Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

đề cương ôn tập cuối hki môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác lenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.15 KB, 35 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP CUỐI HKI MÔN
“NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LENIN”
NĂM HỌC 2018 - 2019
CÂU 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về Mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức.
1) Khái niệm:
- Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và t ồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù song song với phạm
trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con
người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
2) Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: đây là mối quan hệ biện chứng. Trong mối
quan hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quy ết
định ý thức, song ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
a. Vật chất quyết định ý thức
Vật chất là cái có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong bộ não con người. Vật chất quyết định nguồn gốc của ý
thức: không có sự tác động của thế giới khách quan vào trong bộ não người thì sẽ
không có ý thức. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não
người. Thế giới vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức. Vật chất quyết định nội
dung của ý thức: ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nội dung của ý
thức mang tính khách quan, do thế giới khách quan quy định. Vật chất quy ết định bản
chất của ý thức. Vật chất quyết định phương thức, kết cấu của ý thức.
Vd: (Tự tìm hiểu)
b. Sự tác động của ý thức
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Biểu hiện ở chỗ: ý thức trang bị cho con người sự hiểu biết về thế gi ới xung
quanh, giúp con người xác định mục tiêu, lựa chọn phương pháp cho hoạt động của
mình tạo nên ở con người tình cảm, niềm tin, ý chí, thôi thúc con người nỗ l ực hành


động để đạt được mục tiêu đề ra. Ý thức có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận động,
phát triên của những điều kiện vật chất ở những mức độ nhất định.
Nếu ý thức phản ánh phù hợp với hiện thực thì nó sẽ làm thúc đẩy sự phát triển của
các điều kiện vật chất. Nếu ý thức phản ánh không phù hợp với hiện thực thì nó sẽ kìm
hãm sự phát triển của các điều kiện vật chất. Song sự kìm hãm đó chỉ mang tính t ạm
thời, bởi vì sự vật vận động theo các quy luật khách quan vốn có của nó, nên nhất định
phải có ý thức tiến bộ, phù hợp, thay thế cho ý thức lạc hậu, không phù hợp.


Vd: (Tự tìm hiểu)
3) Ý nghĩa phương pháp luận:
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động, sáng tạo
của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật biện
chứng xây dựng nên nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối với hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó là: Trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng
thời phát huy tính năng động chủ quan. Theo nguyên tắc phương pháp luận này, mọi
hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người chỉ có thể đúng đắn, thành công và có
hiệu quả tối ưu khi và chỉ khi thực hiện đồng thời việc xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng khách quan với phát huy tính năng động chủ quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan
của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan, mà căn bản là tôn
trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò quy ết định của
đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi
trong nhận thức và hành động, con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác
định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy
thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ
chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng t ạo của
ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng

động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích c ực
học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng đề nó
trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt
khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách
mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và
tính nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong
nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý
chí; là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hi ện thực,
lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm đi ểm xuất phát cho chi ến l ược,
sách lược, V.V.. Mặt khác, cũng cần chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức
khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động, v.v. trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn.
4) Liên hệ thực tiễn: (Tự tìm hiểu)

CÂU 2: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về Phạm trù th ực tiễn.
1) Khái niệm:
- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.


2) Các hình thức cơ bản:
Ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và
hoạt động thực nghiệm khoa học.
- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn.
Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào
giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại
và phát triển của mình.
- Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác
nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội

phát triển.
- Thực nghiêm khoa học lả một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Đây là hoạt
động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống
hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác đinh những quy luật
biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này có vai trò quan
trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại.
2) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: thực tiễn có vai trò dặc biệt to lớn
đối với nhận thức, nó chính là cơ sở mục đích, động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn
kiểm tra chân lý.
+ Thực tiễn là cơ sở động lực của nhận thức vì xét đến cùng mọi tri thức của con người
đều có nguồn gốc từ thực tiễn do đó mà nói rằng thực tiễn là cơ sở của nhận thức.
Vd: (Tự tìm hiểu)
+ Chính thông qua hoạt động thực tiễn nó luôn nảy sinh nhu cầu mới thúc đẩy nhận
thức phát triển vì thế mà nói thực tiễn là động lực của nhận thức.
Vd: (Tự tìm hiểu)
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì xét đến cùng nhận thức là nhằm phục vụ
hoạt động thực tiễn và nâng cao hiệu quả thực tiễn.
Vd: (Tự tìm hiểu)
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý vì các tri thức của con người được khái quát,
tổng kết chưa chắc đã đúng do đó các tri thức ấy phải được ki ểm tra đối ch ứng trong
thực tiễn, nếu nó đúng thì nó là chân lý.
Vd: (Tự tìm hiểu)
3) Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong quá trình nhận thức phải luôn thấy rõ vai trò của hoạt động thực tiễn, không
được xa rời thực tiễn.


- Trong hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học phải kết hợp với hoạt động sản

xuất thực tiễn theo phương châm học đi đôi với hành thì học mới có hiệu quả.
4) Liên hệ thực tiễn: (Tự tìm hiểu)

CÂU 3: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về Sản xuất vật ch ất.
a) Sản xuất vật chất và phưong thức sản xuất

- Sản xuất vật chất là hoạt động khi con người sử dụng công cụ lao động tác động
(trực tiếp hay gián tiếp) vào đối tượng lao động nhằm cải biến các dạng vật chất của
tự nhiên, tạo ra của cải cần thiết mà các dạng vật chất trong tự nhiên không có để
thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển. Sản xuất vật chất có tính khách quan, tính xã
hội, tính lịch sử và tính sáng tạo. Bất kỳ một quá trình sản xuất nào cũng được tạo nên
từ ba yếu tố cơ bản là sức lao động của người lao động, tư liệu lao động và đối tượng
lao động.
- Phương thức sản xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người; cách thức mà con người
tiến hành sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định
và quan hệ sản xuất tương ứng. Mỗi phương thức sản xuất đều có yếu tố kỹ thuật và
kinh tế của mình; trong đó yếu tố kỹ thuật là thuật ngữ dùng để chỉ quá trình sản xuất
được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để tác động biến đổi các đối
tượng của quá trình đó; còn yếu tố kinh tế của phương thức sản xuất là thuật ngữ
dùng để chỉ quá trình sản xuất được tiến hành với những cách thức tổ chức kinh tế
nào. Hai yếu tố trên của phương thức sản xuất vận động theo hướng tách biệt và phụ
thuộc lẫn nhau tạo ra vai trò của phương thức sản xuất là quy định tính chất, kết cấu,
sự vận động và phát triển của xã hội.
b) Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
Sản xuất vật chất luôn giữ vai trò quy định sự tồn tại, phát triển của con người và xã
hội loài người; là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã
hội; là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người
- Mọi thành viên trong xã hội đều tiêu dùng (ăn, uống, ở, mặc v.v). Những thứ có sẵn
trong tự nhiên không thể thoả mãn mọi nhu cầu của con người, nên nó phải sản xuất

ra của cải vật chất. Sản xuất vật chất là yêu cầu khách quan cơ bản; là một hành động
lịch sử mà hiện nay cũng như hàng ngàn năm trước đây con người vẫn phải ti ến hành.
Cùng với việc cải biến giới tự nhiên, con người cũng cải biến chính bản thân mình và
cải biến cả các mối quan hệ giữa con người với nhau và chính việc cải biến đó làm cho
việc chinh phục giới tự nhiên đạt hiệu quả cao hơn.
- Xã hội loài người tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ sản xuất vật chất. Lịch
sử xã hội loài người, do vậy và trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.
- Sản xuất vật chất là cơ sở để hình thành nên các mối quan hệxãhội khác. Xã hội loài
người là một tổ chức vật chất và giữa các yếu tố cấu thành nó cũng có những ki ểu
quan hệ nhất định. Các quan hệ xã hội về nhà nước, chính trị, pháp quyền, đạo đức,
nghệ thuật, khoa học v.v (cái thứ hai) đều được hình thành và phát tri ển trên c ơ sở sản
xuất vật chất (cái thứ nhất) nhất định. Trong quá trình đó, con người đồng thời cũng
sản xuất ra và tái sản xuất ra những quan hệ xã hội của mình.
- Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tiến bộ xã hội.Sản xuất vật chất không ngừng được
các thế hệ người phát triển từ thấp đến cao. Mỗi khi phương thức sản xuất thay đ ổi,


quan hệ giữa người với người trong sản xuất cũng thay đổi; và do vậy, mọi mặt của đời
sống xã hội đều có sự thay đổi theo sự tiến bộ của phương thức sản xuất.
Vd: (Tự tìm hiểu)

CÂU 4: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về Hình thái kinh t ế xã

hội.

a. Khái niệm “hình thái kinh tế - xã hội"

- Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm hình thái
kinh tế - xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một ki ểu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực

lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất ấy.
b. Các giai đoạn của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
* Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa ra
đời sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, trải qua hai giai đoạn cơ bản phát
triển từ thấp đến cao
+ Giai đoạn thấp của xã hội cộng sản là giai đoạn mới được “thoát thai”, “lọt lòng” từ
chủ nghĩa tư bản, còn mang “dấu vết” của xã hội tư bản. Đây là thời kỳ quá độ về chính
trị, là thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong giai đoạn này, chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa mới đạt t ới gi ới hạn đảm
bảo cho xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối làm theo năng lực, hưởng theo lao động.
+ Giai đoạn cao của xã hội cộng sản là giai đoạn chủ nghĩa cộng sản đã được xây d ựng
hoàn toàn. Ở giai đoạn này con người không còn lệ thuộc phiến diện và cứng nhắc vào
phân công lao động xã hội; lao động trong giai đoạn này không chỉ là phương ti ện kiếm
sống mà nó trở thành nhu cầu của con người. Trình độ phát triển của xã hội cho phép
thực hiện nguyên tắc phân phối theo nhu cầu.
* Quan điểm của V.I.Lênin. V.I.Lênin đã phát triển và cụ thể hoá quan đi ểm phân kỳ
hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và Ph.Ăngghen. Ông gọi giai
đoạn thấp là xã hội xã hội chủ nghĩa (hay chủ nghĩa xã hội), giai đoạn cao là xã h ội
cộng sản chủ nghĩa (hay chủ nghĩa cộng sản). Đặc biệt, ông phát triển lý luận về thời
kỳ quá độ lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Theo đó, hình thái kinh t ế-xã
hội cộng sản chia làm ba giai đoạn cơ bản
+ Những cơn đau đẻ kéo dài (thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). V.I.Lênin m ột m ặt
thừa nhận quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về thời kỳ quá độ theo nghĩa rộng- từ
xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản- quá độ trực tiếp từ những nước tư bản
chủ nghĩa phát triển cao lên xã hội cộng sản. Mặt khác từ thực tiễn lịch sử, V.I.Lênin
còn nói đến hình thức quá độ đặc biệt, gián tiếp của các nước tư bản phát triển ở mức
trung bình và quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của nhiều nước vốn
là nước nông nghiệp lạc hậu, các nước tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội (quá độ đặc
biệt của đặc biệt);

+ Xã hội xã hội chủ nghĩa- giai đoạn đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản;
+ Xã hội cộng sản chủ nghĩa- giai đoạn cao của hình thái kinh tế-xã hôi cộng sản.
c. Các yếu tố cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội:


Một là, các lực lượng sản xuất của xã hội ở một trình độ phát triển nhất định, đóng vai
trò là cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội đó.
Hai là, hệ thống quan hệ sản xuất được hình thành trên cơ sở thực trạng phát triển
của lực lượng sản xuất, đóng vai trò là hình thức kinh tế của các lực lượng sản xuất đó;
những quan hệ sản xuất này hợp thành một cơ cấu kinh tế của xã hội, đóng vai trò là
cơ sở hạ tầng kinh tế của việc xác lập trên đó một kiến trúc thượng tầng nhất định.
Ba là, hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở hạ tầng kinh tế, đóng vai
trò là các hình thức chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hoá.... của các quan h ệ s ản xu ất
của xã hội.
d. Liên hệ thực tế: (Tự tìm hiểu)

CÂU 5: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về Con người.
a) Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng
giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người
chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên là một trong những phương diện cơ
bản của con người, loài người. Do vậy, việc nghiên cứu, khám phá khoa học về c ấu tạo
tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan trọng để con
người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong mọi
hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại.
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của gi ới t ự
nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về

sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là
thân thể vô cơ của con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của
quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con
người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất gi ữa con người và gi ới tự
nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động
trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ
biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự
nhiên.
Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang
đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan
hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân t ộc,
nhân loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác c ủa bản
tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
- Bản tính xã hội của con người được phân tích lừ các gíac độ sau đây:


Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người không phải chỉ có nguồn gốc từ
sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà
trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả
năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là m ột trong
những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhờ đó có thể hoàn chỉnh học thuy ết
về nguồn gốc của loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải
đáp đúng đắn và đầy đủ.
Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi
phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người
cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là ti ền đề
cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xà hội thì mỗi con người chỉ t ồn t ại v ới
tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy đủ ý nghĩa
của nó.

Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất, quy
định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt
động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nêu lý
giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc
chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ
dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
b) Bản chất của con người
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, "bản
tính người" của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những
quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phâm Luận c ương về
Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó và xác lập quan niệm mới
của mình "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ
xã hội".
Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là đã trừu tượng hóa,
tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, thường xem nhẹ việc lý giải con
người từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về căn bản chỉ thấy bản tính tự
nhiên của con người. Khác với quan niệm đó, quan niệm duy vật bi ện chứng về con
người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người t ừ
giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện bản tính xã hội của nó.
Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con
người với tư cách "người", phân biệt con người với các tồn tại khác của gi ới tự nhiên.
Như vậy, có thể định nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là thực thể tự
nhiên mang đặc tính xã hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính
hiện thực của nó, chính là "tổng hòa những quan hệ xã hội", bởi vì xã hội chính là xã hội
của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt
kinh tế, chính trị, văn hóa,...
Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình
thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần
phải được tiếp cận từ giác độ phân tích vả lý giái sự hình thành và phát tri ển c ủa

những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử. Xét từ giác độ nhân chủng học, tức phương
diện bản tính tự nhiên, người da đen" vẫn chỉ là người da đen, nhưng chỉ trong quan hệ


kinh tế - chính trị của xã hội chiếm hữu nô lệ anh ta mới bị biến thành "người nô lệ",
còn trong quan hệ kinh tế - chính trị xã hội chủ nghĩa, anh ta là "người tự do”, làm chủ
và sáng tạo lịch sử. Như thế không có một bản chất nô lệ cố hữu và bất biến của người
da đen hay da trắng, nó là sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế, chính trị - xã
hội trong những điều kiện lịch sử xác định, khi những quan hệ này thay đổi thì cũng
tạo sự thay đổi bản chất của con người. Vì vậy, giải phóng bản chất con người cần
phải hướng vào sự giài phóng những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nó,
thông qua đó có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người.
Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều ki ện hoàn
cảnh lịch sử nhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải đúng đắn về
khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế về năng lực sáng tạo lịch sử của
những con người tiểu nông không thể lý giải từ bản tính tự nhiên của họ, trái lại cần
phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển của các quan hệ kinh
tế, chính tri, văn hóa của xã hội tiểu nông. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất
xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực
nào thì con nguời lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng
của mối quan hệ giữa con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và
đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sừ đó. Từ đó có thể thấy, hạn chế cơ bản của
quan niệm duy vật siêu hình về bản chất của con người chính là ở chỗ chỉ nhận thấy
tính quyết định của hoàn cảnh lịch sử đối với con người mà không nhận thấy mối quan
hệ sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải
tạo bản thân nó. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho r ằng con
người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuy ết ấy quên rằng
chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải
được giáo dục". Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng:
"Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển

dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải
do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì
điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược
lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con
người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu".
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua
hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu
sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính
nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, có thể rút ra
một số ý nghĩa phương pháp luận quan trọng sau đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ dơn
thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết
định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quuan hệ kinh tế - xã hội
của nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng
tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con
người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển
của xã hội.


Ba là, sự nghiệp giải phóng con người nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó
phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xãhội. Trên ý nghĩa
phương pháp luận đó, có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội
áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Cuộc cách mạng
đó cũng thực hiện sự nshiệp giải phóng toán nhân loại bane phương thức xây dựng
mối quan hệ kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhằm xác lập và
phát triển một xã hội mà tự do và sáng tạo của người này trở thành điều ki ện cho t ự do
và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao

đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: "mỗi người vì mọi người,mọi người vì mỗi người".
Vd: (Tự tìm hiểu)

CÂU 6: Học thuyết kinh tế Mác về Sản xuất hàng hóa
a. Khái niệm: Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính
trị Marx-Lenin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản
xuất ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất
ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua
bán. Hay nói một cách khác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm
sản xuất ra là để bán.
b. Sản xuất hàng hóa ra đời, tồn tại dựa trên hai điều kiện:
* Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội tức là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã
hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Phân công lao động xã hội là
cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì
sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Khi có
phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm
nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ phải có nhiều loại sản phẩm khác
nhau, do đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao đổi với nhau. Phân công
lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm cho năng suất lao động tăng
lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm.
* Sự tách biệt kinh tế
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất tức là những người
sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm
làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn tiêu dùng sản
phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư hữu tư liệu sản xuất quy định.
Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá
nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Cụ thể, sản xuất hàng

hoá ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ.


Hai điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho những người sản
xuất phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người
sản xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn. Mâu thuẫn
này được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Đó là hai điều
kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa.
Cả hai điều kiện không được thiếu một điều nào, thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ
không có sản xuất hàng hóa.
c. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
Thứ nhất, sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán, không phải để người
sản xuất ra nó tiêu dùng.
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính chất tư nhân, vừa mang
tính xã hội. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống
của khủng hoảng trong kinh tế hàng hóa.
Thứ ba, mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ không phải là giá trị
sử dụng.
d. Ưu thế của sản xuất hàng hóa
Một là, sự phát triển sản xuất hàng hóa làm cho phân công lao động xã hội ngày càng
sâu sắc, chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng tăng, mối liên hệ gi ữa các ngành, các
vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó, nó xóa bó tính tự cấp, tự túc, bảo thủ, trì tr ệ của nền
kinh tế, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất và lao động.
Hai là, tính tách biệt về kinh tế đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải năng động trong
sản xuất - kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Muốn vậy, họ phải ra sức cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến quy trình, mẫu mã
hàng hóa, tổ chức tốt quá trình tiêu thụ... Từ đó làm tăng năng suất lao động xã hội,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ba là, sản xuất hàng hóa quy mô lớn có ưu thế so với sản xuất tự cấp tự túc về quy mô,
trình độ kỹ thuật, Công nghệ, về khả năng thỏa mãn nhu cầu... Vì vậy, sản xuất hàng

hóa quy mô lớn là hình thức tổ chức kinh tế xã hội hiện đại phù hợp với xu thế thời đại
ngày nay.
Bốn là, sản xuất hàng hóa là mô hình kinh tế mở, thúc đẩy giao lưu kinh tế, giao lưu
văn hóa, tạo điều kiện nâng cao, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hóa cũng có những
mặt trái của nó như phân hóa giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, ti ềm
ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá hoại môi trường sinh thái, v.v..
Vd: (Tự tìm hiểu)


CÂU 7: Học thuyết kinh tế Mác về Tiền công
1) Khái niệm
- Tiền công lao động hay tiền công là khái niệm của kinh tế chính trị Marx-Lenin, biểu
hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động và là giá cả của hàng hóa sức lao động.
Theo Mác, có thể dễ có sự lầm tưởng, trong xã hội tư bản, tiền công là giá cả của lao
động vì nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để sản
xuất ra hàng hóa và tiền công được trả theo thời gian lao động(giờ, ngày, tuần, tháng...),
hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được. Tuy nhiên, cái mà nhà tư bản mua của
công nhân không phải là lao động, mà là sức lao động. Ti ền công không phải là giá tr ị
hay giá cả của lao động, mà chỉ là giá trị hay giá cả của hàng hóa sức lao động.
2) Hai hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản
- Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công tính theo thời gian lao động của
công nhân dài hay ngắn (giờ, ngày, tuần, tháng).
- Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công tính theo số lượng sản phẩm đã
làm ra, hoặc số lượng công việc đã hoàn thành trong một thời gian nhất định.
Mỗi một sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định, gọi là đơn giá tiền công.
Để quy định đơn giá tiền công, người ta lấy tiền công trung bình một ngày của một
công nhân chia cho số lượng sản phẩm của một công nhân sản xuất ra trong một ngày
lao động bình thường.
Tiền công tính theo sản phẩm, một mặt, giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý, giám

sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn, mặt khác, kích thích công nhân lao
động tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để thu được lượng tiền công cao
hơn.
Vd: (Tự tìm hiểu)
3) Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
- Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động
của mình cho nhà tư bản.
- Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tư liệu tiêu
dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.
- Tiền công danh nghĩa là giá cả hàng hóa sức lao động. nó có thể tăng lên hay gi ảm
xuống tuỳ theo sự biến động trong quan hệ cung - cầu về hàng hóa sức lao động trên
thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên,
nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hay giảm xuống thì tiền công thực tế
giảm xuống hay tăng lên.
Vd: (Tự tìm hiểu)


CÂU 8: Vai trò, hạn chế xu hướng vận động của chủ nghĩa t ư bản
ngày nay
a. Vai trò:
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn: chủ nghĩa t ư b ản c ạnh tranh t ự do và
chủ nghĩa tư bản độc quyền, mà nấc thang tột cùng của nó là ch ủ nghĩa t ư b ản đ ộc
quyền nhà nước
Trong suốt quá trình phát triển, nếu chưa xét đến hậu quả nghiêm trọng đã gây ra đ ối
với loài người thì chủ nghĩa tư bản cũng có những đóng góp tích c ực đ ối v ới phát tri ển
sản xuất. Đó là:
- Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng loài người khỏi "đêm tr ường trung c ổ"
của xã hội phong kiến; đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự túc, t ự cấp chuy ển sang
phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa; chuy ển sản xuất nh ỏ thành s ản xu ất l ớn
hiện đại.

- Phát triển lực lượng sản xuất.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho l ực l ượng s ản xuất phát tri ển
mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thu ật th ủ công lên kỹ
thuật cơ khí (thời kỳ của C.Mác va V.I.Lênin) và ngày nay các n ước t ư b ản ch ủ nghĩa
cũng đang là những quốc gia đi đầu trong vi ệc chuyển n ền sản xuất c ủa nhân loại t ừ
giai đoạn cơ khí hóa sang giai đoạn tự động hóa, tin học hóa và công ngh ệ hi ện đ ại.
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ là quá trình gi ải phóng s ức lao đ ộng,
nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục thiên nhiên c ủa con người, đ ưa n ền kinh t ế
của nhân loại bước vào một thời đại mới: thời đại của kinh tế tri thức.
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất
Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển m ạnh và đ ạt t ới m ức
điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa s ản xu ất c ả chi ều r ộng
và chiều sâu. Đó là sự phát trển của phân công lao động xã h ội, s ản xu ất t ập trung v ới
quy mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu s ắc, m ối liên h ệ kinh
tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực ngày càng ch ặt chẽ,... làm cho các quá trình
sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc l ẫn nhau thành m ột h ệ th ống,
thành một quá trình sản xuất xã hội.
- Chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng công nghi ệp đã lần đ ầu tiên bi ết t ổ
chức lao động theo kiểu công xưởng, do đó đã xây d ựng được tác phong công nghi ệp
cho người lao động, làm thay đổi nền nếp, thói quen c ủa người lao đ ộng s ản xu ất nh ỏ
trong xã hội phong kiến.
- Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập nên nền dân ch ủ t ư s ản, n ền
dân chủ này tuy chưa phải là hoàn hào, song so v ới th ể ch ế chính tr ị trong các xã h ội
phong kiến, nô lệ, vẫn tiến bộ hơn rất nhiều bởi vì nó được xây d ựng trên c ơ sở th ừa
nhận quyền tự đo thân thể của cá nhân.


Tóm lại, chủ nghĩa tư bản ngày nay với những thành t ựu và đóng góp c ủa nó đ ối v ới s ự
phát triển của nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị tốt nhất nh ững đi ều ki ện, ti ền đ ề
cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế gi ới. Nh ưng b ước chuy ển t ừ

chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn phải thông qua các cuộc cách m ạng xã h ội.
Dĩ nhiên, cuộc cách mạng xã hội sẽ diễn ra bằng phương pháp nào - hòa bình hay b ạo
lực, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng nước và
bối cảnh quốc tế chung từng thời điểm, vào sự lựa chọn của các lực lượng cách mạng.
b. Hạn chế:
Bên cạnh đóng góp tích cực nói trên, chủ nghĩa tư bản cũng có những hạn chế về mặt
lịch sử. Nhưng hạn chế này được C.Mác và V.I.Lênin đề cập ngay từ trong lịch sử ra đời
tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản
- Trước hết, về lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản: như Mác đã phân tích chủ nghĩa tư
bản ra đời gắn liền với quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản. Thực chất,
đó là quá trình tích lũy tiền tệ nhờ vào những biện pháp ăn cướp, tước đoạt đối với
những người sản xuất hàng hóa nhỏ vả nông dân tự do: nhờ vào hoạt động buôn bán,
trao đổi không ngang giá qua đó mà thực hiện sự bóc lột, nô dịch đối với những n ước
lạc hậu. Về quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản. C.Mác cho r ằng, đó là
lịch sử đầy máu và bùn nhơ, không giống như một câu chuyện tình ca, nó được sử sách
ghi chép lại bằng những trang đẫm máu và lửa không bao giờ phai.
- Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột của nhà tư
bản đối với công nhân làm thuê. Mặc dù so với các hình thức bóc lột đã t ừng tồn t ại
trong lịch sử, bóc lột tư bản chủ nghĩa cũng đã là một sự tiến bộ, song theo sự phân tích
của C.Mác và V.I.Lênin thì chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chừng đó quan h ệ
bóc lột còn tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội vẫn là điều không tránh khỏi.
- Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường, thuộc địa và khu
vực ảnh hưởng đã để lại cho loài người những hậu quả nặng nề: hàng triệu người vô
tội đã bị giết hại, sức sản xụất của xã hội bị phá hủy, tốc độ phát triển kinh tế của thế
giới bị kéo lùi lại hàng chục năm.
- Chủ nghĩa tư bản sẽ phải chịu nách nhiệm chính trong việc tạo ra hố ngăn cách gi ữa
các nước giàu và các nước nghèo trên thế giới (thế kỷ XVIII chênh lệch về mức sống
giữa nước giàu nhất và nước nghèo nhất mới chỉ là 2,5 lần, hiện nay số chênh lệch ấy
là 250 lần).
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới thứ ba bị trì trệ, suy thoái. Đi ều này cũng

đã được Ngân hàng Thế giới khẳng định: ở châu Phi, Mỹ latinh... hàng trăm tri ệu người
đã nhận thấy, đi cùng với tăng trưởng là sự suy tàn về kinh tế, phát triển nhường chỗ
cho suy thoái, ở một vài nước Mỹ latinh, GNP theo đầu người hiện nay thấp hơn so v ới
10 năm trước đây. Ở nhiều nước châu Phi, nò còn thấp hơn cách đây 20 năm, "... m ột
thế giới mà trong đó 20 năm nay ở châu Phi, từ 9 năm nay ở Mỹ latinh mức sống không
ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vùng khác tiếp tục tăng lên đó là đi ều
hoàn toàn không thể chấp nhận được".


Các cường quốc tư bản độc quyền hàng mấy thế kỷ nay đã tăng cường vơ vét tài
nguyên, bóc lột nhân công các nước nghèo và tìm cách khống chế họ trong vòng phụ
thuộc thông qua các con đường xuất khẩu tư bản, viện trợ, cho vay... Kết quả là các
nước nghèo không những bị cạn kiệt về tài nguyên mà còn mắc nợ không trả được,
điển hình là các quốc gia ở châu Phi, Mỹ latinh. Ở Braxin, người ta tính ra riêng số lãi mà
Braxin phải trả trong năm 1988 bằng 288 triệu suất lương tối thiểu hay bằng khoản
xây nhà cho 30 triệu người, trong khi đó ước tính khoảng 2/3 dân Braxin thiếu ăn.

CÂU 9: Tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo trong ti ến trình xây
dựng XHCN
a) Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch s ử nhân lo ại và t ồn t ại ph ổ
biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua. Nói chung, b ất
cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ c ủa nó, cũng đ ều bao g ồm: ý th ức tôn
giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng những tín ng ưỡng t ương
ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng với những hoạt động mang tính ch ất nghi th ức
tín ngưỡng của nó.
b) Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn giáo
vẫn còn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu
sau:

-Nguyên nhân nhận thức
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn còn
nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa lý giải được,
trong khi đó trình độ dân trí lại vẫn chưa thực sự được nâng cao. Do đó, trước những
sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và
chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý gi ải
chúng từ sức mạnh của thần linh.
-Nguyên nhân kinh tế
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong đ ời
sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vẫn còn diễn ra,
sự cách biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư còn tồn tại
phổ biến. Do đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con
người, làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào
những lực lượng siêu nhiên.
-Nguyên nhân tâm lý


Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành niềm tin,
lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một số bộ phận đông đảo quần chúng nhân
dân qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và
trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị - xã
hội, song tôn giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của những biến đổi
kinh tế - xã hội mà nó phản ánh. Điều đó cho thấy, trong mối quan hệ gi ữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội, ý thức xã hội thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của
tồn tại xã hội, trong đó ý thức tôn giáo thường lại là yếu tố mang tính chất bền vững
nhất trong đời sống tinh thần của mỗi con người, của xã hội.
-

Nguyên nhân chính trị - xã hội


Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với chủ nghĩa xã hội, v ới
chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những giá trị
đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện... đáp ứng được nhu cầu của một
bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong một chừng mực nhất định, tôn giáo
có sức thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt khác, những
thế lực phản động lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự nghiệp xây
đựng chủ nghĩa xã hội.
-

Nguyên nhân văn hóa

Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng được
phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức độ nhất
định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi cá nhân trong
cộng đồng, về phương diện sinh hoạt văn hóa, tôn giáo thường được thực hiện dưới
hình thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo chuẩn mực đạo đức
phù hợp với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt văn hóa có tính ch ất tín
ngưỡng, tôn giáo ấy đã thu hút một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu
cầu văn hóa tinh thần, tình cảm của họ.
c) Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo
Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những vấn đề nảy
sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể và chuẩn
xác, có tính nguyên tắc với những phương thức sinh hoạt theo quan điểm của chủ
ngnĩa Mác - Lênin.
Một là, giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn
liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa Mác - Lênin và hệ tư
tưởng tôn giáo có sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu
cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn

giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Hai là, tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của m ột bộ phận nhân dân thì nhà
nước xã hội chủ nghĩa phải tôn trọng và bảo đảm quy ền t ự do tín ngưỡng và không tín


ngưỡng của mọi công nhân. Công dân có tôn giáo hay không có tôn giáo đ ều bình đ ẳng
trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, cần phát huy những giá trị tích
cực của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quy ền t ự do tín ng ưỡng và không
tín ngưỡng của công dân.
Ba là, thực hiện đoàn kei nhữnc người có tôn giáo với nh ững người không có tôn giáo,
đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết nhữne người theo tón giáo v ới nh ững ng ười không theo
lÔTv g,\Ằo, đoàtv líồt toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ đất n ước. Nghiêm c ấm m ọi hành
vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tử tưởng trong vấn đề tôn giáo. Mặt t ư t ưởng
thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Trong quá trình xây d ựng ch ủ nghĩa xã h ội, kh ắc
phục mặt này là việc làm thường xuyên, lâu dài. Mặt chính trị là s ự l ợi d ạng tôn giáo
của những phần tử phản động nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự nghi ệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh v ực tôn
giáo là nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quy ết, v ừa phải thậr tr ọng
và phải có sách
lược phù hợp với thực tế.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động của từng tôn giáo đối với đời
sống xã hội cũng khác nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các
lĩnh vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Do đó, c ần ph ải có quan đi ểm l ịch s ử cụ thể khi xem xét, đánh giá và giải quyết những vẩn đề liên quan đ ến tôn giáo. Ng ười
mácxít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình c ụ th ể - đó là đi ều mà V.I.Lênin đã t ừng
nhắc nhở khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa c ần phải có quan
điểm và phương thức ứng xử phù hợp với từng trường hợp c ụ th ể khi gi ải quy ết các
vấn đề tôn giáo.

d) Liên hệ thực tế: (Tự tìm hiểu)

CÂU 10: Dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong ti ến trình xây
dựng XHCN
a) Khái niệm dân tộc
Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
Thứ nhất, khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có nh ững m ối
liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung c ủa c ộng
đồng và trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so v ới nh ững c ộng đ ồng khác;
xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc; có kế thừa và phát tri ển hơn những nhân t ố t ộc ng ười
ở cộng đồng bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự giác của các thành viên trong cộng đồng
đó.


Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng ng ười ổn định, b ền v ững h ợp
thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, n ền kinh t ế thống nhất, qu ốc ng ữ
chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh chung trong quá trình d ựng
nước và giữ nước.
b) Hai xu hướng phát triển của dân tộc và vấn đề dân tộc trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội
Nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin đã phân
tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của nó:
Xu hướng thứ nhất: Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống
của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc
lập. Thực tế này đã diễn ra ở những quốc gia, khu vực có nhiều cộng đồng dân cư với
nguồn gốc tộc người khác nhau trong chủ nghĩa tư bản. Xu hướng này biểu hiện thành
phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc để tiến tới thành lập các quốc gia dân tộc
độc lập và có tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong xu
hướng đó, nhiều cộng đồng dân cư đã ý thức được rằng, chỉ trong cộng đồng dân tộc
độc lập họ mới có quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình.

Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia
muốn liên hiệp lại với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế,
văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng
giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân t ộc xích l ại gần nhau.
c) Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn
đề dân tộc
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc. Tất cả các dân t ộc,
dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao hay thấp đều có quy ền l ợi và
nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngôn ngữ
cho bất cứ dân tộc nào.
- Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quy ền tự quy ết định con
đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân t ộc mình. Quy ền dân t ộc t ự quy ết
bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc l ập (vì l ợi ích c ủa
các dân tộc, chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và quy ền t ự
nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản trong "Cương lĩnh dân tộc" c ủa V.I.Lênin. T ư t ưởng
này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và
phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
d) Liên hệ thực tế: (Tự tìm hiểu)


--------------------------------------------------------------------


ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP CUỐI HKI MÔN
“NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LENIN”
NĂM HỌC 2018 - 2019

CÂU 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về Mối quan hệ gi ữa v ật ch ất
và ý thức.
a. Khái niệm:
- Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem l ại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, ch ụp l ại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan của bộ óc con người và có
sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
b. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: đây là mối quan hệ biện chứng. Trong
mối quan hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là ngu ồn gốc của ý
thức, quyết định ý thức, song ý thức không hoàn toàn th ụ đ ộng mà nó có th ể tác
động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

 Vai trò của vật chất đối với ý thức:
- Vật chất là cái có trước, ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý thức, vật
chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
- Vật chất là tiền đề: nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát tri ển của ý th ức.
- Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó.
- Vật chất biến đổi ý thức biến đổi theo.
- Vật chất là điều kiện để biến ý thức thành hiện thực .
Vd: (Tự tìm hiểu)

 Vai trò của ý thức đối với vật chất:
- Ý thức có thể tác động lại vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nhờ có ý thức con người nhận thức được quy luật vận động, phát tri ển
của thế giới khách quan.
- Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:


+ Tiêu cực: ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát tri ển của v ật

chất khi ý thức phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy lu ật vận đ ộng khách
quan của vật chất.
+Tích cực: ý thức có thể trở thành động lực cho sự phát tri ển của vật chất.
Vd: (Tự tìm hiểu)
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Chủ nghĩ duy vật biện chứng khẳng định: vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, song ý thức có thể tác động tr ở l ại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy con người phải tôn tr ọng tính
khách quan, đồng thời phát huy tính năng động, chủ quan của mình. N ếu không
tôn trọng tính khách quan sẽ dẫn đến bệnh chủ quan.
- Ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi
phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có
thể làm cho con người hoạt động sai và thất học khi con người phản ánh sai thế
giới khách quan. Nếu quá coi trọng tính khách quan sẽ dẫn đến bệnh chủ quan.
CÂU 2: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về Phạm trù thực tiễn.
a. Khái niệm:
- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính l ịch s ử - xã h ội
của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
b. Các hình thức cơ bản:
- Ba hình thức cơ bản là:
+ Hoạt động sản xuất vật chất.
+ Hoạt động chính trị - xã hội.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học.
c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: thực ti ễn có vai trò d ặc
biệt to lớn đối với nhận thức, nó chính là cơ sở mục đích, động lực của nhận
thức, là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.


+ Thực tiễn là cơ sở động lực của nhận thức vì xét đến cùng mọi tri th ức c ủa

con người đều có nguồn gốc từ thực tiễn do đó mà nói rằng th ực ti ễn là c ơ s ở
của nhận thức.
Vd: (Tự tìm hiểu)
+ Chính thông qua hoạt động thực tiễn nó luôn n ảy sinh nhu c ầu m ới thúc đ ẩy
nhận thức phát triển vì thế mà nói thực tiễn là động lực của nhận thức.
Vd: (Tự tìm hiểu)
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì xét đến cùng nhận th ức là nh ằm
phục vụ hoạt động thực tiễn và nâng cao hiệu quả thực tiễn.
Vd: (Tự tìm hiểu)
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý vì các tri th ức của con người được
khái quát, tổng kết chưa chắc đã đúng do đó các tri th ức ấy ph ải được ki ểm tra
đối chứng trong thực tiễn, nếu nó đúng thì nó là chân lý.
Vd: (Tự tìm hiểu)
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong quá trình nhận thức phải luôn thấy rõ vai trò của hoạt động th ực ti ễn,
không được xa rời thực tiễn.
- Trong hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học phải kết h ợp v ới ho ạt đ ộng
sản xuất thực tiễn theo phương châm học đi đôi với hành thì h ọc mới có hi ệu
quả.

CÂU 3: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về Sản xuất vật chất.
a. Sản xuất vật chất và phưong thức sản xuất:
- SXVC là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên ,
cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên, nhằm tạo ra của cải vật chất để
thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
- Bất cứ 1 quá trình SXVC nào cũng được tiến hành với mục đích nhất định và được
tiến hành theo những cách thức xác định. Cách thức tiến hành là PTSX.
- Mỗi PTSX đều có hai phương diện cơ bản kỹ thuật và kinh tế:



+ Phương diện kỹ thuật của PTSX chỉ ra quá trình sản xuất được tiến hành
bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để làm biến đổi các đối tượng của quá
trình đó sản xuất.
+ Phương diện kinh tế của PTSX chỉ quá trình sản xuất được tiến hành với
những cách thức tổ chức kinh tế nào.
⇒ Hai yếu tố trên của phương thức sản xuất vận động theo hướng tách bi ệt và
phụ thuộc lẫn nhau tạo ra vai trò của PTSX là quy định tính chất, kết cấu, sự vận
động

phát
triển
của

hội.
b. Vai trò của SXVC đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội:
- SXVC có vai trò:
+ Là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và XH.
+ Là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của XH loài người.
+ Là điều kiện quyết định cho con người cải biến tự nhiên, XH và chính bản
thân con người.
- PTSX có vai trò quyết định đối với trình độ phát triển của nền sx XH và do đó quyết
định đối với trình độ phát triển của đời sống XH nói chung, sự thay thế và phát triển
của PTSX phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển XH loài
người từ trình độ thấp đến trình độ ngày càng cao hơn.
Vd: (Tự tìm hiểu)

CÂU 4: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về hình thái kinh tế xã hội.
a. Khái niệm “hình thái kinh tế - xã hội":
- Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn l ịch s ử
nhất định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ

nhất định của LLSX và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy.
b. Các yếu tố cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội:
- Một là, các LLSX của xã hội ở một trình độ phát tri ển nhất định, đóng vai trò là
cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội đó.
- Hai là, hệ thống QHSX được hình thành trên cơ sở thực trạng phát triển của
LLSX, đóng vai trò là hình thức kinh tế của các LLSX đó; những QHSX này hợp


thành một cơ cấu kinh tế của xã hội, đóng vai trò là cơ s ở hạ tầng kinh t ế của
việc xác lập trên đó một kiến trúc thượng tầng nhất định.
- Ba là, hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác l ập trên c ơ s ở hạ tầng kinh t ế,
đóng vai trò là các hình thức chính trị, pháp luật, đ ạo đức, văn hoá.... c ủa các
QHSX của xã hội.
c. Quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội:
- Sự vận động và phát triển của XH không tuân theo ý chí chủ quan c ủa con
người mà tuân theo các quy luật khách quan. Cơ bản nh ất là quy lu ật QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX và quy luật ki ến trúc th ượng tầng phù h ợp
với cơ sở hạ tầng.
- Nguồn gốc sâu xa của quá trình phát tri ển lịch sử tự nhiên của XH chính là s ự
phát triển khách quan của LLSX.
- Sự phát triển của lịch sử XH loài người có thể do sự tác động của nhi ều nhân tố
chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác đ ộng c ủa các quy
luật khách quan.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
- SXVC chính là cơ sở của đời sống XH, PTSX không thể xuất phát từ ý th ức, tư
tưởng hoặc tư tưởng chủ quan của con người để giải thích các hi ện tượng trong
đời sống XH, phải xuất phát từ thực trạng phát triển của n ền sx XH, đ ặc bi ệt là
từ trình độ phát triển của PTSX của XH với cốt lõi của nó là trình đ ộ phát tri ển
của LLSX.

- Các phương diện của đời sống XH tồn tại trong một hệ th ống cấu trúc th ống
nhất chặt chẽ tác động qua lại lẫn nhau, trong đó QHSX đóng vai trò là quan h ệ
cơ bản nhất, quyết định QHXH là tiêu chuẩn khách quan đ ể phân bi ệt các ch ế
độ XH khác nhau. Vì vậy, để lý giải chính xác đ ời s ống XH c ần ph ải s ử d ụng
phương pháp luận trừu tượng hóa KH – là phải xuất phát từ QHSX hiện th ực của
XH.
- Sự vận động và phát triển của XH là: quá trình lịch s ử - tự nhiên, mu ốn nh ận
thức và giải quyết đúng đắn có hiệu quả những vấn đề của đ ời sống XH phải đi
nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của XH.

CÂU 5: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về Con người.
a. Khái niệm con người:


Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có s ự th ống nh ất bi ện
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
- Bản tính tự nhiên:
+ Con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát tri ển lâu dài c ủa gi ới t ự
nhiên.
+ Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng th ời gi ới tự nhiên cũng
"là thân thể vô cơ của con người".

- Bản tính xã hội:
+ Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người không ph ải ch ỉ có
nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có ngu ồn
gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân t ố lao đ ộng. Chính nh ờ
lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để ti ến hóa và phát
triển thành người.
+ Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát tri ển, thì sự tồn tại của loài người luôn
luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội bi ến đổi thì

mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát tri ển của mỗi
cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
⇒ Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính th ống
nhất, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm bi ến đổi l ẫn nhau, nh ờ đó tạo
nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch s ử
của chính nó.
b. Bản chất của con người:
Theo C.Mác "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội".
- Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là đã tr ừu t ượng
hóa, tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, thường xem nhẹ vi ệc lý
giải con người từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về căn bản ch ỉ th ấy
bản tính tự nhiên của con người. Khác với quan niệm đó, quan niệm duy v ật
biện chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người
còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ l ịch sử xã h ội, từ đó phát hi ện b ản
tính xã hội của nó.


- Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất
của con người với tư cách "người", phân biệt con người v ới các tồn tại khác c ủa
giới tự nhiên. Như vậy, có thể định nghĩa con người là một thực thể tự nhiên
nhưng đó là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội. Vậy, bản ch ất của con
người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó, chính là "tổng hòa nh ững
quan hệ xã hội", bởi vì xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ
toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính tr ị, văn
hóa,...
- Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì s ự
hình thành và phát triển của con người cùng những kh ả năng sáng t ạo l ịch s ử
của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích vả lý giái sự hình thành và

phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch s ử, khi những quan hệ
này thay đổi thì cũng tạo sự thay đổi bản chất của con ng ười. Vì v ậy, gi ải phóng
bản chất con người cần phải hướng vào sự giài phóng những quan hệ kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội của nó, thông qua đó có th ể phát huy kh ả năng sáng t ạo
lịch sử của con người.
- Không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều ki ện hoàn
cảnh lịch sử nhất định. Con người là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra
con người trong chừng mực nào thì con nguời lại cũng sáng tạo ra l ịch s ử trong
chừng mực đó.
- Với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực ti ễn, thông qua
hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải bi ến gi ới tự nhiên theo
nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng th ời con ng ười cũng sáng t ạo ra
lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.

c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không th ể
chỉ dơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có
tính quyết định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ nh ững quuan
hệ kinh tế - xã hội của nó.
- Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực
sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng t ạo c ủa m ỗi con
người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy s ự
tiến bộ và phát triển của xã hội.


×