi lâm vào cảnh đọa đày:
Một lần sau trước cũng là
Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau!
Theo lời càng chảy dòng châu
Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi
Thấy cha có hành động tiêu cực, Thúy Kiều đã vội vàng khuyên ngăn. Nàng
đã nói những lời vừa hợp lí vừa hợp tình để thuyết phục cha. Nàng phân tích cho
cha hiểu rằng, việc con bán mình chuộc cha là đúng với đạo hiếu. Cha mẹ sinh ra
con, nuôi nấng dưỡng dục con nên người nên con cái phải có trách nhiệm đền ơn
sinh thành “Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành”. Nàng cũng phân tích cho cha
hiểu rằng: cha là trụ cột trong gia đình, cả nhà trông cậy vào cha “Một cây gánh
vác biết bao nhiêu cành”. Nếu mà cha chết thì sẽ nhà tan cửa nát. Nên “Thà đành
liều một thân con/ Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây”. Nàng an ủi cha là cha cứ coi
như con đã chết nên đừng tính quẩn lo quanh làm gì: “Cũng đừng tính quẩn lo
quanh/ Tan nhà là một thiệt mình là hai”. Điều đáng lưu ý là khi khuyên cha, lời lẽ
của nàng thật nhẹ nhàng, tha thiết, vừa thể hiện một lý trí sáng suốt, tỉnh táo, vừa
thể hiện được tấm chân tình của một người con dành cho cha. Nàng đã khuyên
ngăn, động viên, an ủi để phần nào cha yên lòng, tiếp tục sống.
Như vậy, chữ Hiếu – một giá trị đạo đức của Nho giáo, trong cách triển khai
của Nguyễn Du, là những phạm trù mở, luôn gắn kết với ngữ cảnh và con người cụ
thể. Chữ Hiếu theo quan niệm của Nho giáo đã được thể hiện một cách linh hoạt
qua ứng xử của Thúy Kiều trong Truyện Kiều.
2.1.2. Quan hệ vợ chồng với Thúc Sinh và Từ Hải
Nho giáo đề cao những quy định chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ của mỗi
thành viên trong gia đình. Người vợ Nho giáo được đào tạo phải phục tùng người
chồng. Vai trò của họ chỉ là chăm lo công việc trong gia đình và chăm sóc chồng
23



×