Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về thời kì quá độ văn hóa xã hội chủ nghĩa , sự vận dụng lí luận này ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.96 KB, 33 trang )

CHƯƠNG I. MỞ ĐẦU
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác cho thấy sự biến đổi
của các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng lý luận đó vào phân
tích xã hội tư bản, tìm ra các quy luận vận dụng của nó, C.Mác và
Ph.Ăngghen đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có
tính chất lịch sử, và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới -xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Đồng thời C.Mác và Ph.Ăngghen cũng dự báo
những nét lớn về đặc trưng cơ bản của xã hội mới, đó là: có lực lượng
sản xuất xã hội cao, chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác
lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu, sản xuất nhằm thỏa mãn nhu
cầu của mọi thành viên trong xã hội , nền sản xuất được tiến hành theo
một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã hội, sự phân phối sản
phẩm bình đẳng, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí
óc và lao động chân tay bị xóa bỏ. Để xây dựng xã hội mới có những đặc
trưng như trên cần phải trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn thấp (giai đoạn
đầu) và giai đoạn sau (giai đoạn cao). Sau này Lênin gọi giai đoạn đầu là
chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản. C.Mác gọi giai
đoạn đầu xã hội chủ nghĩa là thời kỳ quá độ chính trị lên giai đoạn cao
của xã hội cộng sản.


CHƯƠNG II. NỘI DUNG

I. Khái niệm về thời kỳ quá độ lên CNXH
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt
để và toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới- xã hội XHCN. Nó diễn ra
trong toàn bộ nền các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra các tiền đề vật
chất, tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mới mà trong đó những
nguyên tắc căn bản của xã hội XHCN từng bước được thực hiện. Thời kỳ
này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết thúc khi đã xây dựng xong về cơ


bản cơ sở vật chất- kỹ thuật của xã hội.
Thời kỳ này ở các nước có trình độ phát triển kinh tế xã hội khác
nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian dài ngắn khác nhau. Đối với
những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến
lên xã hội chủ nghĩa thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước
trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc
biệt là những nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu thì thời kỳ quá độ
tương đối khó khăn, phức tạp.
Ở Việt Nam, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ
năm 1945 ở miền Bắc và năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi, đất nước
hòa bình và thống nhất, quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi
chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Đảng ta vẫn quyết định
nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Nước ta tiến
lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua tư bản chủ nghĩa là tất yếu khách quan, do
nó phù hợp với sự phát triển chung của xã hội loài người, và trong thời
đại ngày nay, độc lập dân tộc gắn liền với xã hội chủ nghĩa do đất nước ta
giành độc lập dân tộc tất yếu phải đi lên chủ nghĩa xã hội.
II. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Leenin về thời kì quá độ
Mở đầu: Giai cấp vô sản nắm chính quyền
Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng
việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất
cứ số tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và
chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động,
tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào
những sự biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm


lại, giai cấp vô sản hay giai cấp những người vô sản là giai cấp lao động
trong thế kỷ XIX.

Nói đến vô sản , người ta chỉ liên tưởng đến những con người nghèo
khổ , làm thuê làm mướn để kiếm ăn qua ngày nhưng vẫn luôn bị áp
bức ,chèn ép đến không còn lối thoát , tượng trưng cho kẻ yếu đuối, thấp
cổ bé họng . Nhưng sức chịu đựng con người không phải là vô hạn, họ
cũng có cảm xúc, có ý thức được hậu quả nếu tình trạng này kéo dài mãi
thì đến đời con châu sau này cũng sẽ mãi mãi không thoát khỏi bể khổ .
Những con người chân lắm tay bùn, ngày đêm lao động dưới sự bóc lột
của bọn tư sản đã vùng lên để đòi lại chính quyền ,giành lại sự tự do.
Việc thực hiện cuộc cách mạng lật đổ tư sản dẫn đến giai cấp vô
sản đã đứng lên nắm chính quyền trong tay . Theo quan điểm của Mac
Lênin , đây gọi là chuyên chính vô sản .
Chuyên chính vô sản là một nội dung quan trọng trong đi sản lý luận
và thực tiễn cách mạng của V.I.Lênin sau Cách mạng tháng Mười . Đây là
vấn đề cơ bản cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đặc biệt là
những nước không trải qua chế độ TBCN như Việt Nam.
Việc giai cấp vô sản lên nắm chính quyền có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với quá trình quá độ lên CNXH, nó như một phần tất yếu , gắn
kết liên minh công nông – hai thành phần chính của giải cấp vô sản , tình
đoàn kết khăng khít làm cho sức mạnh của giai cấp vô sản lớn hơn rất
nhiều so với trước
Chuyên chính vô sản như bước đầu mở ra một nguồn ánh sáng cuối
đường hầm của liên minh công nông . Số lượng giai cấp vô sản trong
toàn thể nhân dân chiếm tỷ lệ đông đảo nên khi nền chuyên chính vô sản
ra đời có thể nắm bắt được tâm lý chung, những nhu cầu , mong muốn
cũng như khó khăn của nhân dân để có thể xây dựng nền văn hoá , kinh
tế một cách hợp lý , thuận ý dân.
- Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội
Cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi phương thức sản xuất của xã hội là
tổng thể hữu cơ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù
hợp với trình độ kỹ thuật đạt được trong những điều kiện lịch sử nhất định

của tiến bộ khoa học công nghệ . Mỗi phương thức sản xuất nhất định có
một cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng . Trình độ của cơ sở vật chất –
kỹ thuật đặc trưng cho sự thống trị của một phương thức sản xuất .


Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền tảng sản xuất
hiện đại , có cơ cấu kinh tế hợp lý , có trình độ xã hội hóa cao , dựa trên
trình độ khoa học hiện đại , được hình thành một cách có kế hoạch và
làm nền tảng vững chắc cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân
Bất kỳ quốc gia nào quá độ lên chủ nghĩa xã hội đều cần thiết phải
thực hiện tiến hành công nghiệp hóa vì các cơ sở vật chất kỹ thuậ không
hình thành hay thích ứng một cách tự nhiên mà phải bằng con đường
công nghiệp hóa và trở thành quy luật kinh tế đối với mọi quóc gia quá
độ lên chủ nghĩa xã hội . Đối với các nước đã qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa thì xây dựng cơ sở vật chất ở trình độ cao ; các nước lạc
hậu, các nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật bằng cách công nghiệp hóa , hiện đại hóa. Công
nghiệp hóa , hiện đại hóa là tất yếu đối với những nước lạc hậu , những
nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa .
Đó là quá trình mang tính quy luật , bởi vì ngay sự quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đã có cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa tư bản , nhưng đó mới chỉ là tiền đề vật chất có sẵn.
Muốn biến nó thành cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ,
phải tiến hành hàng loạt các cuộc cải biến cách mạng về quan hệ sản
xuất , tiếp tục vận dụng vận dụng thành tựu mới của khoa học – kỹ thuật ,
phân bố , tổ chức lại và hiện đại hóa cao hơn . Vì vậy ,xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho CNXN thông qua quá trình CNH, HĐH là tất yếu .
Cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn , chủ nghĩa mác lênin khẳng định: vấn
đề trước hết của mọi cuộc cách mạng là giành chính quyền , nhưng
giành được chính quyền mới chỉ là thắng lợi bước đầu , cái đảm bảo

thắng lợi hoàn toàn cho cuộc cách mạng đó là phải đưa ra được kiểu tổ
chức một nền kinh tế có năng suất lao động cao hơn hẳn so với trước.
Năng suất lao động không tự động tăng lên mà nó chỉ có thể là kết quả
của một trình độ cao hơn của hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật .
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là quá trình xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho xã hội chủ nghĩa mà đó còn là quá trình tạo ra môi
trường để nâng cao hơn năng lực , phẩm chất, trình độ được hình thành
trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Hồ Chí Minh từng nói :
muốn xây dựng thành công CNXH cần phải có con người CNXH
Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH một mặt kế thừa những thành
quả đã đạt được trong xã hội trước đó , mặt khác nó được phát triển và


hoàn thiện trên cơ sở những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ
thuật hiện đại tạo ra năng suất cao hơn, mỗi bước tiến của quá trình
công nghiệp hoá , hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất
kỹ thuật cho CNXH đồng thời làm cho quân hệ sản xuất ngày càng được
củng cố và hoàn thiện , nền sản xuất xã hội không ngừng được phát
triển , đời sống vật chất văn hoá tinh thần của nhân dân không ngừng
được nâng cao, thoát khỏi tình trạng đói nghèo là cơ sở để phát huy
năng lực sáng tạo của mọi thành phần trong xã hội
Với cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng cao trong quá trình công
nghiệp hoá hiện đain hoá , giai cấp công nhân có điều kiện trưởng thành
cả về chất lượng lẫn số lượng , vai trò lãnh đạo của giải cấp vô sản ngày
càng được nâng cao và ngày càng có cơ hội để củng cố liên minh giữa
giai cấp công nhân và nông dân , làm cơ sở vững chắc cho chế độ xã
hội mới.
- Các giai đoạn quá độ
Sự ra đời học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đánh dấu một bước nhận thức mới, thực sự khoa học về

lịch sử nhân loại. Với quan điểm sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống
xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội,
đồng thời cũng là cơ sở quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế
lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội ;các ông cho rằng, xã hội loài
người đã và sẽ tuần tự trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến
cao, trong đó hình thái kinh tế - xã hội CSCN là hình thái cuối cùng,tiến
bộ nhất trong lịch sử loài người. Sự chuyển tiếp giữa các hình thái kinh
tế - xã hội chính là thời kỳ quá độ.
Quan niệm của về 2 giai đoạn của hình thái kinh tế - xã hội CSCN:
giai đoạn thấp tương ứng với CNXH hay xã hội XHCN; giai đoạn cao là
chủ nghĩa cộng sản hay xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản có
một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia,một TKQĐvề
chính trị, chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản, và đó là “những
cơn đau đẻ kéo dài”.
Nghiên cứu và vận dụng lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin phân chia quá trình hình thành và phát triển của CNCS thành 3
giai đoạn:


+ Giai đoạn “những cơn đau đẻ kéo dài”, tức “thời kỳ quá độ” từ chủ
nghĩa tư bản đi lên CNXH
+ Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, hay còn gọi là giai đoạn
thấp, tương ứng là xã hội XHCN;
+ Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa, chính là xã hội cộng sản
chủ nghĩa (hay chủ nghĩa cộng sản) đã ở mức độ hoàn bị đúng bản chất
của nó.
Như vậy,“thời kỳ quá độ” là một giai đoạn độc lập, có vị trí riêng biệt
nằm giữa chủ nghĩa tư bản và CNXH, nó chưa phải là CNXH và cũng
không nằm ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Đây là một nhận

thức quan trọng trong cả lý luận và thực tiễn, cho phép những người
cộng sản xác định được đặc điểm, nội dung và nhiệm vụ, mục đích của
TKQĐ cũng như các giai đoạn tiếp theo sau TKQĐ.
- Các kiểu quá độ:
V.I.Lênin luận giải hai hình thức quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên
CNXH:
+ Quá độ trực tiếp từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ
nghĩa xã hội. Hình thức quá độ này phản ánh quy luật tuần tự của xã hội
loài người.
+ Quá độ gián tiếp từ các nước tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa
xã hội.Hình thức quá độ này phản ánh sự nhảy vọt của xã hội loài người
Cả hai hình thức này trong TKQĐ đều đan xen “những mảnh”,
“những yếu tố” của xã hội mới và xã hội cũ. Những yếu tố mới, tiến bộ
còn non trẻ và đang phát triển, những yếu tố cũ đã lạc hậu, yếu ớt cố
giành lại ảnh hưởng trong lòng xã hội mới,tạo ra một thời kỳ đấu tranh
lâu dài giữa những yếu tố cũ và mới. Riêng hình thức thứ hai thì TKQĐ
sẽ khá dài, phải trải qua nhiều bước đi thích hợp với một khối lượng
công việc lớn bao gồm những nội dung cơ bản của TKQĐ từ chủ nghĩa
tư bản lên CNXH và đồng thời phải đạt được những thành tựu căn bản
của chủ nghĩa tư bản. Điều này được V.I.Lênin ví như việc “bắc những
nhịp cầu nho nhỏ” để từng bước xây dựng CNXH.
II.2. Nội dung của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Trong lĩnh vực kinh tế


Nội dung cơ bản trong lĩnh vực kinh tế của thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thực hiện việc sắp xếp,bố trí lại các lực lượng sản xuất
của xã hội ;cải tạo quan hệ sản xuất cũ,xây dựng quan hệ sản xuất mới
theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế đảm bảo phục vụ
ngày càng tốt đời sống của nhân dân lao động.

Việc sắp xếp,bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định
không thể theo ý muốn chủ quan nóng vội mà phải tuân theo tính tất yếu
khách quan của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lược sản xuất.
Vấn đề đặt ra đối với những nước chưa trải qua công nghiệp hóa
,hiện đại hóa tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa nhằm tạo ra cơ sở vật chất ,kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ trọng tâm của các nước này là phải tiến hành công nghiệp hóa
hiện đại hóa nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Qúa trình này
điễn ra ở các nước khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau phải
được tiến hành với những nội dung cụ thể ,hình thức và bước đi khác
nhau.
- Trong lĩnh vực chính trị
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch,chống phá
sự nghiệp chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng,củng cố nhà nước và nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh ,bảo đảm quyền làm chủ
trong hoạt động kinh tế ,chính trị,văn hóa ,xã hội của nhân dân lao động ;
xây dựng các tổ chức chính trị-xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân lao động; xây dựng đảng cộng sản ngày càng trong
sạch,vững mạnh,ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kì lịch sử.
- Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư tưởng-văn hóa của thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện tuyên truyền ,phổ biến những tư tưởng
khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội ; khắc
phục những tư tưởng tâm lí có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa,tiếp
thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.
- Trong lĩnh vực xã hội
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kì quá độ lên chủ

nghĩa xã hội là phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã


hội cũ để lại;từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng
miền,các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng
xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu
lí tưởng là sự tự do của người này là tiền đề cho sự tự do của người
khác.
III. Các đặc điểm của thời kỳ quá độ
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những
nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa
đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế- xã hội.
1. Kinh tế
Nền kinh tế trong thời kì này là nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại
trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Đây là bước qua độ
trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng CNXH.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH được
xác lập dựa trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu
về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen
hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau
trong đó hình thức phân phối lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là
hình thức phân phối chủ đạo.
Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất
hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản
xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo
đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định
không thể theo ý muốn nóng vội chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu

khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản
chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm
tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những
nước này, nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ phải là tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các
nước khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến
hành với những nội dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Đó


cũng là quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong việc xác định những nội
dung, hình thức và bước đi trong tiến trình công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Chính trị:
a. Nhân tố cũ đan xen nhân tố mới
Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch chống phá
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. - Xây dựng, củng cố nhà nước và
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm
chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao
động, xây dựng các tổ chức chính trị. - Xã hội thực sự là nơi thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng ngày càng trong
sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
b. Nhiều hệ tư tưởng chính trị trong xã hội
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng,
phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng
phức tạp.
Nói chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông
dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một

số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các
giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
3. Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng
và văn hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư
tưởng tư sản , tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông…. V.I.Lenin cho rằng tính tự
phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn
nhiều so với bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hóa cũng
tồn tại các yếu tố văn hóa cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với
nhau. Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị
đánh bại, không còn là giai cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ
nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân
đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống
xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn
ra trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế và tư tưởng- văn hóa
IV. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội


Để chuyển từ xã hội TBCN lên xã hội XHCN cần phải trải qua một
thời kỳ quá độ nhất định. Tính tất yếu của TKQĐ lên CNXH được lý giải
từ các căn cứ sau đây:
Một là, CNTB và CNXH khác nhau về bản chất. CNTB được xây
dựng trên cơ sở chế độ tư hữu TBCN về các tư liệu sản xuất; dựa trên
chế độ áp bức và bóc lột. Còn CNXH được xây dựng trên cơ sở chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới 2 hình thức là nhà
nước và tập thể; không còn các giai cấp đối kháng, không còn tình trạng
áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có một thời kỳ lịch sử
nhất định. ở chế độ TBCN công nhân bị áp bức bóc lột đủ điều họ không

được làm chủ tư liệu sản suất phải bán sức lao đông của mình cho nhà
tư bản, mà ở chế độ xã hội chủ nghĩa công nhân được có quyền lợi công
bằng hơn được làm chủ sức lao động của mình nên việc tến lên xã hội
chủ nghĩa là tất yếu.
Hai là, CNXH được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có
trình độ cao. Quá trình phát triển của CNTB đã tạo ra cơ sở vật chất – kỹ
thuật nhất định cho CNXH, nhưng muốn có cơ sở vật chất – kỹ thuật đó
cần phải có thời gian tổ chức, sắp xếp lại.
Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình CNH tiến lên CNXH
, TKQĐ cho việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH có thể kéo
dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành CNH XHCN.
Ba là, CNXH là sự phát triển của TBCN tạo ra CSVC cho XHCN phát
triển. Chủ nghĩa xã hội có cơ sở vật chất kỹ thuật là nền sản xuất công
nghiệp hiện đại. Với những nước đã qua chế độ tư bản chủ nghĩa, sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật nhất
định cho chủ nghĩa xã hội nhưng muốn cơ sở ấy phục vụ cho chủ nghĩa
xã hội cần có thời gian tổ chức, săp xếp lại. Với những nước bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội càng cần có một thời
gian lâu dài để thực hiện nhiệm vụ tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa.
Bốn là, công cuộc xây dựng CNXH là một công việc mới mẻ, khó
khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để GCCN từng bước làm quen
với những công việc đó. TKQĐ lên CNXH ở các nước có trình độ phát
triển kinh tế – xã hội khác nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian dài,
ngắn khác nhau. Đối vơi những nước đã trải qua CNTB phát triển ở trình
độ cao thì khi tiến lên CNXH, TKQĐ có thể tương đối ngắn. Những nước
đã trải qua giai đoạn phát triển CNTB ở mức độ trung bình, đặc biệt là
những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu
thì TKQĐ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.



Các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh
trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa, đó là kết quả của quá trình xây dựng
và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Dù sự phát triển của CNTB có ở mức cao đến
mấy thì cũng chỉ tạo ra tiền đề vật chất – kỹ thuật, điều kiện hình thành
các quan hệ xã hội mới- XHCN. Do vậy, cần phải có thời gian để xây
dựng, phát triển các quan hệ đó.
V. Vận dụng vào thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
1. Tính tất yếu tiến lên CNXH và điều kiện tiến lên CNXH bỏ qua TBCN ở
Việt Nam
1.1. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những
biến đổi to lớn và sâu sắc.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô (trước đây) và các
nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt,
từng là chỗ dựa cho phong trào hòa bình và cách mạng thế giới, góp
phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ
là một tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng,
tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục
phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước hồi
phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào
cộng sản và cánh tả vẫn còn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp
tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản
chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ
bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở
nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra.

Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh
của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa
tư bản.
Các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát triển, kém phát
triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo


nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc
lập, chủ quyền dân tộc.
Nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách
có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với
biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và
đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo... Việc giải quyết những vấn đề đó
đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia,
dân tộc.
Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước
với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp
tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc
đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng sẽ
có những bước tiến mới Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội
1.2. Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử, bởi:
Ở Việt Nam thời kỳ quá độ lên CNXH bắt đầu từ 1954 ở miền bắc và
từ 1975 trên phạm vi nhà nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân hoàn thành thắng lợi, đất nước hoàn toàn thống nhất đi lên
CNXH.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu khách quan đối với mọi quốc
gia xây dựng CNXH, dù xuất phát ở trình độ cao hay thấp.

Một là, phát triển theo con đường XHCN là phù hợp với quy luật
khách quan của lịch sử. Loài người đã trải qua các hình thái kinh tế- xã
hội: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa.
Sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên,
hình thái kinh tế- xã hội sau cao hơn hình thái xã hội trước và tuân theo
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Cho dù ngày nay, CNTB đang nắm ưu thế về vốn, khoa học, công
nghệ và thị trường nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn vốn
có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa tính chất xã hội
hóa ngày càng caocủa lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân


tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Sự phất triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất và xã hội hóa lao động làm cho các tiền đề vật chất, kinh
tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra
đời của xã hội mới - chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là
tương lai của loài người. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp
với xu thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt
Nam: cách mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết là giải phóng dân tộc,
giành độc lập, tự do, dân chủ... đồng thời nó là tiền đề để “ làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no, và sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp lôgíc cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt
để.

1.3. Khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN ở Việt Nam
Trước đây, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ với “đặc điểm
lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Khi cả
nước thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc điểm trên vẫn còn
tồn tại. Phân tích rõ hơn thực trạng kinh tế, chính trị của đất nước, trong
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến,
lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến
tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dý thực dân phong kiến còn
nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội
và nền độc lập của nhân dân ta”.
Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa” theo kiểu phủ định sạch trơn, đem đối lập chủ nghĩa xã hội
với chủ nghĩa tư bản, bỏ qua cả những cái “không thể bỏ qua” như đã
từng xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Vì vậy, báo cáo chính
trị tại Đại hội Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam đã nói rõ bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất


và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại”.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con
đường “rút ngắn” quá trình lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng “rút ngắn” không
phải là đốt cháy giai đoạn, duy ý chí, coi thường quy luật, như muốn xóa
bỏ nhanh sở hữu tư nhân và các thành phần kinh tế “phi chủ nghĩa xã
hội” hoặc coi nhẹ sản xuất hàng hóa,... Trái lại, phải tôn trọng quy luật

khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước,
tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thúc,
bước đi thích hợp. Phát triển theo con đường “rút ngắn” là phải biết kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở chủ nghĩa tư bản
không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả về quan hệ sản xuất, cơ sở kinh
tế và kiến trúc thượng tầng.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ
trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc
thực hiện hàng loạt các hình thức quá độ. Sự cần thiết khách quan và vai
trò tác dụng của hình thức kinh tế quá độ được Lênin phân tích sâu sắc
trong lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thực hiện các hình thức kinh
tế quá độ, các khâu trung gian... vừa có tác dụng phát triển nhanh chóng
lực lượng sản xuất, vừa cần thiết để chuyển từ các quan hệ tiền tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, nó là hình thúc vận dụng các quy luật kinh tế phù
hợp với điều kiện cụ thể.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ở nước ta tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là
quá trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có
tính chất quá độ”
1.4. Điều kiện quá độ lên CNXH bỏ qua CNTB
Phân tích tình hình đất nước và thời đại cho thấy mặc dù kinh tế còn
lạc hậu, nước ta vẫn có khả năng và tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
1.4.1. Về khả năng khách quan


Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như
vũ bão và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế trở thành tất yếu; nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc

phục những hạn chế của nước kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ
lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lí yếu kém ..., nhờ đó ta có thể
thực hiện “ con đường rút ngắn”.
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách
quan của loài người. Đi trong dòng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã,
đang và sẽ nhận được sự đồng tình, ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của loài
người, của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường
phát triển tiến bộ của mình.
1.4.2. Về những tiền đề chủ quan
Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù
và thông minh, trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân
lành nghề có hàng chục ngàn người ... là tiền đề rất quan trọng để tiếp
thu, sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới.
Nước ta có nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa lí thuận lợi và những cơ
sở vật chất - kĩ thuật đã được xây dựng là những yếu tố hết sức quan
trọng để tăng trưởng kinh tế. Những tiền đề vật chất trên tạo điều kiện
thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư, chuyển
giao công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lí tiên tiến của các nước phát
triển.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn phù hợp với nguyện vọng của đại
đa số nhân dân Việt Nam đã chiến đấu, hi sinh không chỉ vì độc lập dân
tộc mà còn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật
chất để vượt qua khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, một Đảng giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo, có đường lối
đúng đắn và gắn bó với nhân dân, có Nhà nước xã hội Chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân ngày càng được củng cố vững mạnh và khối đại đoàn
kết toàn dân, đó là những nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng bảo đảm
thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa.


1.5. Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới.

Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp
giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Tuy nhiên, chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản. Đó là: có sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh
đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt;
nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù lao động và sáng tạo,
luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng
bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển
kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc
tế là một thời cơ để phát triển.

Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng
xong về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc
thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở làm cho
nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh.
2. Những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại
2.1. Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta


2.1.1. Phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa
Ngày nay, cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội phải thể hiện
được những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ. Chỉ khi
lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ cao mới tạo ra được năng suất
lao động cao trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhờ đó những mục tiêu
và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mới được thực hiện ngày càng tốt
hơn trên thực tế.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khi đất
nước ta chưa có tiền đề về cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội
do chủ nghĩa tư bản tạo ra; do đó phát triển lực lượng sản xuất nói chung,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng trở thành nhiệm vụ trung tâm của
suốt thời kì quá độ. Nó có tính chất quyết định đối với thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Phát triển lực lượng lao động xã hội : trong lao động con người có
khả năng sử dụng và quản lý nền sản xuất xã hội hóa cao, với kĩ thuật và
công nghệ tiên tiến. bởi vậy: “muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có
những con người XHCN”
CNH, HĐH đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của con đường quá
độ đi lên CNXH ở những quốc gia có nền kinh tế kém phát triển. tuy
nhiên, chiến lược, nội dung, hình thức, bước đi, tốc độ, biện pháp ở mỗi

nước phải được xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước và bối
cảnh quốc tế trong từng thời kỳ
Chỉ có hoàn thành nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước mới có thể xây
dựng được cơ sở vật chất- kỹ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng suất
lao động đến mức chưa từng có để làm cho tình trạng dồi dào sản phẩm
trở thành phổ biến
2.1.2. Xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN
Phải từng bước xây dựng những quan hệ sản xuất mới phù hợp với
lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất mới
không thể chủ quan,duy ý mà phải tuân theo những quy luật khách quan
về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở những nước như nước ta, chế độ
sỏ hữu tất yếu phải đa dạng, cơ cấu nền kinh tế phải có nhiều thành


phần. đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược
lâu dài, có tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên
trong lần bên ngoài, lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển
lực lượng sản xuất. chỉ có thể cải tạo quan hệ sỏ hữu hiện nay một cách
dần dần, bởi không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay
lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu thuần
nhất một cách nhanh chóng
Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Xây dựng quan hệ sản xuất mới phải dựa trên kết quả của lực lượng
sản xuất
Quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ
chức quản lý và phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải
được xây dựng một cách đồng bộ cả ba mặt đó
Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất

mới theo định hướng XHCN là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực
lượng sản xuất , cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội
2.1.3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đứng trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự tác động của cách
mạng khoa học và công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là nền kinh
tế khép kín mà phải tích cực đẩy mạnh hoạt động ngoại giao. Chúng ta
“mở cửa” nền kinh tế, đa phương hóa quan hệ quốc tế nhằm thu hút các
nguồn lực phát triển từ bên ngoài, mở rộng phân công lao động quốc tế,
tăng cường lien doanh, liên kết…. nhờ đó , khai thác có hiệu quả nguồn
lực trong nước, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách
phát triển so với các nước khác. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải
dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau.
Muốn vậy, phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, tích cực
khai thác thị trường thế giới, tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực….
Tuy nhiên, phải xử lí đúng đắn mối qua hệ giữa mở rộng kinh tế quốc tế
với độc lập tự chủ, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc với kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại.
2.1.4. Giải pháp cho xây dựng, phát triển và hoàn thiện quan hệ sản xuất
mới theo định hướng XHCN


Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hướng CNXH là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời
sống nhân dân, phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân
dân, thực hiện công bằng xã hội. điều này cũng chính là mục đích của nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất: giải pháp cho vấn đề sở hữu đó là chế độ sở hữu công hữu về
tư liệu sản xuất sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi CNXH được xây dựng xong
về cơ bản. nhưng trước hết ta không thể xóa bỏ ngay lập tức sở hữu tư

nhân, thay vào đó là sử dụng lâu dài sở hữu tu nhân, hợp tác với các chế
độ khác để xây dựng CNXH.
Thứ hai: là giải pháp cho vấn đề quản lý: nhà nước ta là nhà nước XHCN,
quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, quản lý kinh tế thị trường để kích thích
sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc
phục mặt tiêu cực của kinh tế thị trường.

Thứ ba: giải pháp cho vấn đề phân phối:trước hết ta phải bảo vệ quyền lợi
chân chính của người lao động bằng cách khắc phục nạn thất nghiệp, tạo
công ăn việc làm cho người lao động.

2.2. Xây dựng nền văn hóa
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn
diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn
bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng
một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người,
với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát
triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và
biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp
kém, đấu tranh chống những biểu hiện phi văn hóa, phản văn hóa. Bảo
đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển
các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực,


đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc.
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ

quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc,
đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai
trò của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, gia đình, từng tập thể lao động và
cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu
lòng yêu nước; có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức
khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây
dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là
môi trường trực tiếp, quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân
cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn
luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả
cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con
người và nền văn hóa Việt Nam.
2.3. Xây dựng giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào
tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới toàn diện, mạnh mẽ giáo dục và đào tạo
theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo định hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều
kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
2.4. Lĩnh vực khoa học và công nghệ

Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc nâng cao trình độ
lãnh đạo - quản lý đất nước, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức,
vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội,

khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật gắn với phát triển văn hóa và nâng
cao dân trí. Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công


nghệ của đất nước. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích
sáng tạo và đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ.
2.5. Bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Kết hợp chặt chẽ giữa ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và
bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển “năng lượng sạch”, “sản xuất sạch”
và “tiêu dùng sạch”. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải
pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu. Bảo vệ và sử dụng hợp lý, có
hiệu quả tài nguyên quốc gia.
2.6. Xây dựng chính sách xã hội đúng đắn
Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ
phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về
ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa
vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập
thể và cộng đồng xã hội.
Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu
nhập tốt hơn. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với giảm nghèo bền
vững. Có chính sách điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Hoàn thiện hệ
thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có
công với nước. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của
thanh, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo đời sống những

người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi. Hạn chế,
tiến tới đẩy lùi và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý
và chất lượng dân số.
Hình thành một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng
lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Xây dựng giai
cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh
đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai
cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng, phát
huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông


nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng và sức
sáng tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất
nước. Xây dựng đội ngũ những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý
giỏi. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất
nước. Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định
cuộc sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành tốt pháp luật các nước sở
tại, hướng về quê hương, góp phần xây dựng đất nước.
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa
các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật
thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội
phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc
thiểu số.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo - nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân. Đấu tranh với mọi hành động vi phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích
của Tổ quốc và của nhân dân.

2.7. Quốc phòng và an ninh
Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định
chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn,
làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch
đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là
nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong
đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân
vững chắc. Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân
và lý luận, khoa học an ninh.
Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền
tảng của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng
cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc


phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng,
Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Xây dựng Quân đội nhân
dân với số quân thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên, dân quân
tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao. Xây dựng lực lượng Công an nhân
dân vững mạnh toàn diện; kết hợp lực lượng chuyên trách, nửa chuyên
trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc. Chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị,
chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo
đảm đời sống vật chất, tinh thần phù hợp với tính chất hoạt động của Quân

đội nhân dân và Công an nhân dân trong điều kiện mới. Xây dựng nền
công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang
được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại.
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản
lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội, Công an nhân dân
và sự nghiệp quốc phòng - an ninh.
2.8. Về đối ngoại
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân
tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào
sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới.
Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ
chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và
công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những
mục tiêu chung của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam mở rộng quan hệ
với các đảng cánh tả, các đảng cầm quyền trên thế giới trên cơ sở độc lập,
tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.


Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam
với nhân dân các nước trên thế giới.
Phấn đấu cùng các nước ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành khu vực
hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.
3. Một số thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng lên CNXH ở nước
ta.


Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991)
đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan
trọng. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết
để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
3.1 Về phát triển kinh tế
3.1.1 Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục
được những yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5
năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước
đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp
tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm,
trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất
khẩu tăng 28%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển
về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi
được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh
giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa
XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn
chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện
một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải
phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.



Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy
thoái. Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc
phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối
cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP
bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm;
nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản
lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với
giai đoạn 1986 - 1990. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng
trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững
chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát
triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan
trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu
vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt
nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam
vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn
1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công
nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2%. “Nếu tính
cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%.
So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần”.
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều
sâu, việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế
hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được
những kết quả nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo
hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân
7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%;
công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%. Riêng
quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8

nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người
khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của
các nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD). Từ một nước thiếu
ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt
Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt
Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt
hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…


×