Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào nề kinh tế thị trường của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.62 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
.
Trang
Phần

1:

Mở

đầu

2
Phần 2: Nội dung
I.

Lý luận của C.Mác về phương pháp sản xuất giá trị thặng dưới chủ nghĩa tư bản
1. Bản
chất
của
giá
trị
thặng



3
2. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
a. Phương
pháp
sản
xuất


giá
5
b. Phương
II.

pháp

sản

xuất

giá

trị

thặng



tuyệt

đối

trị

thặng



tương


đối

6
Ý nghĩa thực tiễn của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đối với nước ta hiện nay
1. Thực
trạng
tình
hình
kinh
tế
Việt
Nam
8
2. Sử dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào nền kinh tế Việt Nam
a. Thành

tựu

9
b. Hạn

chế

12
c. Giải

pháp

12

Phần

15

3:

Kết

luận


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Theo đuổi giá trị thặng dư là động lực cao nhất và không có giới hạn
của từng nhà tư bản và cả nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nó thúc đẩy các nhà tư
bản tìm nơi đầu tư có lợi và thúc đẩy việc ứng dụng các thành tựu của tiến bộ
khoa học công nghệ. Chính vì vậy, C.Mác đã khẳng định: “Sản xuất giá trị thặng
dư, hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức này”.
Ngày nay, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật
và sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại, bức tranh thế giới đã và đang
diễn ra nhiều đổi mới trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
tư tưởng… Nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa để phù hợp với những vấn đề mà thực tiễn đòi
hỏi chúng ta phải nhận thức lại, bổ sung và phát triển các hoc thuyết đặc biệt là
học thuyết giá trị thặng dư .
Nhận thấy tính cấp thiết của nó đối với sự phát triển kinh tế của xã
hội, Nhóm 10 đã lựa chọn đề tài: “Lý luận của C.Mác về phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư dưới chủ nghĩa tư bản . Ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta hiện
nay”.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là để chỉ rõ rằng: Quan hệ mua bán
giữa công nhân và tư bản không phải là mua bán hàng hóa lao động mà là mua

bán một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động. Như vậy, bóc lột lao
động thặng dư biểu hiện thành bóc lột giá trị thặng dư là quy luật bóc lột đặc thù
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và là quy luật tuyệt đối của phương


thức sản xuất đó. Qua đó ta có cách nhìn toàn diện cũng như đúc kết lại một số
yếu ó phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay.
Để nghiên cứu đề tài này Nhóm 10 đã tham khảo của tài liệu liên
quan đến sản xuất giá trị thặng dư của C.Mác, cùng với đó là tìm hiểu về cách áp
dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đối với Việt Nam hiện nay .
Nhóm 10 đã lựa chọn ngành công nghiệp để nói về việc áp dụng đề
tài này vào xã hội.
Kết cấu của đề tài gồm có hai phần lớn như sau :


Phần 1: Lý luận của C.Mác về phương pháp sản xuất giá trị thặng

dư dưới chủ nghĩa tư bản.
• Phần 2 : Áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào nề
kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay.
PHẦN 2 : NỘI DUNG
I.

LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ DƯỚI CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1. Bản chất giá trị thặng dư
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng

mà là giá trị, hơn nữa không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. Để
sản xuất giá trị thặng dư.

Nhà tư bản muốn sản xuất ra 1 giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi
nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá có
giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà tư
bản đó bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa các quá
trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C Mác
viết: “với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra
giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự


thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản
xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của
nền sản xuất hàng hoá”.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình tư bản tiêu dùng sức lao
động có hai đặc trưng:


Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống
như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho hiệu

quả nhất.
• Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của
người công nhân.
C. Mác đã lấy ví dụ về việc sản xuất của nước Anh làm đối tượng
nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mac đã sử dụng
phương pháp giả định khoa học thông qua giải quyết chặt chẽ tiến hành nghiên
cứu: không xét đến ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư
liệu sản đem tiêu dùng chuyển hết một lần giá trị sản phẩm và chỉ nghiên cứu
trong nền kinh tế sản xuất giản đơn.
Từ giả định trên mà C.Mác đưa ra một loạt các giả thiết về nghiên

cứu:
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi; giá 1 kg bông là 1$; hao mòn thiết
bị máy móc để kéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1$; tiền thuê sức lao động 1 ngày
là 4$; giá trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1$ và chỉ cần 4 giờ người
công nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi.
Từ đó ta có bảng sau:
Tư bản ứng trước
Giá trị 10 kg bông

Giá trị của sản phẩm mới
10$ Lao động cụ thể của công 10$
nhân bảo tồn và chuyển giá trị
10 kg bông vào 10 kg sợi

Hao mòn máy móc

2$

Khấu hao tài sản cố định

2$


Tiền thuê sức lao động trong một 4$

Giá trị mới do 8 giờ lao động 8$

ngày

của người công nhân tạo ra.


Tổng chi phí sản xuất

16$ Tổng doanh thu

20$

Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20$) với tổng
chi phí tư bản ứng trước quá trình sản xuất (16$) nhà tư bản nhận thấy tiền ứng
ra đã tăng lên 4$, 4$ này được gọi là giá trị thặng dư.
Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
Một là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất (10 kg sợi), chúng ta thấy có
hai phần :
 Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân

mà được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là
giá trị cũ.
 Giá trị do lao động trìu tượng của người công nhân tạo ra trong quá trình
lao động gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao
động, nó bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.
Hai là, ngày lao động của người công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia
thành hai phần:
 Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: trong thời gian này người

công nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao
động hay mức tiền công mà nhà tư bản giả cho mình(4$).
 Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư : trong thời gian lao
động thặng dư người công nhân tạo một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức
lao động hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư
(4$) và bộ phận này thuộc về nhà tư bản (nhà tư bản chiếm đoạt)

Ba là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá tiền


thành tư bản diễn ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra trong
lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá
đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hoá đó
trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị thặng dư cho
nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản.
Từ đó mà C,Mác đã đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
 Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do

công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị tư bản chiếm đoạt.
 Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt
khỏi điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng
giá trị mới ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà
tư bản đã trả họ. Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá
trị vượt khỏi giới hạn tại điểm đó là sức lao động được trả ngang giá.
2. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì
vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị
thặng dư. Khái quát hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do
kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng
suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu
của chủ nghĩa tư bản, thời kì này nên kinh tế sản xuất chủ yếu là sử dụng lao

động với những máy móc giản đơn ở các công trường thủ công, hoặc lao động
với những máy móc giản đơn ở các công trường thủ công. Đó là sự gia tăng về
mặt lượng của quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Bởi phương pháp giá trị
thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt


quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động
và thời gian lao động tất yếu là không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất
yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Khi đó trình độ bóc lột của nhà tư
bản là
m’= 4/4.100%=100% .
Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời
gian tất yếu không thay đổi, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc
lột tăng lên đạt 150% (m’=150%). Điều đó được biểu diễn như sau:

Ta có: m’=6/4.100%= 150%
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để
kéo dài ngày lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao
cho các nhà tư bản. Những ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn
trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định.
Dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hóa, nhưng
nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. vì vậy, ngoài thời gian người công
nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân đòi hỏi còn phải
có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác,
sức lao động là thứ hàng hóa đặc biệt vì vậy ngoài yeus tố vật chất người công
nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật
chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản
đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động không thể bằng
thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như



vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu nhưng
không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
b. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của
nguời lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp
công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại
công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị
thặng dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo
dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất
lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư
được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian
lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Do đó, tý suất giá trị
thặng dư là: m’ = 4/4.100% = 100%.
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân
chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức
lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là
thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được
biểu diễn như sau:

Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là: m’ = 5/3.100% = 166%.
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.



Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời
gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời
gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao
động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công
nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động
trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của
công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản
xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao động xã
hội.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật
phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử
phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ
nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và
đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị
thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư
bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê
trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp
dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà
trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản
xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng
thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
II.

Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ

THẶNG DƯ ĐỐI VỚI NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Thực trạng
Việc nghiên cứu hai phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích và tính

chất của chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuát giá trị thặng dư, nhất là
sản xuất phương pháp giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng dư siêu


ngạch có thể vận dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản
xuất tăng năng suất lao động xã hội sử dụng kĩ thuật mới,cái tiến tổ chức quản
lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc
nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách
phương thức làm tăng của cải , thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. trong điều kiện
điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận
dụng triệt để các nguồn lực,nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản
lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là giải pháp cơ bản để tăng
năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân lao động
làm thuê tạo ra, là mục đích ,kết quả hoạt động của tư bản,của giai cấp tư sản.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, việc bóc lột sức lao động không công của người
công nhân không còn nữa, nhưng không có nghĩa là giá trị thặng dư không tồn
tại mà gá trị thặng dư được sử dụng vào mục đích khác không giống như giai
cấp tư sản, đó là giá trị thặng dư thu được là cơ sở, tiền đề để xây dựng đất
nước, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, vì mục đích phát triển xã
hội chủ nghĩa, vì con người không tách ra khỏi xu hướng của xã hội, Việt Nam
vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào trong công cuộc xây
dựng đất nước, trong đó tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa là một nhiệm vụ
hàng đầu, đây cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình phát triển kinh tế mỗi
quốc gia.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn
bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế xã
hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến với

công nghệ,phương tiện tiên tiến,hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Thực chất công nghiệp hóa - hiện đại hóa là quá trình tạo ra những tiền đề về vật
chất kĩ thuật về con người công nghệ phương tiện phương pháp, những yếu tố cơ


bản của lực lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi của công
nghiệp hóa hiện đại hóa là cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử
dụng tiên tiến hiện đại đạt tới năng suất lao động xã hội cao, tạo ra sự đổi mới
trong tất cả các nghành nghề,lĩnh vực.
Là một bước tiến lên xã hội chủ nghĩa chưa và không qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa hay đúng hơn là không qua giai đoạn thống trị của
giai cấp tư sản. Vì vậy , chúng ta không được kế thừa tất cả những tiền đề nảy
sinh một cách tự phát như những sáng tạo của người đi trước cho dù chúng chỉ
là những nhân tố vô cớ. Điểm xuất phát để nhận thức tầm quan trọng của học
thuyết giá trị thặng dư chính là luận điểm sản phẩm của lao động thường vượt
quá những chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích lũy quỹ sản xuất xã
hội và dự trữ. “Tất cả những cái đó đã và mãi mãi vẫn là cơ sở cho mọi sự tiến
bộ về xã hội, về chính trị và về tinh thần. nó sẽ là điều kiện và động cơ kích
thích sự tiến bộ hơn nữa…”
Chúng ta lựa chọn com đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất
phát là nước tiểu nông cũng có nghĩa từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hóa
mặc dù có sản xuất hàng hóa. Cái thiếu của đất nước ta - theo cách nói của
C.Mác - không phải là và chủ yếu là cái đó, mà cái chính là chưa trải qua sự ngự
trị của cách tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Đất nước ta
đang đứng trước nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần
thiết, đó là sự phát triển của súc sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa sẽ tạo ra
ngày càng nhiều giá trị thặng dư dù là chúng biểu hiện những quan hệ xã hội
khác nhau. Chúng ta không thể đạt được mục tiêu kinh tế ấy ngay trong thời
gian ngắn mà phải biết rút ngắn những qua trình tất yếu mà chủ nghĩa tư bản đã
phải trải qua và đang thực hiện để có được một nền kinh tế đang cực thịnh như

ngày nay. Đó là một quá trình phát triển trải qua nhiều giai đoạn phân công lao
động xã hội. nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa hình thành và giá trị thặng
dư cũng được sản xuất ra với khối lượng lớn lao động, đặc biệt khi khoa học
công nghệ phát triển và vận dụng có ý thức rộng dãi vào sản xuất với quy mô


chưa từng có. Các giai đoạn phát triển sản xuất và chiếm đoạt giá trị thặng dư
của chủ nghĩa tư bản đã diễn ra một cách tự phát và tuần tự. nhưng đó cũng là
giai đoạn của quá trình lịch sử - tự nhiên mà chúng ta có thể rút ngắn mà chúng
ta có thể rút ngắn chứ không thể bỏ qua. Đó cũng là ý nghĩa thực tiễn rút ra từ
học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
2. Sự vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào nền kinh tế Việt

Nam
a. Thành tựu
Ta có giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân lao
động làm thuê tạo ta, là mục đích, kết quả hoạt động của tư bản, của giai cấp tư
sản. Trong xã hội chủ nghĩa, với chủ trương việc bóc lột sức lao động không
công của người công nhân không còn nữa, nhưng không có nghĩa là giá trị thặng
dư không tồn tại, mà giá trị thặng dư được sử dụng vào mục đích khác không
giống như giai cấp tư sản, đó là giá trị thặng dư thu được là cơ sở, tiền đề để xây
dựng đất nước, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, vì mục đích phát
triển xã hội chủ nghĩa, vì con người. Không tách ra khỏi xu hướng xã hội, Việt
Nam vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào trong công cuộc
đổi mới, trong đó tiến hạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một nhiệm vụ
hàng đâu, đây cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia.
Có thể thấy vì giá trị thặng dư là cội nguồn sinh ra sự giàu có, sung
túc vì xuất hiện giá trị mới, nên để duy trì và phát triển sự giàu có, dôi dư này,
giai cấp tư sản có xu hướng không ngừng sản xuất ra càng nhiều giá trị thặng dư

càng tốt, sản xuất với quy mô ngày càng lớn hơn trước. Những lợi tức, tiền bạc
thu được đều được đưa vào tái đầu tư, tái sản xuất, thuê mua nguyên vật liệu nhà
xưởng để vận hành tạo giá trị thặng dư.
Chuyển nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn, hiện đại dưới tác động
của quy luật giá trị thặng dư và các quy luật của nền kinh tế của sản xuất hàng
hóa, chủ nghĩa tư bản đã làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng của cải


khổng lồ hơn nhiều xã hội trước cộng lại. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải
phóng con người khỏi xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự
túc, tự cấp, chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghía, chuyển
sản xuất nhỏ lên sản xuất hiện đại.
Gần 20 năm phát triển (1990-2008) tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam liên tục giữ ở mức khá cao, tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 19902008 là 7,56%/năm. Tốc độ tăng kinh tế cao, trong khi tốc độ tăng dân số được
kìm hãm, đã dẫn đến mức thu nhập GDP bình quân trên đầu người mỗi năm một
tăng. Nếu năm 1990, GDP trên đầu người của Việt Nam chỉ khoảng trên 100
USD, thì đến năm 2007, GDP/người đã đạt 835 USD, tăng trên 8 lần. Năm
2008, GDP trên đầu người ước tính đạt khoảng 1.047 USD/người (xem Bảng 1).
Với mức thu nhập này, Việt Nam lần đầu tiên thoát ra khỏi nhóm nước nghèo
(nhóm nước có thu nhập thấp nhất) theo cách phân loại của Ngân hàng Thế giới.
So với các nước trong khu vực, Việt Nam có mức tăng trưởng cao thứ
ba, sau Trung quốc và Ấn độ. Dưới đây là tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam
so với tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới, kinh tế các nước và nhóm nước.

Nước/
Nhóm 2006
2007
nước
Thế giới
5,1

5,0
Việt Nam
8,17
8,5
Trung Quốc
11,6
11,9
Ấn Độ
9,8
9,3
Mỹ
2,8
2,0
Nhóm nước đồng 2,8
2,6
tiền chung ERO
Nhóm các nước 5.6
5,6
công nghiệp mới
châu Á
Nguồn: IMF (năm 2008, số ước tính của IMF)

2008
3,7
6,36
9,7
7,8
1,4
1,2
3,9



Hơn 20 năm đổi mới và hội nhập, kinh tế Việt Nam không ngừng phát
triển với tốc độ cao, Việt Nam đã thoát ra khỏi nhóm các nước có mức thu nhập
thấp, mức sống người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm mạnh, nền kinh tế
đang chuyển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, như đã trình
bày, những hạn chế và những thách thức của hội nhập không phải là ít. Nhiều
chỉ số phát triển còn thấp.
Sau đổi mới năm 1986, các doanh nghiệp nhà nước không còn hoàn
toàn được nhà nước bao cấp nữa mà bắt đầu phải tự chủ, bước vào nền kinh tế
thị trường, đồng thời, các doanh nghiệp tư nhân đầu tiên cũng ra đời. Tiếp đến,
sự tràn vào của hàng hóa các nước khác, đặc biệt là hàng Trung Quốc giá rẻ đã
tạo nên một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này buộc họ
phải đổi mới công nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại và đứng vững
trong nền kinh tế thị trường. Để tạo ra được nhiều giá trị thặng dư, các doanh
nghiệp bắt đầu chuyên môn hóa trong việc sản xuất sản phẩm, phân chia công
đoạn chi tiết, đầu tư vào việc mua lại công nghệ và máy móc, áp dụng các
phương thức quản lí mới. Ban đầu, với lượng kinh phí còn hạn hẹp, họ mua lại
những công nghệ và máy móc cũ đã lỗi thời ở các nước phát triển với giá thành
rẻ, rồi dần dần chuyển đổi sang những công nghệ mới hiện đại hơn. Đồng thời,
khi Việt Nam còn chưa có nguồn nhân lực tri thức cao, các chuyên gia nước
ngoài cũng được mời về để chuyển giao công nghệ. Sau khi gia nhập WTO, các
doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các đối thủ mới (các công ty xuyên
quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm và năng lực
cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện mới (thị trường toàn
cầu với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương mại và luật pháp
quốc tế). Vì vậy, việc đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực lại càng trở
thành nhu cầu cấp bách khi cạnh tranh để tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn.

b.


Hạn chế


Tuy nhiên không thể không thấy rõ những mặt hạn chế khi công nghệ
của Việt Nam dù đã được cải tiến rất nhiều nhưng vẫn còn thua kém rất nhiều so
với các nước phát triển, do phần lớn các công nghệ này vẫn còn là công nghệ đã
không còn được sử dụng ở nước ngoài mà được bán lại với giá thành rẻ. Và với
những doanh nghiệp có nguồn lực hạn hẹp, thì sau khi đổi mới công nghệ một
lần thì họ phải chờ một quãng thời gian khá dài mới có thể huy động tiền để tiếp
tục đổi mới công nghệ trong khi khoa học kĩ thuật đang biến đổi từng ngày.
Thêm nữa, tuy ngân sách nhà nước và tiền của các doanh nghiệp đầu tư cho vấn
đề con người là rất lớn nhưng hiện nay số người có khả năng đáp ứng yêu cầu
tuyển dụng vẫn còn thấp, bởi đầu tư vào giáo dục vẫn chưa đem lại hiệu quả.
Điều này có thể thấy rõ ở việc tuyển dụng của Intel tại Việt Nam năm 2008 với
chỉ tiêu là 4000 nhân viên nhưng cuối cùng kết quả tuyển dụng đã gây ra một sự
thất vọng lớn.
c. Giải pháp

Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay cần có phương pháp khai thác
và vận dụng những tư tưởng và các nguyên lý của học thuyết giá trị thặng dư
một cách hiệu quả để đạt được những thành tựu mới đưa nền kinh tế đất nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cần phải nhận thức lại hàng hóa sức lao động không phải là phạm trù
riêng có của chủ nghĩa tư bản và phạm trù giá trị thặng dư xét về mặt định lượng
cũng vậy. Nó tồn tại như là một bước tiến của các xã hội mà ở đó năng suất lao
động vượt khỏi lao động tất yếu của họ. nó là nguồn gốc của tích lũy để mở rộng
và hiện đại hóa sản xuất kinh doanh, là nguồn gốc của sự giàu có văn minh.
Chính nó đòi hỏi xã hội cần phải:
 Tìm mọi cách để tăng thời gian lao động thặng dư và nhất là tăng năng


suất của lao động thặng dư.
 Tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản của vốn khi đầu tư và sử dụng nó. Đó là
nguyên tắc bảo tồn và nguyên tắc sinh lợi,nhất là nguyên tắc sinh lợi, để
cho một nguồn vốn đầu tư được tăng thêm giá trị.


 Xây dựng đồng bộ các loại thị trường,kể cả thị trường sức lao động. vấn

đề thu hồi giá trị thặng dư và định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
cho phép bóc lột giá trị thặng dư đã được Lê - Nin trình bày lý luận và
kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn ở nước Nga trước đây. Vấn đề đặt ra cho
chúng ta là:
 Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất thoát phần giá trị
thặng dư vào ngân sách nhà nước.
 Nhà nước sử dụng giá trị thặng dư được điều tiết sao cho có lợi đối với
việc thực hiện mục tiêu “ Dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ
văn minh”.
 Nhà nước phải đủ mạnh về thực lực kinh tế,năng lực quản lý và uy tín đối
với xã hội.
 Ngăn chặn được những “ ma lực” hút sự vận động của nên kinh tế đi
chệch khỏi quỹ đạo xã hội chủ nghĩa.
 Về khái niệm giai cấp công nhân được hiểu ở thế kỉ trước cũng khác
nhiều so với cách hiểu của thế kỉ này. Có thể nhận thức lại khái niệm giai
cấp công nhân về nhiều phương diện xong chúng ta không thể bỏ qua hai
khía cạnh: Xã hội mới - xã hội chủ nghĩa muốn giải phóng người công
nhân từ người làm thuê thành người làm chủ xong không thể làm chủ nếu
họ không có sở hữu về tài sản, vốn. do vậy, giai cấp công nhân ngày nay
không còn là giai cấp vô sản mà phải là giai cấp hữu sản. thực tiễn đã diễn
ra như vậy.

 Nâng cấp trang thiết bị để tăng năng suất lao động.
 Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để tạo ra nhiều giá trị thặng dư.
 Tiến hành hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài để tạo điều kiện cho
doanh nghiệp Việt Nam có được những công nghệ tiên tiến để phát triển
sản xuất.
 Kết hợp giờ làm việc hợp lý với các hoạt động giải trí và chương trình bảo
hiểm cho công nhân
 Thay đổi tư duy về năng lực cạnh tranh quốc gia đối với mọi tầng lớp cán
bộ, cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân.
 Chuyển định hướng chiến lược từ tập trung tăng trưởng nhanh sang định
hướng về tạo dựng năng lực cạnh tranh và cải thiện năng lực cạnh tranh.
 Xác định mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp cho thời kỳ mới


 Tái cấu trúc hệ thống doanh nghiệp
 Xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh
 Tăng cường năng lực quản trị kinh doanh của các giám đốc và cán bộ

quản lý trong các doanh nghiệp.
 Phát triển năng lực quản trị chiến lược của cán bộ quản lý
 Bố trí nguồn nhân sự hợp lý (ai có trình độ thế nào thì làm công việc đó)
 Tăng cường vai trò của các hiệp hội, các câu lạc bộ giám đốc và các tổ
chức chuyên môn đối với sự phát triển của các
 Bồi dưỡng khả năng kinh doanh quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam
 Tăng cường sự hỗ trợ của Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước
trong quá trình thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam
 Hỗ trợ tư vấn về thiết bị, công nghệ mới hiện đại, thích hợp và cung cấp
thông tin công nghệ, thị trường cho các doanh nghiệp Việt Nam
 Tạo lập và phát triển thị trường công nghệ

 Nâng cao chất lượng nguồn nhận lực
 Thúc đẩy hội nhập quốc tế


PHẦN 3: KẾT LUẬN
Nhìn chung, chúng ta thấy rằng học thuyết giá trị thặng dư rất quan
trọng và phức tạp. Sự cần thiết về thời gian thặng dư và cùng với nó là sản phẩm
thặng dư. Nó là nguồn gốc của sự giàu có của mọi xã hội, đó là điều dễ hiểu.
Song điều cần thiết là những biện pháp kinh tế tổ chức, đặc biệt về mặt xã hội để
kéo dài thời gian thặng dư cũng như việc sử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kéo
dài ngày lao động, tăng cường độ và tăng năng suất lao động ở những ngành sản
xuất tư liệu tiêu dùng để rút ngắn thời gian cần thiết đối với một xã hội ở trình
độ phát triển thấp như nước ta. Vấn đề đặt ra với chúng ta là:


Cần phải có những chính sách kinh tế phù hợp để điều hành các hoạt động

xã hội theo mục tiêu đã xác định.
• Ngăn chặn được những ma lực hút nền kinh tế chệch khỏi quỹ đạo xã hội
chủ nghĩa.
Và vấn đề quan trọng nhất về nhà nước là phải có một nhà nước vững
mạnh. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Do vậy,
cách tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu sản xuất hàng hoá cũng phải mang tính
chất quá độ. Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá phải gắn với lợi ích của nhân dân


và lợi ích của tư nhân. Nền kinh tế hàng hoá nào cũng xuất hiện những mâu
thuẫn và những mối quan hệ trong xu hướng vận động của nó. Sự thành công
trong chính sách quản lý của nhà nước ta trước hết và chủ yếu là khai thác, duy
trì sự thống nhất theo xu hướng vận động của giá trị thặng dư. Coi đó là vấn đề

có tầm chíên lược; đồng thời giảm đến mức tối thiểu mâu thuẫn trong việc sử
dụng và phân phối giá trị thặng dư trong các cơ sở kinh tế tư nhân tư bản chủ
nghĩa hướng chúng vào các hình thức kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, khắc
phục khả năng đối kháng của mâu thuẫn vốn là một khả năng hiện thực. Chúng
ta cần phải thừa kế và phát triển các học thuyết mà thế hệ đi trước để lại và vận
dụng nó cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Từ đó xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin vốn là môn khoa học phức tạp và có nhiều bất đồng nên bài thảo
luận này của chúng tôi khó tránh khỏi thiếu sót nhất định. Chúng tôi mong nhận
được những ý kiên nhận xét, góp ý để bài thảo luận được bổ sung sửa đổi hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !

Bảng đánh giá điểm tham gia thảo luận
Họ và tên

Mã SV

Nguyễn Thị
Minh Phượng
Phạm Thị Tầm

15D150378

Bùi Thúy Thanh
Nguyễn Thị
Thanh

Ghi chú


15D150119 Nhóm
trưởng
15D150188
15D150379

Điểm cá
nhân đánh
giá

Điểm nhóm
đánh giá


Quách Thị
Thanh

15D150189

Nguyễn Thị
Thao

15D150191

Bùi Phương
Thảo

15D150311 Thư ký

Lê Thị Phương

Thảo
Ngô Thị Thu
Thảo

15D150380
15D150051

Bảng phân công nhiệm vụ
Họ và tên

Mã sv

Nhiệm vụ
Phần mở đầu
Tổng hợp, sửa chữa bổ sung bản word
Làm slide và thuyết trình
Bản chất của giá trị thặng dư
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tương đối


Phần kết luận
Thành tựu và hạn chế
Giải pháp


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 10
( Lần 1 )
Địa điểm: Sân thư viện
Thời gian: 9h ngày 27 tháng 9 năm 2016
Thành phần tham gia: các thành viên trong nhóm
Vắng mặt: 0
Nội dung họp:
1. Nhóm trưởng thông báo đề tài thảo luận cho các thành viên trong nhóm
2. Nhóm trưởng xây dựng đề cương chi tiết cho bài thảo luận và phân công

nhiệm vụ cho các thành viên
Phân chia công việc cụ thể:
Thành viên
Nhiệm vụ
Nguyễn Thị Minh Phượng
Phần mở đầu
Quách Thị Thanh, Bùi Thúy Thanh, Lý luận của C.Mác về phương pháp
Nguyễn Thị Thao
sản xuất giá trị thặng dư dưới chủ
nghĩa tư bản
Nguyễn Thị Thanh, Lê Thị Phương Ý nghĩa thực tiễn của phương pháp
Thảo, Ngô Thị Thu Thảo
sản xuất giá trị thặng dư đối với nước
ta
Bùi Phương Thảo
Phần kết luận
Phạm Thị Tầm ( nhóm trưởng )
Tổng hợp bài, soạn thảo báo cáo
Cuộc họp kết thúc vào 10h30 cùng ngày.

Nhóm trưởng


Thư


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 10
( Lần 2 )
Địa điểm: Sân thư viện
Thời gian: 14h30 ngày 3 tháng 10 năm 2016
Thành phần tham gia: các thành viên trong nhóm
Vắng mặt: 0
Nội dung họp:
-

Tập trung tập hợp bài của các thành viên.
Chỉnh sửa những thiếu xót dựa vào những góp ý của các thành viên để tạo
thành bài hoàn chỉnh.

Nhiệm vụ về nhà: chỉnh sửa bài viết của mình sau đó gửi cho nhóm trưởng.
Cuộc họp kết thúc vào 16h cùng ngày.

Nhóm trưởng

Thư ký


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 10
( Lần 3 )
Địa điểm: Sân thư viện
Thời gian: 7h ngày 18 tháng 10 năm 2016
Thành phần tham gia: các thành viên trong nhóm
Vắng mặt: 0
Nội dung họp:
-

Tổng kết bài thảo luận lần cuối
Chọn người thuyết trình: Phạm Thị Tầm

Cuộc họp kết thúc vào 8h30 cùng ngày.

Nhóm trưởng

Thư ký


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM 10
( Lần 4 )
Địa điểm: Sân thư viện
Thời gian: 13h ngày 26 tháng 10 năm 2016
Thành phần tham gia: các thành viên trong nhóm
Vắng mặt: 0
Nội dung họp:

-

Cả nhóm xem qua bài thảo luận đã hoàn chỉnh
Xem và kí vào bản đánh giá

Cuộc họp kết thúc vào 14h cùng ngày.

Nhóm trưởng

Thư ký


×