Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp - Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.79 KB, 67 trang )

TRƯỜNG HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
---------

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG XANH
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Lớp
Khoa

: TH.SNGUYỄNBÍCH NGÂN
: PHẠM ĐÌNH NHẤT
: 17A4000407
: K17 NHG
: NGÂN HÀNG

HÀ NỘI - 2018
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy, Cô trường
Học viện Ngân hàng trong thời gian qua đã giảng dạy, truyền đạt những kiến thức
quý báu và tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc
biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ThS. Nguyễn Bích Ngân, người đã tận
tình giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành tốt chuyên đề tốt
1


nghiệp này.


Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện song chuyên đề vẫn không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự phê bình, góp ý từ các thầy cô.
Hà Nội, ngày22 tháng 11 năm 2018
Sinh viên
PHẠM ĐÌNH NHẤT

2


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan bài chuyên đề này là công trình nghiên cứu của cá nhân,
được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, khảo sát tình hình thực tiễn và dưới
sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Bích Ngân. Các số liệu, thông tin trong chuyên đề
được cập nhật và trung thực với thực tiễn của các ngân hàng thương mại, các giải
pháp được đưa ra dựa trên thực tiễn và kinh nghiệm cá nhân.
Sinh viên

Phạm Đình Nhất

3


MỤC LỤC

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
1

2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

5

Kí hiệu
NH
NHTM
NHNN
KH
DN
DNVVN
TCTD
WB
ADB
IFC
SECO
GCTF
VEPF


Nguyên nghĩa
Ngân hàng
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà nước
Khách hàng
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tổ chức tín dụng
Ngân hàng Thế giới
Ngân hàng Phát triển Châu Á
Công ty Kiểm toán và Tư vấn tài chính quốc tế
Cục kinh tế Liên bang Thụy Sỹ
Quỹ Ủy thác tín dụng xanh
Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam


DANH MỤC BẢNG

6


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trong bối cảnh ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu ngày càng
diễn biến phức tạp và nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt, bởi vậy phát triển
bền vững được coi là vấn đề trọng tâm trong tăng trưởng kinh tế của các quốc gia nói
chung và Việt Nam nói riêng. Phát triển bền vững đòi hỏi trách nhiệm lớn hơn đối với
môi trường và xã hội, nhưng đồng thời cũng cung cấp những cơ hội kinh doanh mới.
Trong khi đó, ngành ngân hàng là một loại hình tổ chức trung gian tài chính quan trọng
nhất của xã hội, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của quốc gia, sự hoạt động

hiệu quả của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự hưng thịnh của nền kinh tế, việc gắn lợi
ích ngân hàng với lợi ích toàn xã hội đang ngày càng quan trọng đối với sự tồn tại của
ngân hàng. Bởi vậy các ngân hàng thương mại có thể giảm thiểu rủi ro và nắm bắt cơ
hội kinh doanh mới trong các lĩnh vực liên quan đến môi trường và xã hội như tiết
kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo… thông qua việc khuyến khích các doanh
nghiệp, khách hàng áp dụng các thông lệ kinh doanh bền vững.
Trên thực tế, Chính phủ nhiều nước trên thế giới đã ban hành những chính
sách khuyến khích các ngân hàng có thái độ thích hợp với quản lí rủi ro môi trường
xã hội. Tuy nhiên ở Việt Nam, trách nhiệm xã hội của ngân hàng còn khá mới mẻ,
được hiểu theo nhiều cách khác nhau và đôi khi còn có những cách hiểu lệch lạc.
Hiện nay, các ngân hàng đang phát triển không ngừng với những hoạt động tín dụng
của mình nhưng việc thực hiện trách nhiệm môi trường xã hội vẫn còn chưa được
quan tâm nhiều.
Qua việc tìm hiểu nghiên cứu và tham khảo, em nhận thấy rằng hoạt động
“Tín dụng xanh” là một vấn đề hết sức cấp thiết mà các ngân hàng Việt Nam phải
quan tâm nếu muốn hoạt động kinh doanh của mình an toàn và phát triển bền vững.
Nhìn bối cảnh thực trạng hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thời gian qua thì việc
nghiên cứu một cách toàn diện và nghiêm túc vấn đề “Tín dụng xanh” lại càng có ý
nghĩa hơn nữa. Vì các lí do trên nên em đã chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy tăng
trưởng tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”.

7


2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là hệ thống các kiến thức về ngân hàng
thương mại, tín dụng xanh trong lĩnh vực ngân hàng. Trên cơ sở đó, tiến hành xem
xét thực trạng, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tín dụng xanh đối với hoạt động
kinh doanh ngân hàng. Từ đó, đưa ra một số giải pháp cũng như khuyến nghị nhằm
phát triển hoạt động cấp tín dụng xanh, tạo điều kiện phát triển mô hình doanh

nghiệp xanh cho định hướng tăng trưởng xanh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng xanh tại các NHTM Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: Trong đề tài này, giới hạn phạm vi nghiên cứu cụ thể
như sau:
+ Về không gian: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một số NHTM tại Việt Nam
+ Về thời gian: Đề tài tập trung đi vào nghiên cứu thực trạng hoạt động tín
dụng xanh tại Việt Nam trong những năm từ 2015 đến 2017.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận, các phương pháp được sử dụng trong quá trình
thực hiện đề tài bao gồm: phương pháp định tính, phương pháp định lượng, suy diễn
so sánh kết hợp với phương pháp thống kê từ đó đưa ra nhận xét và đánh giá các
vấn đề.
5. Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về NHTM và tín dụng xanh
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng xanh tại một số NHTM Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng xanh tại các NHTM
Việt Nam.

8


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHTM VÀ TÍN DỤNG XANH
1.1. NHTM VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1.1. Khái niệm, chức năng của NHTM
1.1.1.1.
Khái niệm


Theo Luật các TCTD năm 2010 (Số: 47/2010/QH12) : “NHTM là tổ chức tín
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận”
Còn theo PGS.TS Tô Kim Ngọc (2012): “NHTM là loại hình ngân hàng hoạt
động vì mục tiêu lợi nhuận thông qua việc kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ
yếu”
NHTM đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự
phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất
lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh
tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở
thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
Nói tóm lại, NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là
cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho
vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch
vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.1.1.2. Chức năng của NHTM
a) Chức năng trung gian tín dụng

Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là "cầu
nối" giữa người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động
các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, NHTM hình thành nên
quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Với chức năng này, NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò
là người cho vay. Với chức năng trung gian tín dụng NHTM đã góp phần tạo lợi ích
cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay, đồng thời
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.

9



Thứ nhất, đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn
rỗi của mình dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân
hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ
thanh toán tiện lợi.
Thứ hai, đối với người đi vay, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh
doanh, chi tiêu, thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho
việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
Thứ ba, đối với ngân hàng thương mại, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho
bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng
môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng
thương mại.
Cuối cùng, đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình
tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng
này, ngân hàng thương mại đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt
động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay
để cho vay, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng
là cơ sở để thực hiện các chức năng khác.
b) Chức năng trung gian thanh toán

NHTM làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu
của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng
hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và
các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ở đây NHTM đóng vai trò là người "thủ quỹ"
cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của họ.
NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở thực hiện chức
năng trung gian tín dụng vì tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân
hàng chính là một phần tiền gửi trước đó. Việc các ngân hàng thương mại thực hiện

chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế.

10


Với chức năng này, các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện
thanh toán thuận lợi. Nhờ đó, các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí,
thời gian đi tới gặp chủ nợ, người phải thanh toán và lại đảm bảo được việc thanh
toán an toàn. Qua đó, chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ
thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời,
việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt
trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm
nhận, bảo quản tiền...
Đối với NHTM, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng
thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay
của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức
năng này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của NHTM.
c) Chức năng "tạo tiền"

Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát
hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực hiện chức
năng phát hành giấy bạc ngân hàng nữa. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và
trung gian thanh toán, NHTM có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện
trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây chính
là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch.
Ban đầu từ những khoản tiền dự trữ tăng lên, NHTM sử dụng để cho vay
bằng chuyển khoản, sau đó những khoản tiền này sẽ được quay lại ngân hàng
thương mại một phần khi những người sử dụng tiền gửi vào dưới dạng tiền gửi
không kỳ hạn. Quá trình này tiễp diễn trong hệ thống ngân hàng và tạo nên một
lượng tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức

mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này, đến lượt nó chịu
tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền
mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng.
Với chức năng "tạo tiền", hệ thống NHTM đã làm tăng phương tiện thanh
toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái
niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát hành ra mà

11


còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương
mại tạo ra. Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu
thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà NHTM cho vay ra làm tăng khả năng tạo
tiền của NHTM, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung,
hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất,
tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi ngân hàng thực hiện
tốt chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng
nguồn vốn tín dụng, mở rộng hoạt động tín dụng.
1.1.2. Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.2.1.
Khái niệm tín dụng ngân hàng

Quan hệ tín dụng đã hình thành và ra đời từ lâu, thậm chí mối quan hệ tín
dụng thô sơ nhất được phát sinh ngay từ sau khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan
rã. Quan hệ tín dụng đã phát triển qua nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, qua từng thời kì,
từng giai đoạn phát triển mà dần hình thành nên các hình thức tín dụng mới có trình
độ cao hơn.
Trong nền kinh tế hàng hóa, trong cùng một thời gian luôn có một số người

tạm thời thừa vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay. Bên cạnh đó,
luôn có một số người tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Hiện tượng này làm nảy
sinh mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi tạm
thời thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay là lợi nhuận thu
được do sử dụng vốn vay. Đây chính là quan hệ tín dụng.
Theo Luật các TCTD Việt Nam năm 2010( số: 47/2010/QH12) : “Cấp tín
dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết
cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vu cho
vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Theo PGS.TS Tô Ngọc Hưng (Năm 2014): “Tín dụng ngân hàng là một giao
dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa ngân hàng và bên đi vay (cá nhân, doanh

12


nghiệp và các chủ thể khác), trong đó ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay
sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán”.
Tín dụng có ba đặc điểm cơ bản mà nếu thiếu một trong ba đặc điểm này thì
sẽ không còn phạm trù tín dụng nữa. Đó là:
-

Quan hệ chuyển nhượng chỉ mang tính chất tạm thời
Tính hoàn trả: Lượng giá trị được chuyển nhượng phải được hoàn trả

-

đúng hạn cả về thời gian và về giá trị bao gồm hai bộ phận gốc và lãi.
Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và người

cho vay

Qua đó ta có thể hiểu đơn giản tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời
một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người
sử dụng để sau một thời gian nhất định thu về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá
trị ban đầu. Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của tín dụng, tuy
nhiên nó vẫn giữ nguyên được bản chất ban đầu của quan hệ tín dụng
1.1.2.2.

Vai trò của tín dụng ngân hàng
Sản xuất phát triển mạnh sẽ thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển ở mỗi

quốc gia trên thế giới. Song để cho quá trình sản xuất được mở rộng và ngày càng
hoàn thiện phải nói đến vai trò to lớn của tín dụng Ngân hàng.
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, là
người trung gian điều hoà quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế, hoạt động tín
dụng đã thông dòng cho vốn chảy từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn.
Ngân hàng ra đời gắn liền với sự vận động trong quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá phát triển nhanh chóng đã thúc đẩy hàng
hoá - tiền tệ ngày càng sâu sắc, phức tạp và bao trùm lên mọi sinh hoạt kinh tế xã
hội. Mặt khác, chính sản xuất và lưu thông hàng hoá ra đời và được mở rộng xã kéo
theo sự vận động vốn và là nền tảng tạo nên những tổ chức kinh doanh tiền tệ đầu
tiên mang những đặc trưng của một ngân hàng.
Vì vậy, chúng ta thấy rằng còn tồn tại quan hệ hàng hoá tiền tệ thì hoạt động
tín dụng không thể mất đi mà trái lại ngày càng phát triển một cách mạnh mẽ. Bởi

13


trong nền kinh tế, tại một thời điểm tất yếu sẽ phát sinh hai loại nhu cầu là người

thừa vốn cho vay để hưởng lãi và người thiếu vốn đi vay để tiến hành sản xuất kinh
doanh. Hai loại nhu cầu này ngược nhau nhưng cũng chung một đối tượng đó là
tiền, chung nhau về tính tạm thời và cả hai bên đều thoả mãn nhu cầu và đều có lợi.
Ngân hàng ra đời với vai trò là nơi hiểu biết rõ nhất về tình hình cân đối giữa cung
và cầu vốn trên thị trường như thế nào.Và với hoạt động tín dụng, ngân hàng đã giải
quyết được hiện tượng thừa vốn, thiếu vốn này bằng cách huy động mọi nguồn tiền
nhàn rỗi để phân phối lại vốn trên nguyên tắc có hoàn trả phục vụ kịp thời cho nhu
cầu sản xuất, kinh doanh...
Thứ hai, tín dụng ngân hàng tạo ra nguồn vốn hỗ trợ cho quá trình sản
xuất được thực hiện bình thường liên tục và phát triển nhằm góp phần đẩy nhanh
quá trình tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển kinh tế, mở rộng phạm vi quy
mô sản xuất
Hoạt động tín dụng ngân hàng ra đời đã biến các phương tiện tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội thành những phương tiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả,
động viên nhanh chóng nguồn vật tư, lao động và các nguồn lực sẵn có khác đưa
vào sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá đẩy nhanh quá trình
tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc cung ứng vốn một cách kịp thời của tín dụng
ngân hàng để đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động, vốn cố định của các doanh
nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục tránh tình trạng ứ tắc,
đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn để ứng dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật nhằm thúc đẩy nhanh quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng từ đó
thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả và củng
cố chế độ hạch toán kinh tế.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là cho vay có hoàn trả và có lợi tức. Ngân
hàng huy động vốn của doanh nghiệp khi họ có vốn nhàn rỗi và cho vay khi họ cần
vốn để bổ sung cho sản xuất kinh doanh. Khi sử dụng vốn vay của ngân hàng,
doanh nghiệp phải tôn trọng mọi điều kiện ghi trong hợp đồng tín dụng, trả nợ vay
đúng hạn cả gốc và lãi. Do đó thúc đẩy các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp


14


tăng hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng vòng quay vốn... để tạo điều kiện
nâng cao doanh thu cho doanh nghiệp. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tự vươn
lên thông qua các hoạt động của mình, một trong những hoạt động khá quan trọng
là hạch toán kinh tế.
Quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lí đồng vốn sao cho có hiệu
quả. Để quản lí đồng vốn có hiệu quả thì hạch toán kinh tế phải giám sát chặt chẽ
quá trình sử dụng vốn để nó được sử dụng đúng mục đích, tạo ra doanh thu cho
doanh nghiệp. Điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn
quá trình hạch toán của đơn vị mình.
Cuối cùng, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện mở rộng và phát triển quan hệ
kinh tế đối ngoại.
Ngày nay sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn luôn gắn quan hệ kinh
tế với thị trường thế giới, nền kinh tế “đóng” tự cung tự cấp trước đây nay đã
nhường chỗ cho nền kinh tế “mở” phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước
trên thế giới.
Một quốc gia được gọi là phát triển thì trước hết phải có một nền kinh tế
chính trị ổn định, có vị thế trên thị trường quốc tế, có một lượng vốn lớn trong đó
vốn dự trữ ngoại tệ là rất quan trọng. Tín dụng ngân hàng trở thành một trong những
phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau bằng các hoạt động tín dụng quốc tế
như các hình thức tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức cá nhân với chính
phủ, giữa các cá nhân với cá nhân... Sự phát triển ngày càng tăng trong hoạt động
ngoại thương và số thành viên tham dự hoạt động ngày càng lớn làm cho nhu cầu
về hoạt động tài chính càng trở nên cần thiết. Vì vậy việc tạo điều kiện thuận lợi
về tài chính là một công cụ cạnh tranh có hiệu quả bên cạnh các yếu tố cạnh
tranh khác như giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thương mại... đã vượt ra
khỏi phạm vi của một nước ra phạm vi của thế giới có tác dụng thúc đẩy nền sản
xuất mang tính quốc tế hoá, hình thành thị trường khu vực và thị trường thế giới,

tạo ra bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các nước với
nhau. Như vậy các hình thức thanh toán cũng sẽ đa dạng hơn, mỗi hình thức
thanh toán đòi hỏi hình thức tín dụng phù hợp và đảm bảo cho nó an toàn và hiệu

15


quả. Chất lượng của hoạt động tín dụng ngoại thương là cơ sở để tạo lòng tin cho
bạn hàng trong thương mại, tạo điều kiện cho quá trình lưu thông hàng hoá, thắng
trong cạnh tranh về thanh toán sẽ dẫn tới thắng lợi của mọi cạnh tranh khác trọng
hoạt động ngoại thương
1.1.2.3. Phân loại tín dụng
a) Mục đích:

Thứ nhất, phân loại tín dụng giúp cho ngân hàng quản lí được các khoản tín
dụng thống nhất và có hiệu quả hơn
Thứ hai, phân loại tín dụng giúp cho ngân hàng kế hoạch hóa vốn và sử dụng
vốn trong hoạt động của NHTM một cách có hiệu quả và tránh được rủi ro
Thứ ba, phân loại tín dụng giúp cho ngân hàng gắn quá trình cấp vốn phù
hợp với luân chuyển vật tư hàng hóa.
b) Phân loại:

Có rất nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng dựa vào các căn cứ khác
nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên người ta thường phân loại theo một
số tiêu thức sau:
-

Theo thời gian sử dụng vốn vay, tín dụng được phân thành 3 loại sau:

+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường

được sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn
lưu động của các doanh nghiệp hay cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng
của cá nhân.
+ Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dung để cho vay vốn
phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kĩ thuật, mở rộng và xây
dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để
cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
Thường thì tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định
và một phần vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất.
-

Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, tín dụng ngân hàng chia thành 2
loại:

16


+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng được cung cấp
cho các doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh doanh.
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp phát cho cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để mua sắm nhà cửa, xe cộ,
các thiết bị gia đình... Tín dụng tiêu dùng ngày càng có xu hướng tăng lên.
-

Căn cứ vào tính chất đảm bảo của các khoản cho vay, có các loại tín
dụng sau:

+ Tín dụng có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay phát ra
đều có tài sản tương đương thế chấp, có các hình thức như: cầm cố, thế chấp, chiết

khấu và bảo lãnh.
+ Tín dụng không có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay
phát ra không cần tài sản thế chấp mà chỉ dựa vào tín chấp. Loại hình này thường
được áp dụng với khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài và sòng phẳng với
ngân hàng, khách hàng này phải có tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín đối
với ngân hàng như trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có dự án sản xuất kinh
doanh khả thi, có khả năng hoàn trả nợ...
Trong nền kinh tế thị trường việc phân loại tín dụng ngân hàng theo các tiêu
thức trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi các hình thức tín dụng càng đa dạng thì cách
phân loại càng chi tiết. Phân loại tín dụng giúp cho việc nghiên cứu sự vận động của
vốn tín dụng trong từng loại hình cho vay và là cơ sở để so sánh, đánh giá hiệu quả
kinh tế của chúng.
1.1.2.4.

Nguyên tắc tín dụng
Tín dụng ngân hàng được thực hiện trên 3 nguyên tắc sau:
a) Tiền cho vay phải được hoàn trả sau một thời gian nhất định cả vốn lẫn

lãi
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn kinh doanh của
ngân hàng là nguồn vốn huy động từ nền kinh tế. Nguyên tắc hoàn trả phản ánh
đúng bản chất quan hệ tín dụng, tính chất của tín dụng sẽ bị phá vỡ nếu nguyên tắc
này không được thực hiện đầy đủ. Nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, các
khoản tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp không được hoàn trả đúng hạn nhất định

17


sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán và thu nhập của ngân hàng. Do đó, khách
hàng khi vay vốn phải cam kết trả cả gốc và lãi trong một thời hạn nhất định, cam

kết này được ghi trong hợp đồng vay nợ.
b) Vốn vay phải có giá trị tương đương làm đảm bảo

Trong nền kinh tế thị trường các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và
phức tạp, vì thế mọi dự đoán về rủi ro của ngân hàng chỉ mang tính tương đối.
Trong môi trường kinh doanh như vậy, bảo đảm tín dụng được coi là một tiêu chuẩn
xét duyệt cho vay nhằm bổ sung những mặt hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng
như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh. Các
giá trị tương đương làm bảo đảm có thể là: vật tư hàng hóa trong kho, tài sản cố
định của doanh nghiệp, số dư trên tài khoản tiền gửi, hoá đơn chuẩn bị nhận hàng
hoặc có thể là cam kết bảo lãnh của một cơ quan khác thậm chí có thể là chính uy
tín của doanh nghiệp trên thị trường và trong mối quan hệ quá khứ với ngân hàng.
Giá trị đảm bảo là cơ sở cho khả năng trả nợ của khách hàng, cơ sở để hạn chế rủi
ro tín dụng của ngân hàng và là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất trong các
điều kiện khác nhau.
c) Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích

Tín dụng đúng mục đích không những là nguyên tắc mà còn là phương châm
hoạt động của tín dụng. Quan hệ tín dụng phản ánh nhu cầu về vốn và lợi nhuận của
doanh nghiệp. Việc thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng là cơ sở để
doanh nghiệp tính toán các yếu tố hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, đồng
thời nó cũng là một trong những yếu tố đảm bảo khả năng thu nợ của ngân hàng.
Để thực hiện nguyên tắc này, ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử
dụng tiền vay đúng mục đích như đã cam kết trong hợp đồng, bởi vì mục đích đó đã
được ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm, ngân hàng được quyền
thu hồi nợ trước hạn, trường hợp khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn.
1.2.
TÍN DỤNG XANH
1.2.1. Khái niệm về tín dụng xanh


Từ trước đến nay, chúng ta thường nghe khái niệm về tín dụng ngân hàng và
tín dụng đen. Nhưng trong vài năm gần đây bắt đầu xuất hiện thêm khái niệm tín

18


dụng xanh. Tín dụng xanh được biết đến là công cụ góp phần thực hiện chiến lược
tăng trưởng xanh. Do đó để hiểu rõ tín dụng xanh là gì, chúng ta cần tìm hiểu một
số khái niệm liên quan như là: tăng trưởng xanh, tài chính xanh, ngân hàng xanh…
-

Tăng trưởng xanh:

Quan điểm của Việt Nam về tăng trưởng xanh được khẳng định trong “Chiến
lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 25/9/2012, như sau:
+ Tăng trưởng xanh là một nội dung của phát triển bền vững, đảm bảo phát
triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến
lược Quốc gia về biến đổi khí hậu.
+ Tăng trưởng xanh phải do con người và vì con người, góp phần tạo việc
làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
+ Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư và bảo tồn, phát triển và sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện nâng
cao chất lượng môi trường, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế.
+ Tăng trưởng xanh phải dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại, phù
hợp với điều kiện Việt Nam.
+ Tăng trưởng xanh là điều kiện của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền,
các Bộ và ngành địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội.
-


Tài chính xanh:

Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), khái niệm “tài chính xanh” là
cung cấp tài chính nhằm tạo ra một trái đất tồn tại bền vững, bao hàm các dịch vụ
tài chính, định chế tài chính, sáng kiến và chính sách ở tầm quốc gia, các sản phẩm
tài chính (trái phiếu, cổ phiếu, bảo hiểm...) giúp dòng tiền đổ vào các dự án kinh tế
nhằm cải thiện môi trường, giảm tác động của biến đổi khí hậu và nâng cao hiệu
quả sử dụng tài nguyên.
-

Ngân hàng xanh:

Về định nghĩa ngân hàng xanh, có 2 cách hiểu phổ biến. Thứ nhất, hiểu theo
nghĩa rộng, “Ngân hàng xanh là chính là Ngân hàng bền vững” (Imeson M., và Sim
A., 2010), trong đó nghiên cứu chỉ ra rằng một ngân hàng để phát triển bền vững thì

19


các quyết định đầu tư cần nhìn vào bức tranh lớn và hành động một cách có lợi cho
người tiêu dùng, kinh tế, xã hội và môi trường. Khi đó, có một mối quan hệ mật
thiết giữa ngân hàng với các yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường. Ngân hàng chỉ có
thể phát triển bền vững nếu đặt các lợi ích của ngân hàng gắn liền với các lợi ích
của xã hội, môi trường.
Cách hiểu thứ hai, theo nghĩa hẹp, “Ngân hàng xanh” chỉ các hoạt động
nghiệp vụ của ngân hàng khuyến khích các hoạt động vì môi trường và giảm phát
thải cacbon, ví dụ như khuyến khích khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ xanh;
áp dụng tiêu chuẩn môi trường khi duyệt vốn vay hay cấp tín dụng ưu đãi cho dự án
giảm CO2, năng lượng tái tạo,... (UN ESCAP, 2012). Như vậy, một ngân hàng khi
cung cấp các dịch vụ có gắn với các cam kết về môi trường hoặc đầu tư cho vay sản

xuất xanh, sạch.
Từ những khái niệm liên quan trên ta đưa ra được định nghĩa tín dụng xanh
như sau:
Tín dụng xanh là những khoản tín dụng được cấp từ ngân hàng cho các dự
án sản xuất kinh doanh không gây rủi ro hoặc nhằm mục đích bảo vệ môi trường
– xã hội.
Từ những điều trình bày ở trên cho thấy, tăng trưởng xanh không thay thế
tăng trưởng bền vững và cũng không đồng nghĩa với kinh tế xanh, nó là một khái
niệm hẹp hơn khái niệm tăng trưởng bền vững. Trong khi đó tín dụng xanh lại được
bao hàm bởi tài chính xanh và ngân hàng xanh góp phần xây dựng nền kinh tế xanh,
mà các doanh nghiệp lại nắm giữ những vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh
tế. Bởi vậy, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, bổ sung, không thể tách rời trong
quá trình xây dựng một nền kinh tế xanh.
1.2.2. Mục tiêu phát triển tín dụng xanh
a) Mục tiêu chung:

Tín dụng xanh góp phần tiến tới một hệ thống “ Ngân hàng xanh”, “ Tài
chính xanh” có các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng khuyến khích các hoạt động
vì môi trường như việc áp dụng tiêu chuẩn môi trường khi duyệt vốn vay hay cấp
tín dụng ưu đãi cho dự án giảm CO2 hoặc tài trợ cho công nghệ, dự án, ngành sản

20


xuất, doanh nghiệp định hướng thân thiện môi trường từ đó xây dựng nền kinh tế
các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên, giảm phát thải tăng khả năng hấp thụ khí nhà
kính và hướng tới một nền kinh tế bền vững.
b) Mục tiêu cụ thể:

+ Tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế tín dụng tại các ngân hàng thương mại

theo hướng xanh hóa các nghiệp vụ hiện có và khuyến khích phát triển các nghiệp
vụ tín dụng đầu tư hiệu quả vào năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao.
+ Nghiên cứu, ứng dụng ngày càng rộng rãi hoạt động tín dụng xanh nhằm tìm
kiếm, thẩm định và đầu tư cho các dự án sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên,
giảm cường độ phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
+ Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường
thông qua tạo nhiều việc làm từ các dự án từ nguồn vốn tín dụng xanh tại các ngành công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh, đầu tư vốn vào tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh.
1.2.3.

Vai trò của tín dụng xanh
- Đối với nền kinh tế và môi trường, xã hội:
+ Cung ứng vốn, hỗ trợ cho các dự án có tính thực thi và hiệu quả cao, thân

thiện với môi trường
+ Góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững
+ Một trong những biện pháp ngăn chặn các hoạt động kinh tế ảnh hưởng
xấu đến môi trường
+ Giải pháp mới cho vấn đề biến đổi khí hậu, ô nhiễm và hàng loạt các vấn
đề môi trường khác
+ Thực hiện tiêu chí phát triển bền vững đời sống nhân dân
-

Đối với ngân hàng:

+ Góp phần ủng hộ các dự án phát triển xanh hoặc không ảnh hưởng đến môi
trường và ngăn chặn các dự án có dấu hiệu ảnh hưởng đến môi trường
+ Các ngân hàng hoạt động phát triển, bảo vệ môi trường có cơ hội nhận
được sự trợ giúp từ phía Chính phủ
+ Cơ hội để tìm kiếm lợi nhuận, tăng uy tín, giá trị thương hiệu cho ngân hàng

+ Mở ra cơ hội hợp tác, thu hút nguồn lực từ các tổ chức tài chính trong và

21


ngoài nước
1.2.4. Tiêu chí đánh giá mức độ phát triển tín dụng xanh hệ thống NHTM Việt

Nam
1.2.4.1.
Khái niệm phát triển tín dụng xanh
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng: Phát triển là một quá trình
tiến lên từ thấp đến cao. Phát triển không chỉ đơn thuần tăng lên hay giảm đi đơn
thuần về lượng mà còn có sự biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Phát triển là
khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về
chất gây ra, và hướng theo xu thế phủ định của phủ định. Như vậy, hiểu một cách
đơn giản nhất thì phát triển là sự tăng lên về số lượng và chất lượng.
Như vậy trong lĩnh vực ngân hàng, theo quan điểm của triết học duy vật biện
chứng có thể hiểu phát triển tín dụng xanh theo hai nghĩa:
+ Hiểu theo nghĩa hẹp (tăng về lượng): Phát triển tín dụng xanh là sự gia
tăng tỷ trọng dư nợ tín dụng xanh tại ngân hàng
+ Hiểu theo nghĩa rộng (tăng về lượng và chất): Phát triển tín dụng xanh là
sự gia tăng dư nợ tín dụng xanh trong cơ cấu khách hàng cho vay tại một ngân hàng
kết hợp với sự phát triển thêm các sản phẩm tín dụng xanh, đồng thời tăng chất
lượng tín dụng xanh
Chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại được phản ánh ở yếu tố
như thu hút nhiều khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn vốn
tín dụng, chi phí về tổng thể lãi suất, chi phí nghiệp vụ.
1.2.4.2.

Một số tiêu chí đánh giá mức độ phát triển tín dụng xanh
a) Dư nợ tín dụng xanh:

Chỉ tiêu này phản ánh quy mô hoạt động tín dụng xanh của một ngân hàng.
Dư nợ tín dụng xanh càng cao chứng tỏ hoạt động tín dụng xanh của ngân hàng
ngày càng phát triển về lượng. Việc đo lường, đánh giá dư nợ tín dụng xanh thông
qua tỷ lệ tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh.
Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh = (Dư nợ tín dụng xanh năm (t+1)/ Dư
nợ tín dụng xanh năm t)*100%

22


b) Sự phát triển thị phần:

Chỉ tiêu về thị phần là một chỉ tiêu chung và quan trọng để đánh giá bất kỳ
hoạt động kinh doanh nào. Trong kinh tế thị trường thì “khách hàng là thượng đế”
vì chính khách hàng mang lại lợi nhuận và sự thành công cho doanh nghiệp, hay nói
cách khác thì chính khách hàng trả lương cho người lao động.

23


Lĩnh vực ngân hàng cũng không là ngoại lệ vì số lượng khách hàng đến với
một ngân hàng ngày càng nhiều thì thể hiện ngân hàng đó hoạt động càng thành
công, sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Thị
phần tín dụng xanh của một ngân hàng được xác định như sau:
Thị phần tín dụng xanh = Dư nợ tín dụng xanh của một ngân hàng/ Tổng dư
nợ tín dụng xanh của toàn hệ thống ngân hàng.
c) Hệ thống kênh phân phối:


Hệ thống kênh phân phối của ngân hàng phản ánh sự phát triển của hoạt
động ngân hàng bán lẻ nói chung và hoạt động tín dụng xanh nói riêng.
+ Kênh phân phối truyền thống: thể hiện ở số lượng chi nhánh, phòng giao
dịch và đơn vị trực thuộc, sự phân bố các chi nhánh theo lãnh thổ địa lý.
Một ngân hàng có mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch rộng lớn sẽ giúp dễ
dàng tiếp cận khách hàng ở nhiều địa bàn.
+ Kênh phân phối hiện đại: kênh phân phối dựa trên nền tảng công nghệ mới
bằng những thiết bị hỗ trợ hiện đại như máy vi tính, điện thoại.
Ngày nay, yêu cầu của khách hàng ngày càng được nâng cao khi muốn được
đáp ứng nhu cầu như các chương trình cho vay trực tuyến. Vì vậy việc triển khai
công nghệ ngân hàng hiện đại đã rút ngắn khoảng cách về không gian và tiết kiệm
thời gian, giúp ngân hàng giảm bớt áp lực phát triển mạng lưới chi nhánh rộng
khắp.
d) Tỷ lệ nợ xấu:

Phát triển tín dụng xanh phải đảm bảo đi đôi với tăng chất lượng tín dụng
xanh. Chất lượng tín dụng một phần được thể hiện ở mức độ an toàn vốn tín dụng
thông qua chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu – đánh giá khả năng thu hồi nợ.
Tỷ lệ nợ xấu của một ngân hàng càng thấp càng tốt. Thực tế, rủi ro trong kinh
doanh là không tránh khỏi, nên ngân hàng thường chấp nhận một tỷ lệ nhất định được
coi là giới hạn an toàn. Mức dưới 3% có thể coi là ngưỡng khá tốt trong hoạt động
ngân hàng. Tỷ lệ an toàn cho phép theo thông lệ Quốc tế và Việt Nam là 5%.
e) Thu nhập từ tín dụng xanh:

Hiệu quả của hoạt động tín dụng xanh được phản ánh thông qua thu nhập từ

24



tín dụng xanh hoặc tỷ trọng thu lãi từ tín dụng xanh trên tổng thu lãi từ tín dụng
Thu nhập tín dụng xanh = Thu từ tín dụng xanh – Chi phí cho tín dụng xanh.
Chỉ tiêu này giúp ngân hàng đánh giá được hiệu quả hoạt động tín dụng xanh
trong tổng quan hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Từ đó có định hướng rõ ràng
trong phát triển tín dụng xanh nhằm đặt ra các mục tiêu gần và kế hoạch lâu dài để
có đường lối phát triển rõ ràng trong tương lai.
f)

Tính đa dạng của sản phẩm tín dụng xanh:
Mức độ đa dạng hóa sản phẩm tín dụng xanh phù hợp với nhu cầu thị trường

là một chỉ tiêu thể hiện sự tập trung phát triển tín dụng xanh, qua đó phản ánh năng
lực cạnh tranh của ngân hàng trong lĩnh vực này. Sự đa dạng hóa sản phẩm cần phải
được thực hiện trong tương quan so với các nguồn lực hiện có của ngân hàng. Nếu
không, việc triển khai quá nhiều sản phẩm có thể làm cho ngân hàng kinh doanh
không hiệu quả do dàn trải nguồn lực quá mức.
Cơ cấu sản phẩm tín dụng xanh không đồng đều phản ánh ngân hàng tập
trung phát triển những sản phẩm có dư nợ cao. Cơ cấu sản phẩm tín dụng đồng đều
thể hiện sự đa dạng về sản phẩm. Tùy theo mục tiêu phát triển trong từng thời kỳ
mà ngân hàng có chiến lược thay đổi cơ cấu sản phẩm tín dụng phù hợp. Nhu cầu
của khách hàng ngày càng đa dạng nên ngân hàng không những phát triển những
sản phẩm tín dụng tốt nhất, tiện ích nhất, các nhu cầu cơ bản mà còn đáp ứng mọi
nhu cầu vốn miễn là không trái pháp luật. Sản phẩm càng đa dạng, ngân hàng càng
khái thác được những nhu cầu tiềm năng của khách hàng, từ đó mở rộng thị phần.
g) Tính ổn định, minh bạch trong chính sách ngân hàng

Tính minh bạch ổn định trong chính sách tín dụng được thể hiện ở lãi suất
cho vay, cam kết giải ngân và các loại phí liên quan đến hồ sơ tín dụng.
+ Chính sách lãi suất cho vay: thể hiện ở phương thức tính lãi vay (tính trên
dư nợ giảm dần hay dư nợ ban đầu), biên độ và kì hạn thay đổi lãi suất. Lãi suất huy

động và cho vay quyết định chi phí và thu nhập NHTM
+ Cam kết giải ngân: thể hiện ngân hàng có sẵn lòng giải ngân sau khi hợp
đồng tín dụng có hiệu lực và khi ngân hàng có nhu cầu sử dụng vốn hay không
+ Các loại phí liên quan đến hồ sơ tín dụng như phí thẩm định tài sản đảm

25


×