Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức quận nam từ liêm, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 96 trang )

1

1

LỜI CAM ĐOAN
“Tôi xin cam đoan Luận văn này là”công trình nghiên cứu thực sự“của cá
nhân tôi,”chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào. Các số
liệu, nội dung được trình bày“trong luận văn này là hoàn toàn”hợp lệ và đảm bảo
tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Tôi xin chịu trách nhiệm về đề
tài nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn

Trần Thị Ngọc Anh

1


2

2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và bản luận văn này, bên cạnh những nỗ
lực của bản thân, tôi đã nhận được sự quan tâm, động viên, sự góp ý tận tình của
các thầy cô, gia đình và bạn bè trong suốt quá trình học tập, công tác.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
- Các thầy cô giáo Khoa Sau đại học và các thầy cô giáo khoa Quản lý kinh tế
Trường Đại học Thương mại.
- Lãnh đạo quận Nam Từ Liêm đã tạo điều kiện cho tôi tiến hành khảo sát và
các đồng nghiệp, bạn bè đã giúp đỡ và cung cấp tài liệu cho tác giả trong quá trình
học tập, công tác và thực hiện luận văn thạc sĩ.


- Người hướng dẫn: TS. Trần Văn Trang
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình
và năng lực của bản thân, tuy nhiên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi
rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành để bản luận văn được hoàn thiện
hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Trần Thị Ngọc Anh

2


3

3

MỤC LỤC

3


4

4

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

“Từ viết tắt”
CT”

CNXH”
CN, XD”
CNH, HĐH”
CP”
“HĐND”
NN-XD -MT”
NQ”
NĐ”
QĐ”
THCS”
THPT”
T.kê”
TTg”
TW”
UBND”
VP-TK”
XHCN”
“KT - XH”

4

Nghĩa của“từ viết tắt”
“Chỉ thị”
“Chủ nghĩa xã hội”
“Công nghiệp, xây dựng”
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
“Chính phủ”
“Hội đồng nhân dân”
“Nông nghiệp - Xây dựng - Môi trường”
“Nghị quyết”

“Nghị định”
“Quyết định”
“Trung học cơ sở”
“Trung học phổ thông”
“Thống kê”
“Thủ tướng”
“Trung ương”
“Ủy ban nhân dân”
“Văn phòng - Thống kê”
“Xã hội chủ nghĩa”
“Kinh tế - Xã hội”


5

5

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH VẼ

5


6

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Một số nhà khoa học đã phân tích, công tác xây dựng nền hành chính gồm bốn

vấn đề bao gồm: thể chế hành chính, tổ chức bộ máy chính phủ“từ trung ương đến
địa phương,”vấn đề nhân sự hành chính và tài chính công.(Đây là bốn yếu tố)rất
quan trọng, trong đó việc xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức vừa
có đức, vừa có tài là một vấn đề tốn nhiều công sức và cần có tính chất lâu dài nhất .
Vì vậy, ở bất kỳ thời kỳ nào, bất kỳ quốc gia nào, để“đáp ứng được”sự“phát triển
kinh tế - xã hội”đều rất quan tâm vấn đề này.
Bác Hồ đã căn dặn: trồng cây thì phải mười năm, trồng người thì phải trăm
năm. Và trong các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là các“Nghị
quyết Đại hội”cũng đều nhấn mạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức vừa có đức, vừa có tài, thành thạo nghề nghiệp và tận tụy phục vụ nhân dân.
Trong quá trình“phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”đất
nước”như hiện nay thì“đội ngũ công chức, viên chức”đóng vai trò rất quan trọng, là
lực lượng nòng cốt,(điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức chính quyền).Vì vậy,
xây dựng“đội ngũ công chức,”viên chức ngày càng hoàn thiện“là một trong những
nhân tố có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành bại”của công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước.
Công chức, viên chức cấp xã, phường, quận,“huyện là những(người trực tiếp
tiếp xúc”với nhân dân)hàng ngày, là người“hướng dẫn, giải đáp,‘tuyên truyền’và
vận động”nhân dân thực hiện theo các “chủ trương, đường lối, chính sách”và“pháp
luật”của Đảng và Nhà nước;’trực tiếp lắng nghe, giải quyết hoặc kiến nghị’lên cấp
trên những ý kiến, kiến nghị và nguyện vọng của người dân.“Vì vậy, chất lượng
hoạt động của”công chức, viên chức sẽ“ảnh hưởng trực tiếp”đến sức mạnh của“hệ
thống chính trị ở cơ sở, tác động đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và
Nhà nước.”

6


7


Quận“Nam Từ Liêm là một quận”thuộc‘Thành Phố Hà Nội,”là Quận
mới“được thành lập”từ ngày 01/4/2014“theo Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày
27/12/2013”của“Chính phủ về điều chỉnh địa giới hành chính”huyện“Từ Liêm để
thành lập 02 quận và 23 phường thuộc Thành phố”Hà Nội. Ngay từ những ngày đầu
mới thành lập Quận, các cấp ủy Đảng,“chính quyền quận Nam Từ Liêm đã”nhận
thức rõ vai trò quan trọng“của đội ngũ công chức, viên chức và”quan tâm tới công
tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nhân sự của Quận. Tuy nhiên,“trên thực tế đội ngũ
công chức,”viên chức“vẫn chưa đạt được”chất lượng“như mong muốn. Năng”lực
của“đội ngũ công chức,”viên chức đang còn thấp, đặc biệt là năng lực“của đội ngũ
công chức”cấp phường,“chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của quận:”Chất
lượng còn“yếu, cơ cấu chưa hợp lý,”chưa“năng động, sáng tạo,”đôi khi còn ỷ lại,
bảo thủ; một số công chức, viên chức còn có biểu hiện“quan liêu, sách nhiễu nhân
dân... làm giảm uy tín”với người dân.
Việc nghiên cứu và phân tích thực trạng”đội ngũ“công chức, viên chức là
nhiệm vụ”cấp thiết“để đưa ra những giải pháp nhằm tạo ra một sự chuyển
biến”không những về chất mà còn về lượng để“phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH”của quận Nam Từ
Liêm.“Với lý do đó nên tác giả chọn đề tài”“Nâng cao chất lượng đội ngũ công
chức, viên chức quận Nam Từ Liêm, Hà Nội” làm“luận văn thạc sỹ”của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu
Vấn đề về chất lượng đội ngũ công chức, viên chức”ở nhiều nước trên thế
giới“đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước là”chủ đề nghiên cứu của
nhiều môn khoa học như: chính trị học, quản lý công.... nhưng“xây dựng đội ngũ
công chức, viên chức luôn là một đề tài có tính thời sự và cũng không kém phần
phức tạp,“những năm gần đây”đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu;
liên quan đến“xây dựng và nâng cao đội ngũ công chức, viên chức tiêu biểu”có
những công trình sau:
Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
7



8

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước của hai tác giả
Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (2003) đã chỉ ra cơ sở trong việc“sử dụng
tiêu chuẩn cán bộ của Đảng”phải“phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, các quan
điểm và phương hướng trong việc nâng cao chất lượng công tác cán bộ.”Với nội
dung “tiêu chuẩn hóa cán bộ”, luận cứ đã chỉ ra những điểm“đổi mới trong công tác
cán bộ để có thể vận dụng và kế thừa”để đưa ra các tiêu chuẩn hóa công chức,”viên
chức phù hợp với“quận Nam Từ Liêm”trong“xu thế phát triển của đất nước và đặc
trưng của quận”Nam Từ Liêm.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”của hai tác
giả“Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương”(năm 2004) đã dựa“trên cơ sở
nghiên cứu các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác”-Lênin,“tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, vị trí người cán bộ, cũng như yêu
cầu đào tạo, xây dựng”đội ngũ cán bộ, công chức;“tìm hiểu những kinh nghiệm về
việc lựa chọn và sử dụng nhân tài trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta, cũng như quá trình xây dựng nền công vụ chính quy hiện đại”của các
nước trong khu vực và trên thế giới.“Từ đó xác định các tiêu chuẩn, yêu cầu
của”cán bộ, công chức nhằm“đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.”Từ đó luận văn có thể kế thừa những kết quả nghiên
cứu đó để đưa ra một số“tiêu chuẩn”xây dựng một đội ngũ công chức, viên
chức“phù hợp với xu thế phát triển nói chung và phù hợp với điều kiện, đặc trưng”
riêng“của quận”Nam Từ Liêm.
Công trình Về chế độ công vụ Việt Nam của Nguyễn Trọng Điền (chủ biên 2007) đã nghiên cứu sâu về“công chức, công vụ và các cơ sở khoa học để hoàn
thiện chế độ công vụ”ở Việt Nam hiện nay;”đề tài đã phân“tích một cách toàn diện
và có hệ thống về lý luận và thực tiễn của chế độ công vụ và cải cách công
vụ”của“Việt Nam qua từng thời kỳ, có”tham chiếu các mô hình công vụ của các nhà
nước tiêu biểu của các thể chế chính trị khác.”Luận giải và“đưa ra lộ trình thích hợp

8


9

cho việc hoàn thiện chế độ công vụ Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ”của Bùi Đình Phong
(năm 2002), đây là công trình khảo cứu công phu về những“quan điểm, tư tưởng cơ
bản”của“Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ”và sự vận dụng trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam nhằm“xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng”được“yêu
cầu của sự nghiệp”cách mạng qua các thời kỳ.
Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”của Nguyễn Minh Tuấn (năm 2012), tác giả đã nêu lên những vấn đề
đang đặt ra hiện nay tác động đến việc“xây dựng đội ngũ cán bộ;”đồng thời đưa ra
những kiến nghị, giải đáp nhằm tăng cường“đổi mới công tác cán bộ đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp CNH- HĐH”đất nước.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân
dân ở Việt Nam hiện nay của Tạ Quang Ngọc (2013) đã nêu lên những hoạt
động“cũng như cách thức tổ chức”của các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân
dân từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới ở nước ta đến nay, chỉ ra những ưu điểm và
khuyết điểm trong thực tiễn hoạt động và tổ chức thực hiện của cơ quan chuyên
môn thuộc ủy ban nhân dân và nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó.
Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức ở các phường
thuộc quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội hiện nay của Nguyễn Trường Sinh (2017)
đã tìm ra những ưu điểm, khuyết điểm trong thực tiễn đạo đức cách mạng của đội ngũ
cán bộ, công chức của các phường thuộc Quận Nam Từ liêm và qua đó lên một số giải
pháp nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức đó.
Xây dựng đội ngũ công chức phường của quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà
Nội hiện nay của Nguyễn Thanh Hà (2018) đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về

xây dựng đội ngũ công chức Phường và đánh giá thực trạng xây dựng đội ngũ công

9


10

chức các phường của quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để từ đó đưa ra những
giải pháp khả thi góp phần xây dựng đội ngũ công chức các phường của quận Nam
Từ Liêm.
Các tác giả đều đã phân tích“một cách hệ thống”và tương đối toàn diện
về“vấn đề chất lượng công chức”nói chung dưới góc độ lý luận cũng như sự vận
dụng lý luận đó vào tình hình thực tiễn, đó đều là những công trình, sản phẩm của
trí tuệ có giá trị và ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, là cơ sở kết thừa cho việc
nghiên cứu tiếp theo.
Tuy nhiên, đứng trước xu hướng“hội nhập và toàn cầu hóa,”thế giới công nghệ
thông tin bùng nổ 4.0 như hiện nay thì vấn đề“nâng cao chất lượng đội ngũ-công
chức, viên chức”vẫn hết sức cấp thiết
Vì vậy, đề tài: “Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức thuộc
quận Nam Từ Liêm, Hà Nội” là“một công trình nghiên cứu”tiếp theo gắn với“địa
bàn quận Nam Từ Liêm”trong thời gian hiện nay. Qua đó, hy vọng có thể góp
phần“bổ sung và hoàn thiện hơn”những kết luận nghiên cứu trước đây nhằm hoàn
thiện việc“nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức”ở các địa phương
trong cả nước.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là tìm ra các giải pháp có tính khả thi nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức quận Nam Từ Liêm, thành phố
Hà Nội.”
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

-“Hệ thống hóa”và tổng hợp“cơ sở lý luận”về nâng cao chất lượng đội ngũ
công chức, viên chức của đơn vị hành chính cấp quận, huyện.
-“Phân tích và đánh giá thực trạng nâng cao chất lượng đội ngũ công chức,
viên chức trên địa bàn quận Nam Từ Liêm.

10


11

- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức
trên địa bàn quận Nam Từ Liêm.”
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng đội ngũ công chức, viên chức và các hoạt động nâng cao“chất lượng
đội ngũ công chức, viên chức của đơn vị hành chính cấp quận, huyện.

11


12

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn“nghiên cứu, đánh giá chất lượng đội ngũ công chức,
viên chức và các hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ công chưc, viên chức tại
quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Về thời gian: Những dữ liệu thứ cấp“(từ năm 2016”đến nay), những đề xuất
nâng cao đội ngũ công chức, viên chức cho giai đoạn 2019-2025.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu

* Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp”
Bài nghiên cứu thu thập, phân loại tài liệu đã được công bố đã được công bố về
thực trạng và chính sách nhà nước nhằm“nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức”như: các đề án, đề tài, sách tham khảo, các bài báo khoa học chuyên
ngành, các luận văn tiến”sỹ, đồng thời thu thập, phân loại các văn bản nhà nước về
công chức, viên chức nói chung và những văn bản nhà nước được“quận Nam Từ
Liêm”áp dụng nói riêng đã ban hành như: Luật, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Nghị
quyết, Thông tư, liên quan đến“công chức, viên chức và quản lý nhà nước về công
chức, viên chức.”
Bài nghiên cứu còn“khai thác và sử dụng các số liệu trực tuyến”trên Internet
của Tổng cục thống kê, Bộ Y tế, các tổ chức Chính phủ, đồng thời sử dụng các quan
điểm, đánh giá, nhận định của các chuyên gia về chính sách quản lý nhà nước về
công chức, viên chức đã công bố.
Sau khi có các dữ liệu thứ cấp, tiến hành đánh giá, lựa chọn, sử dụng dữ liệu
phù hợp, kết hợp với phỏng vấn, hình thành nên khung lý thuyết nghiên cứu đồng
thời đánh giá thực trạng và tác động của chính sách nhà nước nhằm quản lý, nâng
cao chất lượng công chức, viên chức giai đoạn từ năm 2014 đến 2018.
* Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp”
-“Phương pháp phỏng vấn: tiến hành các cuộc phỏng vấn trực tiếp”1“số người
dân”trên địa bàn quận để đánh giá chính xác hơn về đội ngũ công chức trong thực
hiện nhiệm vụ

12


13

-“Phương pháp quan sát: thu thập thông tin về”thái độ, hành vi,“điều kiện làm
việc của công chức”cấp quận, huyện.
- Phương pháp phân tích tài liệu: được sử dụng để phân tích các tài liệu có liên

quan để có thể thu thập, học hỏi và phát triển phù hợp với đề tài.”
Ngoài các phương pháp trên, đề tài còn dùng một số“phương pháp”khác như
so sánh, thống kê... để người nghiên cứu“phân tích kết quả thu được”nhằm đưa ra
những kết luận, nhận định chính xác nhất về vấn đề nghiên cứu, đảm bảo tính logic
và khoa học giữa các vấn đề được nêu ra.
5.2. Phương pháp phân tích dữ liệu
* Phương pháp xử lý dự liệu sơ cấp
Sử dụng phương pháp bảng biểu, thống kê và tổng hợp khái quát. Để phân tích
dữ liệu thu thập trên luận văn tập trung vào“phương pháp phân tích thống kê”truyền
thống, bảng excel. Khi sử dụng phương pháp này,“các dữ liệu xử lý bằng phần mềm
excel, phần mềm SPSS và tổng hợp phân tích”dựa trên các phương pháp thống kê
truyền thống,“sử dụng bảng tính để so sánh, khái quát hóa số liệu từ đó đưa ra kết
luận”chung nhất về vấn đề cần nghiên cứu. Kết quả điều tra có tổng số 200 phiếu
phát ra và có 190 phiếu thu về hợp lệ, đạt tỷ lệ chung là 90%. Tỷ lệ“phiếu phát ra và
thu về,”mẫu“phiếu điều tra”và kết quả cụ thể được trình bày phần lục lục.
*(Phương pháp xử lý dữ liệu thứ cấp:)
Sau khi tổng hợp các dữ liệu thứ cấp, luận văn sẽ sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chung trong khoa học kinh tế như: phương pháp thống kê mô tả, phân
tích định lượng, so sánh, tổng hợp...từ đó rút ra kết luận chung nhất.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài”của luận văn
Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức đang làm việc, công tác tại
quận có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nghiên cứu đề tài này để thấy được thực
tiễn vấn đề chất lượng đội ngũ công chức, viên chức đang diễn ra hết sức phức tạp
trên địa bàn toàn quận. Ngoài ra,“nghiên cứu cũng thể hiện những mặt hạn chế
trong công tác”QLNN“về đội ngũ công chức, viên chức.”

13


14


Đối với đối tượng được chọn để nghiên cứu:”Việc QLNN đối với đội ngũ công
chức, viên chức sẽ giúp phần cải thiện“chất lượng đội ngũ công chức, viên chức,
giúp người dân ngày càng tin tưởng và đội ngũ công chức, viên chức nói riêng và
Đảng, nhà nước nói chung.”
Đối với vấn đề quản lý:”Nghiên cứu về“đội ngũ công chức, viên chức trên địa
bàn quận Nam Từ Liêm mang lại một cái nhìn tổng quan hơn về thực trạng đội ngũ
công chức, viên chức trên địa bàn quận, từ đó đưa ra được giải pháp tăng cường
quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức cả về chất và lượng.”
7. Kết cấu luận văn
Luận văn“ngoài phần mở đầu”và“phần kết luận,”cơ cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng công chức,”viên chức
của“đơn vị hành chính”cấp quận, huyện
Chương 2:“Thực trạng chất lượng”đội ngũ công chức, viên chức”quận Nam
Từ Liêm,“Thành phố Hà Nội.”
Chương 3:”Các“giải pháp nâng cao”chất lượng đội ngũ“công chức, viên
chức”quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội”hiện nay.

14


15

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC, VIÊN
CHỨC CỦA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP QUẬN, HUYỆN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của công chức, viên chức
1.1.1. Khái niệm công chức, viên chức
Thời kỳ trước đây nước ta không phân biệt công chức, viên chức mà nhập

chung vào một nhóm là “cán bộ công chức viên chức”.
“Khái niệm công chức, viên chức”đã bắt đầu được đề cập và quan tâm đến từ
năm 1991. Tuy nhiên, đến năm 1998 chúng ta mới có Pháp lệnh Cán bộ, Công chức
và Pháp lệnh này đã được nêu rõ trong Sắc lệnh Số 2-L/CTN“ngày 26/02/1998 của
Ủy ban Thường vụ quốc Hội ban hành, cụ thể như sau:”“Cán bộ, công chức quy
định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước, bao gồm: Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo
nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên
làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; Những người được tuyển
dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình
độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp
trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn
nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng; Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân; Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được
giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải
là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp”“(Trích Điều 1, Sắc lệnh số 2-L/CTN ngày 26
tháng 02 năm 1998).”
Cùng với sự phát triển của đất nước và nền hành chính nước nhà,“khái
niệm“công chức, viên chức”dần được‘quy định’cụ thể và chi tiết hơn. Tuy nhiên,
các khái niệm này vẫn chưa phân định được rõ ràng ai là cán bộ và ai là công chức.
15


16

Đến năm 2008, Luật cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
vàchủ nghĩa Việt Nam (khóa XII), kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13/11/2008 và có

hiệu lực chính thức từ ngày 01/01/2010: “Công chức là công dân Việt nam, được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, thuộc đơn vị Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan đơn vị thuộc công
an nhân dân mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng cộng sản Việt nam, Nhà
nước, tổ chức Chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị công lập) trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. (Trích“điều 4, Khoản
2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008).”
Đến cuối năm“2010, Luật viên chức số 58/2010/QH12”quy định rõ về viên
chức; quyền nghĩa vụ của viên chức được Quốc hội ban hành ngày 15/11/2010 và
có hiệu lực từ ngày 01/01/2012. “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng
theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng
làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định
của pháp luật” (Trích điều 2,“Luật Viên chức năm 2010).”
Đây là một“bước tiến mới, một bước tiến quan trọng,“mang tính cách mạng về
cải cách chế độ công vụ,”đặc biệt là“thể chế hoá quan điểm và đường lối của Đảng
về công tác cán bộ,”công chức, viên chức,“đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.”Bên cạnh đó, đã khắc phục được tình
trạng hành chính hóa các hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công và tạo ra cơ chế
tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ công chức,
viên chức nhà nước vừa có đạo đức nghề nghiệp, vừa có chuyên môn, nghiệp vụ
vững vàng và“phục vụ nhu cầu của nhân dân ngày càng tốt hơn.”Cũng nhờ vậy, ta
có thể phân biệt rõ về công chức và viên chức.

16



17

Công chức: “Là những người thực thi công vụ. Công vụ và công chức luôn
gắn liền với nhau: chủ thể của công vụ là công chức; công vụ là một dạng lao động
quyền lực, khác với lao động sản xuất trực tiếp, lao động mang tính chất chuyên
môn, nghiệp vụ kỹ thuật; công vụ mang tính quyền lực nhà nước, công chức nhân
danh Nhà nước thực thi quyền lực nhà nước. Lao động của công chức trong các cơ
quan hành chính công quyền là lao động thực thi pháp luật, là lao động quyền lực”.
Viên chức: “Là những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công khác
nhau, lao động của họ không mang tính chất quyền lực nhà nước, mà thuần tuý
mang tính chất chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật chuyên sâu. Đặc điểm, đặc thù,
tính chất, đối tượng và kỹ năng tác nghiệp của họ khác với của công chức nhà nước.
Việc sử dụng thời giờ làm việc, đạo đức nghề nghiệp của họ cũng khác với việc sử
dụng thời giờ làm việc và đạo đức nghề nghiệp của công chức nhà nước”.
1.1.2. Đặc điểm của công chức, viên chức
Căn cứ vào“Luật công chức và Luật viên chức,”ta có thể nhận thấy“đặc điểm
của”một“công chức và viên chức”bao gồm:
Thứ nhất: Là Công dân Việt Nam.
Thức hai về nhiệm vụ: Công chức là người vận hành quyền lực nhà nước và
làm nhiệm vụ quản lý. Trong khi đó viên chức là người thực hiện chức năng xã hội,
trực tiếp thực hiện nghiệp vụ.
Thứ ba về hình thức tuyển dụng: Công chức phải là người được tuyển dụng
hoặc bổ nhiệm vào ngạch, chức danh, chức vụ trong các Cơ quan Nhà nước; Công
chức do thi tuyển, bổ nhiệm, có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thuộc biên chế. Viên chức phải là người thông qua xét tuyển, ký hợp đồng“làm việc
tại các đơn vị sự nghiệp công.”
Thứ tư về hình thức bổ nhiệm: Công chức, viên chức phải có đủ trình độ
chuyên môn phù hợp theo yêu cầu đối với từng“chức danh, chức vụ, cơ quan, đơn
vị và từng cấp.”

17


18

Thứ năm về chế độ lao động: Lương của công chức căn cứ theo ngạch, bậc và
được lấy từ nguồn ngân sách nhà nước. Trong khi đó, lương của Viên chức được
hưởng một phần từ ngân sách và một phần là nguồn thu sự nghiệp.
Thứ sáu về nơi làm việc: Công chức làm việc tại cơ quan nhà nước, tổ chức
CT-XH (Thành Đoàn, Thành ủy…); Viên chức làm việc tại các đơn vị sự nghiệp và
đơn vị sự nghiệp của các tổ chức xã hội.
Thứ bảy về thời gian công tác: Tính từ khi được bổ nhiệm, tuyển dụng cho tới
khi nghỉ hưu theo quy định của Bộ luật Lao động.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của công chức, viên chức
Công chức là những người làm công tác chuyên môn, có trách nhiệm tham
mưu, giúp“cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội”... thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác được phân công và thực hiện các
nhiệm vụ khác do lãnh đạo trực tiếp giao. Công chức là người“phục vụ nhân dân,
thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo đúng quy định, chính sách”và thẩm
quyền được giao.
Viên chức là“những người làm công tác chuyên”môn, có trách nhiệm thực
hiện và hoàn thành tốt các nhiệm vụ tại đơn vị, nhiệm vụ khác do lãnh đạo trực tiếp
giao; là những người“phục vụ nhân dân.”
“Đội ngũ cán bộ công chức, viên chức”đóng cai trò quyết định trong việc quán
triệt,“tổ chức thực hiện”mọi“quyết định của cấp ủy”cấp trên, cấp ủy cùng cấp và
mọi chủ trương chính sách, chương trình, kế hoạch, sự chỉ đạo của chính quyền các
cấp, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và“nhân dân, giữ vai trò”chủ đạo trong
việc“xây dựng và phát triển”kinh tế xã hội cũng như các phong trào của quần chúng
ở địa phương.
1.2. Chất lượng và các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ công chức,

viên chức của đơn vị hành chính cấp quận, huyện
1.2.1 Chất lượng đội ngũ công chức, viên chức cấp quận, huyện

18


19

Chất lượng là một phạm trù trừu tượng, mang tính chất định tính và
khó định lượng, chúng ta không thể cân đo, đong đếm được. Chất lượng là một
phạm trù phức tạp và“có nhiều định nghĩa, quan niệm khác nhau. Như vậy, dưới
mỗi cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm”về chất lượng cũng sẽ khác nhau.

19


20

Theo từ điển tiếng Việt, chất lượng được xem là: “Cái tạo nên phẩm chất, giá
trị của mỗi con người, một sự vật, một sự việc”. Đây là cách đánh giá một con
người, một sự việc, một sự vật trong cái đơn nhất, cái tính độc lập của nó.
Theo một cách hiểu khác thì: Chất lượng là một phạm trù triết học biểu thị
những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của
sự vật để phân biệt nó với sự vật khác. Chất lượng là đặc tính khách quan của sự
vật, biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của
sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật như một tổng thể, bao quát toàn bộ sự vật và
không tách khỏi sự vật.
Như vậy,“trong phạm vi đề tài”nghiên cứu này thì chất lượng đội ngũ“công
chức, viên chức”có thể hiểu“là khả năng giải quyết các vấn đề thuộc tất cả các lĩnh
vực, khả năng thỏa mãn các yêu cầu của tổ chức, cá nhân (người dân) về cung ứng

các dịch vụ hành chính, dịch vụ công...”
Tiêu chí để đánh giá chất lượng công chức,”viên chức cũng“rất đa dạng: có
thể là”tỷ lệ giải quyết hồ sơ đảm bảo đúng“quy định về thời gian, quy trình, thủ tục;
có thể là”sự đo lường về mức độ thỏa mãn của người dân, tổ chức khi hưởng
thụ“dịch vụ hành chính, dịch vụ công ... liên quan đến”các yếu tố, như sự hài lòng
về thái độ phục vụ, sự hài lòng về“thời gian giải quyết công việc…”Chất lượng“đội
ngũ công chức, viên chức được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn của đội ngũ công chức,
viên chức là những quy định cụ thể các yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm chất
đạo đức…theo những tiêu chí nhất định đối với từng”ngành, từng nghề riêng biệt.
Chất lượng của mỗi“công chức, viên chức”là“chất lượng tổng hợp những
phẩm chất riêng nhất định về: sức khỏe, trí tuệ khoa học, chuyên môn nghiệp vụ,
phẩm chất đạo đức, ý chí, niềm tin, năng lực, tinh thần gắn bó với tập thể, với cộng
đồng và khả năng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, trong
thời kỳ CNH, HĐH đất nước như hiện nay, yêu cầu chất lượng đối với công chức,
viên chức ngày càng cao, đòi hỏi người công chức, viên chức không những phải có
trình độ, phẩm chất theo tiêu chuẩn mà còn phải gương mẫu, đi tiên phong về lý
luận và thực tiễn, có tinh thần kỷ luật rất cao, có tư duy khoa học, lý luận sắc bén,

20


21

dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, luôn gắn bó với tập thể, với cộng đồng,
có kỹ năng tốt trong việc kết hợp tri thức khoa học, kinh nghiệm, kỹ năng thực tiễn
một cách nhạy bén, linh hoạt, đồng thời luôn tuyên truyền và chấp hành nghiêm
chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.”
Chất lượng của đội ngũ công chức,”viên chức“ngoài những yếu tố nêu trên
còn phụ thuộc vào cơ cấu đội ngũ, đó là”tỷ lệ hợp lý giữa các độ tuổi; giữa“nam và
nữ; giữa lãnh đạo, quản lý”và thực hiện“chuyên môn nghiệp vụ. Mỗi công

chức,”viên chức“không tồn tại một cách biệt lập mà phải đặt trong một chỉnh thể
thống nhất.”Vì vậy“quan niệm chất lượng”đội ngũ công chức, viên chức“phải được
đặt trong”mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng của từng“công chức, viên
chức”với“chất lượng của cả đội ngũ.”Bên cạnh đó cũng“cần phải giải quyết tốt mối
quan hệ giữa chất lượng và số lượng. Chỉ khi nào hai mặt này có quan hệ hài hòa
mới tạo nên sức mạnh đồng bộ của cả đội ngũ.”
1.2.2. Các tiêu chí đáng giá chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức
cấp quận, huyện
Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là tập hợp
các điều kiện, đặc trưng, dấu hiệu các chỉ số làm căn cứ để nhận biết, đánh giá“đội
ngũ công chức, viên chức”trên thực tế. Từ đó có thể hình thành hệ tiêu chí cơ bản
để đánh giá“chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức”hiện nay, bao gồm:
1.2.2.1. Kiến thức
Kiến thức có thể hiểu là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mỗi người lao
động,“là“điều kiện tiên quyết trong thực hiện các nhiệm vụ và tạo ra sản phẩm công
việc.”Đăc biệt, đối với mỗi công chức, viên chức, kiến thức còn bao gồm trình độ
về lý luận chính trị.
Trình độ“là mức độ về sự hiểu biết, về kỹ năng được xác định hoặc đánh giá
theo tiêu chuẩn nhất định nào đó thể hiện ở văn bằng chứng chỉ mà mỗi người nhận
được thông qua quá trình học tập.”
“Trình độ chuyên môn nghiệp vụ”là trình độ được đào tạo ở các lĩnh vực khác
nhau theo cấp độ: Sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học. Nếu đội ngũ

21


22

công chức, viên chức không có chuyên môn nghiệp vụ, chỉ làm theo kinh nghiệm
hoặc giải quyết mang tính chắp vá tùy tiện thì chắc chắn sẽ hiệu quả không cao,

thậm chí còn mắc sai phạm nghiêm trọng.”
Trình độ Lý luận chính trị là trình độ được“đào tạo tại các”trường chính
trị,“các trường đại học”chuyên ngành Mác – Lênin, chuyên ngành Tư tưởng - Văn
hoá, chuyên ngành Tổ chức;“Được đào tạo bằng chương trình đào tạo”cán bộ cấp
chiến thuật - chiến dịch nhóm ngành“Khoa học - xã hội và Nhân văn,”Học viện
Chính trị - Quân sự, Học viện Lục quân, Quản lý - Chỉ huy quân sự (Học viện Quốc
phòng, , Học viện Khoa học quân sự). Hoặc là được đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, tiến sĩ
khoa học chuyên ngành“Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.”Trình độ Lý luận
chính trị”được phân thành 3“cấp độ: Sơ cấp, Trung cấp, Cao cấp.”
Việc xác định“trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính
trị”là“một trong các yếu tố”áp dụng để“xem xét, đánh giá, sử dụng, đề bạt, bổ
nhiệm, nâng ngạch”cán bộ, công chức nói chung theo quy định của Đảng và
Nhà nước.
1.2.2.2. Kỹ năng
Kỹ năng là năng lực thực hiện một hành động hay một hoạt động nào đó bằng
cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, cách thức hành động đúng đắn“để đạt
được mục đích đề ra.”Đây là“sản phẩm của quá trình tư duy kết hợp với việc tích
lũy kinh nghiệm”thông qua quá trình“đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, công tác.”
Kỹ năng nghề nghiệp”là“tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng của người
lao động nói chung và người công chức, viên chức nới riêng khi thực thiện nhiệm
vụ. Tuy nhiên, có những kỹ năng cần thiết và có cả những kỹ năng không thể thiếu
đối với một nhóm công chức, viên chức nhất định. Nó phụ thuộc vào tính chất công
việc mà người đó đảm nhận. Việc phân chia kỹ năng nghề nghiệp thành các nhóm là
cơ sở để xác định nội dung bồi dưỡng kỹ năng cho các nhóm công chức, viên chức
khác nhau, căn cứ vào kết quả mà các kỹ năng hướng đến thì kỹ năng nghề nghiệp
22


23


đối với công chức, viên chức có thể chia thành các nhóm sau:”

23


24

+“Nhóm kỹ năng liên quan đến đề xuất, ban hành, thực hiện và kiểm tra các
chính sách, các quyết định quản lý như kỹ năng thu thập, tổng hợp, phân tích và
đánh giá thông tin; kỹ năng triển khai quyết định quản lý; kỹ năng phối hợp; kỹ
năng đánh giá dư luận.”
+“Nhóm kỹ năng quan hệ, giao tiếp như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng lắng
nghe, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng tiếp dân.”
+“Nhóm kỹ năng tác nghiệp cá nhân như kỹ năng viết báo cáo, viết biên bản,
kỹ năng bố trí lịch công tác, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thuyết trình.”
Tất cả“các kỹ năng trên đều chịu ảnh hưởng quan trọng của trình độ chuyên
môn, khả năng cá nhân và kinh nghiệm công tác của từng người trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ. Bởi vậy, đây là nội dung phức tạp trong quá trình đánh giá công
chức, viên chức và dễ gây nhầm lẫn với trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Vì vậy, khi
đánh giá theo tiêu chí này cần xác định các kỹ năng tốt phục vụ cho hoạt động; các
kỹ năng chưa tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu; các kỹ năng cần thiết mà người công
chức, viên chức chưa có; các kỹ năng không cần thiết mà người công chức, viên
chức có.”
1.2.2.3. Phẩm chất
- Về phẩm chất đạo đức:
Phẩm chất được coi là cái “gốc” của người lao động, người cán bộ và đặc biệt
đối với“công chức, viên chức”phẩm chất quan trọng nhất là phẩm chất đạo đức.
Để“xác lập được uy tín của mình, trước hết người công chức, viên chức phải có
được phẩm chất đạo đức tốt.”
Trong bối cảnh thông tin bùng nổ với cuộc cách mạng 4.0, nền kinh tế thị

trường hướng ra quốc tế, xã hội phát sinh nhiều vấn đề phức tạp; Thêm vào đó công
tác quản lý xã hội ngày càng khó khăn, luôn“đòi hỏi người công chức, viên chức
phải tạo lập cho mình uy tín đối với nhân dân,”lãnh đạo, đồng nghiệp. Luôn gương
mẫu chấp hành tốt mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước,“thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, không tham nhũng, vụ
lợi, có tinh thần chống tham nhũng, tận tụy phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân,

24


25

quan hệ mật thiết với nhân dân, có lối sống lành mạnh, không bê tha, sâu sát với
công việc, có tác phong làm việc khoa học, dân chủ, nói đi đôi với làm”và làm
nhiều hơn nói, không quan liêu, cửa quyền, gây phiền hà cho dân.“Có tác phong
làm việc khoa học”và nghiêm túc; biết“lắng nghe, tiếp thu ý kiến của đồng nghiệp
và những người xung quanh.”
Vì vậy yêu cầu“về phẩm chất đạo đức”của đội ngũ công chức, viên chức“đòi
hỏi phải cao hơn”so với những người lao động khác vì“công chức, viên chức chính
là công bộc của dân.”Xét về bản chất thì“đây là tiêu chuẩn hàng đầu”và là tiêu
chuẩn đương nhiên. Người công chức, viên chức“nếu thiếu phẩm chất đạo đức, thì
dù có tài năng kiệt xuất cũng không thể là công bộc của dân”và sớm hay muộn sẽ bị
thay thế.
- Về phẩm chất chính trị:
“Là giá trị và tính chất tốt đẹp của con người.”Đây được coi là“yếu tố đầu
tiên, là điều kiện đối với mỗi người”công chức, viên chức.“Để trở thành người công
chức,”viên chức“có năng lực trước hết phải là người có phẩm chất chính trị tốt.”
Phẩm chất chính trị của đội ngũ công chức, viên chức“được biểu hiện trước
hết”là“sự tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng Cách mạng,”chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và luôn kiên định“với mục tiêu độc lập dân tộc và

CNXH,”không dao động trước những khó khăn, thử thách, kiên quyết đấu tranh bảo
vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Đồng
thời có những biện pháp để đường lối đó đi vào thực tiễn cuộc sống của người dân.
Người công chức, viên chức có phẩm chất chính trị tốt là một người không
chỉ“tuyên bố, hứa hẹn”suông“mà quan trọng hơn”là việc gia đình và nhất là bản
thân luôn dương mẫu,“nghiêm chỉnh chấp hành”tốt mọi chủ trương,“đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước,”kiên quyết chống lại mọi biểu hiện sai trái, lệch
lạc trong đời sống xã hội, đi trái ngược với đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước,”luôn luôn“ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái”về tư
tưởng“chính trị, đạo đức, lối sống, những”biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ.”

25


×