Một số lời dạy của Bác Hồ về đạo đức lối sống
- Đối với mình - Phải siêng nǎng, không được lười biếng, ai lười biếng không làm được
việc. Phải tiết kiệm, không xa xỉ, vì xa xỉ hoá ra tham lam, nhất là đối với tiền bạc của đoàn
thể phải rất phân minh.
Con đường giải phóng. Tháng 12 nǎm 1940.
Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh
Người làm việc trong hang đá ở
Việt Bắc
.- Học cái tốt thì khó, ví như người ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh.
Học cái xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu.
Mấy nǎm kháng chiến, các cô, các chú đã học được nhiều đức tính tốt. Về xuôi nhất là về
thành thị, sẽ có nhiều người phức tạp, nhiều thứ quyến rũ mình vào thói xấu.
Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô.
Ngày 5 tháng 9 nǎm 1954.T.7, Tr.346
- Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng.
Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có
tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai
Bài nói chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I.
Ngày 12 tháng 6 nǎm 1956. T.8, Tr.184.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí
Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh
.
1
- Công trạng của cá nhân chủ yếu là nhờ tập thể mà có. Vì vậy người có công trạng không
nên tự kiêu mà cần khiêm tốn. Khiêm tốn và rộng lượng, đó là hai đức tính mà người cách
mạng nào cũng phải có
Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao cấp
của Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục.
Tháng 5 nǎm 1957. T.8, Tr.391.
- ...Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc.
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người.
Cần với Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.
Cần mà không Kiệm, "thì làm chừng nào xào chừng ấy". Cũng như một cái thùng không có đáy;
nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không.
Kiệm mà không Cần, thì không tǎng thêm, không phát triển được. Mà vật gì đã không tiến tức phải
thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc nước đó
sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt.
....
Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả
mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn
toàn.
....
Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người
khác chính là vô lý.
Cần Kiệm Liêm Chính. Tháng 6 nǎm 1949. T.5
Hồ Chủ tịch trong phòng làm việc của Người ở
Phủ Chủ tịch nǎm 1946
2
- Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra đòi hỏi hưởng thụ, đãi ngộ. Người ta ai cũng muốn ǎn
ngon mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân ta
còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ǎn ngon mặc đẹp, như vậy là
không có đạo đức.
Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao cấp
của Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục.
Tháng 5 nǎm 1957. T.8, Tr.391
... Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân,
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần.
Bốn tháng rồi. Nhật ký trong tù.
Nǎm 1942-1943. T.3, Tr.387
- Trong cuộc đấu tranh to lớn, lâu dài, gay go, ít nhiều đảng viên, ít nhiều nơi không tránh khỏi
những khuyết điểm như: chủ quan, hẹp hòi, mạo hiểm, hủ hoá, xa quần chúng, chủ nghĩa địa
phương, không giữ kỷ luật, làm việc luộm thuộm, tự kiêu, tự mãn v.v.
- Dù đó là những chứng bệnh thành niên, nhưng từ nay, Đảng đòi hỏi các đảng viên phải kiên quyết
tẩy cho kỳ sạch những bệnh ấy. Vì nếu không trị cho khỏi hết, thì nó có thể lây ra mà trở nên rất
nguy hiểm cho Đảng.
Kiểm điểm công việc của Đảng. Tháng 1 nǎm 1949.
Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh
- Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ thì là ngừng lại. Trong khi mình ngừng lại thì người ta cứ tiến
bộ. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu.
Tiến bộ không giới hạn. Mình cố gắng tiến bộ, thì chắc tiến bộ mãi.
Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển
điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình.
Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình
Cần kiệm liêm chính. Tháng 6 nǎm 1949. T.5, Tr. 644
Từ chiếc máy chữ này của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra đời nhiều vǎn kiện quan hệ đến
vận mệnh của Tổ quốc
3
- Thang thuốc chữa bệnh quan liêu:
+ Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.
+ Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.
+ Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.
+ Phải làm kiểu mẫu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư.
Phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Báo Sự thật, số 140,
ngày 2tháng 9 nǎm 1950. T.6, Tr.90
- Dao có mài, mới sắc.
Vàng có thui, mới trong.
Nước có lọc, mới sạch.
Người có tự phê bình, mới tiến bộ.
Tự phê bình. Báo Nhân dân, số 9,
ngày 20 tháng 5 nǎm 1951. T.6. Tr.209
- Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và
thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên quyết chống cái thói "cả vú lấp
miệng em", ngǎn cản quần chúng phê bình.
Nhiệm vụ của chi bộ ở các cơ quan.
Báo Nhân dân, số 176, từ ngày 6 đến 10-4-1954. T.7, Tr.269
Nhân dịp báo Công An Nhân Dân ngày 6/7/2009 có đăng bài "Sự
vô trách nhiệm hay tội “gắp lửa bỏ tay người” phản bác ý
kiến của tác giả Lữ Phương (và vài người khác) về Chủ tịch Hồ
Chí Minh, tác giả Lữ Phương nhờ
viet-studies
đăng một số tư liệu
dưới đây mà Lữ Phương sưu tầm từ nguồn của Đảng để "tặng
báo Công An Nhân Dân"
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Tổng tư lệnh tối cao
4
MỘT CHÚT TƯ LIỆU VỀ VIỆC VIẾT
VÀ CÔNG BỐ
DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ
MINH
Thông báo của Bộ Chính trị về một số vấn đề liên quan
đến di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh
/>
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một bản Di
chúc vô cùng quý báu. Di chúc được công bố ngay sau khi Bác qua đời và đã trở
thành một nguồn cổ vũ lớn đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến lên
giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng tổ quốc, thống nhất đất nước và đưa
nước nhà vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Song do hoàn cảnh lịch sử lúc
bấy giờ mà có một số điều chưa được công bố. Nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày
Bác qua đời và chuẩn bị kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Bác, Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) thấy có trách nhiệm thông báo đến toàn
5
Đảng, toàn dân một số vấn đề liên quan đến Di chúc của Bác và ngày Bác qua
đời.
1. Về tài liệu gốc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Năm 1965, Bác viết bản Di chúc gồm ba trang, do chính Bác đánh máy, ở cuối
đề ngày 15-5-1965. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh, có chữ ký của Bác và bên
cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng hồi bấy giờ.
- Năm 1968, Bác viết bổ sung thêm một số đoạn, gồm 6 trang viết tay.
Trong đó, Bác viết lại đoạn mở đầu và đoạn nói “về việc riêng” đã viết trong bản
năm 1965 và viết thêm một số đoạn. Đó là những đoạn nói về những công việc
cần làm sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi,
như: chỉnh đốn lại Đảng, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn
thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng lại thành
phố và làng mạc, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố quốc phòng,
chuẩn bị thống nhất đất nước. Trong đó đoạn viết về chỉnh đốn lại Đảng và chăm
sóc đối với thương binh, Bác viết rồi lại gạch chéo; đoạn nói về xây dựng lại đất
nước, phát triển kinh tế, văn hóa, chuẩn bị thống nhất đất nước, Bác gạch dọc ở
bên trái ngoài lề.
- Ngày 10-5-1969, Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di chúc, gồm một trang viết
tay.
- Các năm 1966, 1967 Bác không có những bản viết riêng.
2. Về bản Di chúc đã được công bố chính thức tháng 9-1969 sau khi Chủ
tịch Hồ Chí Minh qua đời
6
Hội nghị bất thường của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) họp chiều
ngày 3-9-1969 đã giao cho Bộ Chính trị trách nhiệm công bố Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Bản Di chúc được công bố chính thức chủ yếu dựa theo bản
Bác viết năm 1965, trong đó có một số đoạn được bổ sung hoặc thay thế bằng
những đoạn tương ứng Bác viết năm 1968 và năm 1969. Cụ thể cơ cấu của bản
Di chúc đã công bố chính thức như sau:
- Đoạn mở đầu lấy nguyên văn toàn bộ đoạn mở đầu Bác viết năm 1969, thay
cho đoạn mở đầu Bác viết năm 1965. Bút tích của Bác về đoạn này đã được chụp
lại và công bố đầy đủ năm 1969.
- Phần giữa, từ đoạn nói về Đảng đến hết đoạn nói về phong trào cộng sản thế
giới và nguyên văn bản Bác viết năm 1965.
- Đoạn “về việc riêng”, năm 1965 Bác dặn dò về việc tang và viết về hỏa
táng, dặn để lại một phần tro, xương cho miền Nam; năm 1968, Bác viết lại
đoạn này dặn để tro vào ba hộp sành, cho Bắc, Trung, Nam mỗi miền một
hộp. Ngoài ra còn viết bổ sung một đoạn nói về cuộc đời của bản thân như sau:
“Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc
là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Bản Di chúc đã công bố lấy nguyên văn đoạn Bác viết về bản thân năm 1968,
trừ đoạn nói về hỏa táng.
- Đoạn cuối, từ chữ “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu...” cho đến hết
là nguyên văn đoạn Bác viết năm 1965. Về đoạn này, năm 1968 và năm 1969
Bác không sửa lại hoặc viết thêm.
- Trong bản Di chúc đã công bố, các đoạn đều lấy nguyên văn bản gốc, chỉ có
một câu có sửa lại. Bản năm 1965 Bác viết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể
sẽ kéo dài mấy năm nữa”; bản công bố chính thức sửa lại là: “Cuộc kháng chiến
chống Mỹ có thể còn kéo dài”.
7