Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

SKKN Lựa chọn một số bài tập phát triển sức bền bật nhảy nâng cao hiệu quả đập bóng của đội tuyển bóng chuyền nam khối 12 trường THPT Tam Đảo II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.37 KB, 38 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

1. Lời giới thiệu
Giáo dục thể chất trong trường học là một mặt giáo dục quan trọng không
thể thiếu được trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, góp phần thực hiện mục tiêu:
“Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài” cho đất nước, để cho mỗi
công dân, nhất là thế hệ trẻ có điều kiện “Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về
thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Để đáp ứng nhu cầu đòi
hỏi ngày càng cao của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Giáo dục
thể chất học đường thực sự có vị trí quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ phát
triển toàn diện, hoàn thiện về nhân cách, trí tuệ và thể chất để phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững và tăng cường an ninh, quốc phòng.
Muốn phát triển được phong trào thể dục thể thao của đất nước không thể coi nhẹ vai
trò của giáo dục thể chất trong trường học
Trường THPT Tam Đảo II cũng đã và đang triển khai chương trình GDTC
cho học sinh trong đó có môn bóng chuyền. Bóng chuyền là một môn thể thao tập
thể, thuộc loại hình đối kháng không cùng sân, có những đặc điểm riêng biệt về kỹ
năng, chiến thuật, thi đấu, tâm lý và thể lực, yêu cầu cao đối với VĐV về tính điêu
luyện, kỹ xảo, toàn diện, nghệ thuật cao của các hành động kỹ thuật phục vụ cho
chiến thuật đa dạng, biến hóa dựa trên cơ sở thể lực vững vàng và luôn ổn định về
tâm lý cho các cuộc thi đấu gay go, căng thẳng quyết liệt và kéo dài. Để thực hiện
được điều đó đòi hỏi mỗi VĐV, người tập phải hội tụ cho mình cả về kỹ - chiến
thuật và thể lực tốt, nên yêu cầu VĐV phải có khả năng thích ứng phù hợp. Như
vậy trình độ thể lực phải đạt tới mức độ cao mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Bóng chuyền là một môn thể thao được giảng dạy trong trường phổ thông
và được thi đấu rộng rãi ở các cấp cả địa phương và cấp tỉnh.
Trường THPT Tam Đảo II sau 14 năm thành lập, đã tham gia thi đấu nhiều
giải và chưa giành được thành tích như mong muốn. Trong thi đấu thành tích của
đội tuyển vẫn chưa thực sự tốt. Một trong những nguyên nhân phải nói tới là sức
bền bật nhảy của đội tuyển vẫn còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, việc tìm kiếm giải pháp
nhằm nâng cao sức bền bật nhảy của đội tuyển Bóng chuyền nam trường THPT


Tam Đảo II là điều cần thiết.

1


Với thời gian công tác tại trường THPT Tam Đảo II, tôi xin phép được đưa ra
sáng kiến kinh nghiệm về: “Lựa chọn một số bài tập phát triển sức bền bật nhảy
nâng cao hiệu quả đập bóng của đội tuyển bóng chuyền nam khối 12 trường THPT
Tam Đảo II” với mục đích nâng cao hơn nữa thành tích thi đấu Bóng chuyền của
trường THPT Tam Đảo II.
2. Tên sáng kiến
“ Lựa chọn bài tập phát triển sức bền bật nhảy nâng cao hiệu quả đập bóng của đội
tuyển bóng chuyền nam khối 12 trường THPT Tam Đảo II”
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Tạ Tấn Hiệu
- Địa chỉ: Bồ Lý –Tam Đảo – Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0978757085
- Email:
4. Chủ đầu tư sáng kiến
Tác giả cùng với sự hỗ trợ của các tổ nhóm chuyên môn, Trường THPT Tam
Đảo 2, về kinh phí, đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật trong quá trình viết sáng kiến và
dạy thực ngiệm sáng kiến.
5. Lĩnh Vực áp dụng sáng kiến
- Lĩnh vực thể dục thể thao (áp dụng trong tập luyện và thi đấu môn bóng chuyền).
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu
“Lựa chọn bài tập phát triển sức bền bật nhảy nâng cao hiệu quả đập bóng
của đội tuyển bóng chuyền nam khối 12 trường THPT Tam Đảo II” được dạy thực
nghiệm ở trường THPT Tam Đảo 2 từ Ngày 07 tháng 9 năm 2019.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1 Lí do chọn đề tài

Thể dục thể thao (TDTT) là một lĩnh vực hoạt động không thể thiếu được
trong đời sống xã hội. Nó không những đóng vai trò quan trọng trong việc bồi
dưỡng nâng cao sức khoẻ cho con người mà còn là một trong những phương tiện

2


huấn luyện chuẩn bị tri thức kỹ năng kỹ xảo, hoàn thiện nhân cách đạo đức, các
phẩm chất quan trọng cho con người.
Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Bộ văn hoá,
thể thao và du lịch. Bóng chuyền nước ta có những bước phát triển vượt bậc, có vị
trí cao ở khu vực Đông Nam Á. Trong hệ thống giáo dục thể chất Bóng chuyền
được coi như là một trong những môn TDTT trọng điểm của nước ta.
Để nhanh chóng tiếp cận với nền Bóng chuyền tiên tiến trên thế giới, chúng
ta cần nghiên cứu sâu xu thế phát triển bóng chuyền hiện đại và xây dựng một cách
khoa học quy trình đào tạo huấn luyện viên (HLV), vận động viên (VĐV) bóng
chuyền cấp cao.
Tổng kết bóng chuyền thế giới trong mấy năm gần đây, các chuyên gia bóng
chuyền cho thấy:
Nhìn chung bóng chuyền hiện đại ngày nay rất phát triển theo các xu hướng.
- Nhảy phát bóng, đập bóng theo hình thang và hình tháp.
- Chuyên môn hoá từng vị trí sử dụng VĐV Libero.
- Tấn công nhanh, bất ngờ.
- Xu thế đập bóng lao.
Để đáp ứng những xu thế trên đòi hỏi VĐV có một trình độ chuẩn bị thể lực, tâm lý
vững vàng, kỹ chiến thuật biến hoá, đặc biệt chú trọng chiều cao và sức bật của VĐV. Chiều
cao và sức bật của VĐV sẽ giúp VĐV chắn bóng tốt, mở rộng phạm vi hoạt động tấn công
trên lưới hạn chế khả năng tấn công của đối phương.
Bóng chuyền là một môn thể thao thi đấu tập thể mang tính chất đối kháng
gián tiếp, hoạt động thi đấu kéo dài và có tính chất đặc thù đó là sức bật. Trong suốt

thời gian thi đấu, những hoạt động đập bóng, chắn bóng, nhảy chuyền hai, nhảy
phát (ở một số đội) đòi hỏi các cầu thủ phải gắng sức, tiêu hao năng lượng nhiều.
Điều đó thể hiện tính đối kháng rất rõ ở các khâu tấn công (đập bóng) trên lưới.
Ngoài sự hỗ trợ của chiều cao thì sức bật là tố chất không thể thiếu được để giúp
các cầu thủ nâng cao trọng tâm cơ thể chiếm lĩnh một khoảng không trên lưới có
thể đập, chắn và nhảy chuyền bóng một cách có hiệu quả trong mọi tình huống. Vì
vậy, sức bền bật nhảy giữ vai trò quan trọng trong môn Bóng chuyền.

3


Trường THPT Tam Đảo II sau hơn 14 năm thành lập, đã tham gia thi đấu thể
thao Hội khỏe Phù Đổng Tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ x năm 2019 và chưa giành được
thành tích như mong muốn. Tuy nhiên, trong thi đấu Bóng chuyền, thành tích của
đội tuyển vẫn chưa thực sự tốt. Một trong những nguyên nhân phải nói tới là sức
bền bật nhảy của đội tuyển vẫn còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, việc tìm kiếm giải pháp
nhằm nâng cao sức bền bật nhảy của đội tuyển Bóng chuyền nam trường THPT
Tam Đảo II là điều cần thiết.
Với thời gian công tác tại trường THPT Tam Đảo II, tôi xin phép được đưa
ra sáng kiến kinh nghiệm về: “ Lựa chọn bài tập phát triển sức bền bật nhảy
nâng cao hiệu quả đập bóng của đội tuyển bóng chuyền nam khối 12 trường
THPT Tam Đảo II” với mục đích nâng cao hơn nữa thành tích thi đấu Bóng
chuyền của trường THPT Tam Đảo II.

4


7.2. Tổ chức nghiên cứu
7.2.1. Đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi học sinh THPT
7.2.1.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh THPT

* Đặc điểm tâm lý chung
Lứa tuổi này, học sinh muốn chứng tỏ mình là người lớn, muốn được mọi
người biết đến và tôn trọng mình. Các em đã có một trình độ nhất định, có khả
năng phân tích tổng hợp hơn, muốn hiểu nhiều biết rộng, thích hoạt động, có nhiều
hoài bão nhưng cũng còn không ít những nhược điểm.
* Đặc điểm tâm lý trong học tập
Hoạt động học tập của học sinh THPT đòi hỏi tính năng động, tính độc lập ở
mức độ cao hơn nhiều so với học sinh Trung học cơ sở đồng thời cũng đòi hỏi phải
phát triển tư duy lý luận để nắm vững nội dung một cách sâu sắc.
Thái độ học tập ở lứa tuổi này được thúc đẩy bởi động cơ học tập mà ý nghĩa
nhất là động cơ thực tiễn. Trong hoạt động TDTT, nếu các em có động cơ đúng đắn
sẽ tích cực tập luyện, thi đấu để thực hiện mục đích hoạt động thể thao. Điều này
đòi hỏi trong công tác đào tạo, giáo viên (GV) và huấn luyện viên ( HLV) cần định
hướng cho các em xây dựng được động cơ đúng đắn để có được hứng thú trong học
tập nói chung và trong công tác GDTC nói riêng.
Mặt khác, ở lứa tuổi này đa số các em thường tỏ ra tích cực học một số môn
mà các em cho là quan trọng với nghề của mình còn các môn học khác chỉ học sao
nhãng hoặc chỉ học để đạt điểm trung bình. Do vậy, GV và HLV cần giúp cho học
sinh hiểu được ý nghĩa và chức năng của giáo dục phổ thông đối với giáo dục
chuyên ngành.
Ngoài ra, ở lứa tuổi này nếu GV và HLV có được thiện cảm và sự tôn trọng
của các em thì đó là một trong những điều kiện thuận lợi cho công tác giảng dạy và
huấn luyện.
* Đặc điểm tâm lý trong sự phát triển trí tuệ
Ở lứa tuổi THPT, quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện
hơn. Tuy nhiên quan sát của các em cũng khó có hiệu quả nếu thiếu sự chỉ đạo của
GV, HLV.
Mặt khác, ở lứa tuổi này các em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo
tính logic, tư duy chặt chẽ hơn và lĩnh hội được bản chất của vấn đề cần học tập.


5


Điều đó sẽ giúp GV, HLV có thể sử dụng phương pháp trực quan kết hợp với giảng
giải, phân tích sâu sắc các chi tiết kĩ thuật động tác.
Bên cạnh đó, các phẩm chất ý chí của lứa tuổi này đã rõ ràng hơn và mạnh
mẽ hơn, giúp cho học sinh có thể hoàn thành được những bài tập khó, đòi hỏi sự
khắc phục khó khăn lớn trong tập luyện.
7.2.1.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT
* Đặc điểm sinh lý chung
Ở lứa tuổi THPT, cơ thể đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, các bộ phận của
cơ thể vẫn tiếp tục lớn lên nhưng chậm dần. Chức năng sinh lý tương đối ổn định,
khả năng hoạt động của cơ thể cũng nâng cao hơn. Có ý nghĩa nhất đối với công tác
giáo dục và huấn luyện là sự phát triển mạnh mẽ của các hệ cơ quan cũng như thể
lực đang dần đạt tới hoàn thiện.
* Hệ thần kinh
Kích thước não và hành tuỷ đạt đến mức của người trưởng thành. Khả năng
tư duy, khả năng phân tích, tổng hợp và trừu tượng hoá được phát triển tạo điều
kiện thuận lợi cho việc hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Đây là đặc
điểm thuận lợi để các em nhanh chóng tiếp thu và hoàn thành kĩ thuật động tác.
Tuy nhiên, đối với một số bài tập mang tính đơn điệu thiếu hấp dẫn sẽ làm
cho học sinh chóng mệt mỏi. Do đó, cần thay đổi nội dung, hình thức tập luyện
theo hướng đa dạng, phong phú. Đặc biệt, tăng cường hình thức thi đấu và trò chơi
vận động để gây hứng thú và tạo điều kiện hoàn thành tốt các bài tập đề ra. Cần lưu
ý, khi sử dụng những bài tập này phải tính đến đặc điểm sinh lý của học sinh.
*. Hệ vận động
Hệ vận động bao gồm hệ xương và hệ cơ
Lứa tuổi học sinh THPT, hệ xương bắt đầu giảm tốc độ phát triển. Các
xương như xương bàn tay, xương cổ tay hầu như đã hoàn thiện nên các em có thể
tập luyện một số động tác treo, chống, mang, vác nặng mà không làm tổn hại hoặc

không tạo ra sự phát triển lệch lạc của cơ thể. Do vậy, trong quá trình GDTC có thể
sử dụng các bài tập có khối lượng vận động và cường độ vận động tương đối lớn.
Hệ cơ phát triển chậm so với hệ xương, tuy vậy các bắp cơ lớn phát triển
tương đối nhanh ( cơ đùi, cơ cánh tay). Cùng với sự phát triển của cơ thể, tiết diện
sinh lý cơ tăng lên nhanh chóng, thần kinh chi phối các cơ tập trung hơn cho nên

6


sức mạnh của các cơ cũng tăng lên rõ rệt. Do vậy, cần tập những bài tập phát triển
sức mạnh để góp phần thúc đẩy sự phát triển các cơ.
* Hệ tuần hoàn
Ở lứa tuổi THPT, hệ tuần hoàn đang phát triển và đi đến hoàn thiện. Buồng
tim, hệ thống điều hoà vận mạch phát triển tương đối hoàn chỉnh. Phản ứng của hệ
tuần hoàn trong vận động tương đối rõ rệt nhưng sau vận động mạch đập và huyết
áp hồi phục tương đối nhanh chóng. Vì thế, lứa tuổi này có thể tập những bài tập
dai sức và những bài tập có khối lượng và cường độ vận động tương đối lớn. Tuy
nhiên, khi sử dụng bài tập này cần phải thận trọng và thường xuyên phải kiểm tra
theo dõi trạng thái sức khoẻ của học sinh.
* Hệ hô hấp
Hệ hô hấp đã phát triển tương đối hoàn thiện. Dung lượng phổi tăng lên
nhanh chóng. Lứa tuổi này có sự thay đổi rõ rệt về độ dài của chu kì hô hấp. Dung
tích sống và thông khí phổi tối đa tăng, khả năng hấp thụ oxy lớn, phổi phát triển
mạnh. Tuy nhiên, các cơ hô hấp vẫn còn yếu nên sự co giãn của lồng ngực nhỏ, chủ
yếu là co giãn cơ hoành. Do đó, GV và HLV cần hướng dẫn cho học sinh khi tập
luyện phải thở sâu và tập trung chú ý thở bằng ngực.
7.2.2. Bài tập thể chất – phương tiện chuyên môn cơ bản phát triển các tố chất
thể lực
Ngày nay, để đạt được thành tích thể thao cao người ta phải sử dụng các
phương tiện khác như : Vệ sinh, điều kiện tự nhiên, môi trường... Trong đó, quan

trọng nhất là bài tập thể chất – phương tiện chuyên môn cơ bản nhằm phát triển các
tố chất thể lực, nâng cao thành tích thể thao, phù hợp với mục đích, nhiệm vụ của
quá trình huấn luyện. Tính mục đích của một bài tập trong huấn luyện thể thao
thành tích cao thể hiện ở chỗ, chúng được sử dụng để phát triển thành tích trong
môn thi đấu lựa chọn.
Dưới góc độ tâm lý, Phạm Ngọc Viễn và Lê Văn Xem [11], [14] cho rằng,
các hoạt động TDTT luôn luôn gắn bó với các hành vi vận động nhất định. Nếu
những hành vi đó được tổ chức tương ứng với các quy luật của GDTC thì người ta
gọi đó là các bài tập thể chất. Dấu hiệu nổi bật, quan trọng của bài tập thể chất là
tương ứng giữa hình thức và nội dung vận động với bản chất của GDTC, với các
quy luật tiến hành việc giáo dục đó.
Về nội dung của các bài tập thể chất bao gồm các cử động tạo nên nó và các
quá trình tâm, sinh lý xảy ra trong cơ thể khi thực hiện bài tập ấy.

7


Về hình thức các bài tập thể chất là cấu trúc bên trong và bên ngoài của nó.
Cấu trúc bên trong thể hiện ở các quá trình khác nhau của hoạt động chức năng của
cơ thể, các quá trình phối hợp thần kinh cơ... Cấu trúc bên ngoài của bài tập thể
chất là hình dáng của nó có thể nhìn thấy được và đặc trưng của các quan hệ các
thông số không gian, thời gian, động lực cũng như quỹ đạo vận động của các bộ
phận cơ thể tham gia động tác.
Người ta có thể chia thành các nhóm bài tập thể chất sau:
+ Bài tập thể chất bao gồm các động tác đơn giản, các phần riêng lẻ của thân
thể con người: Động tác tay, chân, thân mình, đầu...
+ Bài tập thể chất bao gồm các động tác di chuyển toàn bộ thân thể khi tập
luyện trên các dụng cụ: Xà kép, vòng treo, xà đơn...
+ Các động tác di chuyển trong không gian, có khi phải vượt qua các chướng
ngại vật bên ngoài: Đi bộ thể thao, chạy, leo trèo...

+ Các bài tập với những dụng cụ khác nhau: Nâng tạ, ném, bài tập với gậy...
+ Các bài tập thể chất ở các môn thể thao đối kháng tiếp xúc thể lực mạnh
giữa các đối thủ: Vật, quyền anh, đấu kiếm....
+ Các bài tập trong các môn bóng.
Tóm lại, dưới góc độ tâm lý, bài tập thể thao là bài tập vận động thể lực nên
trong nó có sự chi phối của quy luật tâm lý vận động. Do đó, trong quá trình huấn
luyện tâm lý về mặt nhận thức phải làm cho học sinh hiểu rõ bản chất tâm lý của
con người là sự biểu hiện về chất của hoạt động thể lực thể hiện ở các khía cạnh
nhanh, mạnh, bền, khéo léo trong hành động. Đồng thời phải tạo được biểu tượng
đúng đắn về cấu trúc thành phần của mỗi tố chất thể lực. Về mặt thực hành, muốn
phát triển được tố chất thể lực nói riêng và năng lực vận động thể lực nói chung
phải tổ chức cho học sinh thực hiện các bài tập thể chất có định hướng giáo dục tâm
lý chung và giáo dục tố chất thể lực riêng biệt.
Theo Harre. D(1996)[15] cho rằng, bài tập thể chất có 3 loại chính
- Bài tập thi đấu: Là loại hình động tác có quá trình chuyển động và đặc
điểm riêng biệt về lượng vận động phù hợp với yêu cầu thi đấu chuyên môn của
môn thể thao mà VĐV đã chuyên môn hoá.
- Bài tập chuyên môn được chia ra thành hai nhóm:

8


+ Bài tập chuyên môn 1: Bao gồm các bài tập có quá trình chuyển động gần
giống các bài thi đấu nhưng đặc điểm về lượng vận động lại khác bài tập thi đấu
hoặc chỉ chứa các yếu tố riêng lẻ hay các nhóm thuộc tổ hợp các bài tập thi đấu.
+ Bài tập chuyên môn 2: Bao gồm các bài tập có chứa các chuyển động bộ
phận của quá trình chuyển động riêng biệt của kĩ thuật thể thao.
- Bài tập phát triển chung: Là các bài tập có cấu trúc rất đa dạng từ các môn
thể thao khác nhau và các bài tập thuộc loại hình thể dục cơ bản có hoặc không có
dụng cụ. Trong quá trình huấn luyện VĐV trẻ, bài tập phát triển chung có ý nghĩa

rất to lớn.
Theo các tác giả Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn (2006) [8] cho rằng bài tập
thể lực là một phương tiện chuyên môn cơ bản trong quá trình GDTC và huấn
luyện thể thao.
Các bài tập huấn luyện thể thao chia làm hai nhóm chính.
- Bài tập thi đấu: Bao gồm các động tác hoàn chỉnh được dùng làm phương
tiện cơ bản để tiến hành đua tài trong thể thao theo đúng luật thi.
- Bài tập huấn luyện: Gồm bài tập chuyên môn và bài tập huấn luyện chung.
+ Bài tập chuyên môn: Là phức hợp các yếu tố của những động tác thi đấu,
cùng các biến dạng của chúng, cũng như các bài tập dẫn dắt.
+ Các bài tập huấn luyện chung nhằm chuẩn bị chung cho VĐV, thành phần
của bài tập này rộng rãi và đa dạng.
Như vậy, qua các kết quả phân tích trên cho thấy, bài tập thể chất được chia
làm 3 loại. Trong huấn luyện, phải kết hợp hài hoà giữa huấn luyện chung và huấn
luyện chuyên môn. Vấn đề tỉ lệ giữa huấn luyện chung và huấn luyện chuyên môn
cho VĐV trong một chu kỳ huấn luyện phải có một tỉ lệ chuẩn thì mới đạt được
thành tích thể thao cao. Ngày nay, trong huấn luyện hiện đại tỉ lệ huấn luyện chung
giảm dần, tỉ lệ huấn luyện chuyên môn tăng lên.
7.2.3. Một số nét đặc trưng của môn Bóng chuyền
Bóng chuyền là một môn thể thao giàu tính xúc cảm và thông minh sáng tạo.
Đặc điểm tâm lý trong hoạt động của VĐV Bóng chuyền được xác định bởi luật thi
đấu, tính chất của hoạt động thi đấu và những đặc điểm khách quan của cuộc đấu.
Các dạng hành động chủ yếu của VĐV Bóng chuyền như sự di chuyển
nhanh, những động tác nhảy, những động tác đỡ bóng, đều có sự liên quan trực tiếp

9


tới sự mạo hiểm nhất định. Vì vậy đòi hỏi phải có sự dũng cảm và bình tĩnh tự tin.
Sự khác biệt nhất của kỹ thuật Bóng chuyền là thời gian tiếp xúc với bóng rất ngắn,

không được ném bóng và giữ bóng. Tất cả những hành động vận động luôn biến
đổi. Trong quá trình luyện tập, VĐV Bóng chuyền nắm vững toàn bộ hệ thống kỹ
năng vận động trên cơ sở số lượng lớn các động tác kỹ thuật tấn công và phòng thủ.
Tính phức tạp của hoạt động thi đấu được biểu hiện ở chỗ tất cả các động tác kỹ
thuật phải được áp dụng trong sự phối hợp và trong những điều kiện khác nhau đòi
hỏi VĐV phải có độ chính xác và năng lực phân biệt động tác tốt, biết chuyển đổi
nhanh chóng từ những hình thức động tác này sang hình thức động tác khác và thực
hiện chúng hoàn toàn khác nhau về nhịp độ, tốc độ và tính chất.
Phân tích hoạt động của VĐV Bóng chuyền cho thấy: Các VĐV có trình độ
cao, kỹ năng thi đấu được tự động hoá đến mức các động tác ở dạng phản xạ phức
tạp dường như được thực hiện như các động tác ở dạng phản xạ đơn giản. Tính bất
ngờ, sự chớp nhoáng và chính xác của hoạt động trong Bóng chuyền đòi hỏi phải
phát triển ở VĐV phản ứng nhanh, cũng như cả tốc độ động tác liên quan đến tốc
độ bay của bóng.
Do tác động của tập luyện với VĐV, những bộ phận cấu thành của thời kỳ
tiềm tàng phản ứng như: Thời điểm phân biệt, sự nhận biết, đặc biệt là thời điểm
lựa chọn động tác đã được rút ngắn tới mức tối thiểu, nhờ có sự hình thành định
hình động lực phù hợp.
Hầu hết các hoạt động trong bóng chuyền đều diễn ra trên cơ sở của cảm
nhận thị giác. Kỹ năng quan sát tình thế và sự thay đổi vị trí của các VĐV trên sân,
sự chuyển động của bóng, cũng như khả năng phán đoán nhanh trong điều kiện
phức tạp là một trong những tố chất quan trọng nhất của VĐV Bóng chuyền. Điều
đó đòi hỏi VĐV phải có khả năng quan sát rộng và phán đoán chính xác.
Tốc độ bay của bóng lớn, sự di chuyển nhanh của các VĐV, sự thay đổi
nhanh và bất ngờ của tình huống thi đấu, sự cảm thụ số lượng lớn mục tiêu hoặc
các yếu tố của chúng dẫn đến sự yêu cầu lớn với khối lượng, cường độ, tính ổn
định, sự phân phối và chuyển hướng chú ý và định hướng nhanh chóng.
Bóng chuyền là một trong những môn thể thao đầy sự hưng phấn sôi nổi.
Nhịp độ của trận đấu rất cao, thời gian kéo dài, sự căng thẳng của thi đấu đối
kháng, sự chuẩn bị các hoạt động ứng phó trong điều kiện thời gian rất ngắn, tính

hiệu quả của từng động tác và trách nhiệm trong mỗi hành động, ngoài ra sự có mặt
của đông đảo khán giả với sự cuồng nhiệt cao độ đã gây ra những cảm xúc mạnh và

10


đa dạng đã là những nhân tố gây ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới VĐV. Trạng
thái cảm xúc của VĐV Bóng chuyền ở mọi thời điểm luôn có sự thay đổi tuỳ thuộc
vào tiến trình của trận đấu, nhiều lúc dẫn đến trạng thái bị kích động hoặc thờ ơ
hoàn toàn.
Môn Bóng chuyền đòi hỏi VĐV phải có phẩm chất - ý chí rất cao. Khi các
đội có trình độ kỹ chiến thuật, thể lực như nhau thì phần thắng sẽ thuộc về đội nào
có các cầu thủ thể hiện ý trí quyết tâm giành thắng lợi cao hơn.
Bóng chuyền là môn thể thao tập thể, thành tích thi đấu được tạo lên bằng
những cố gắng của tất cả các thành viên trong đội. Nhiệm vụ và hoạt động của mỗi
thành viên trong đội phải theo đúng chức năng của mình trong đội, nhưng phải phù
hợp với nhiệm vụ chung của toàn độ. Các khái niệm như: Sự phối hợp với nhau, sự
phụ thuộc lẫn nhau, sự yểm trợ lẫn nhau, không chỉ quyết định mức độ phối hợp ăn
ý của từng cầu thủ, từng nhóm và toàn đội, mà trong chừng mực nào đó còn cho
phép đánh giá phẩm chất đạo đức của VĐV như sự giúp đỡ lẫn nhau, tình yêu
thương đồng đội và tình cảm tập thể.
Trong một vài thập kỷ trở lại đây, thành tích thể thao của nhiều môn cá nhân
cũng như tập thể đã có những bước nhảy vọt, xuất hiện nhiều kỷ lục mới. Trong
thực tế, những kỷ lục đã vượt ra ngoài sự táo bạo của con người. Số VĐV đạt được
chức vô địch của các giải khu vực, thế giới ngày càng nhiều và sự thắng thua chỉ
chênh lệch không đáng kể, trước những thành tích thể thao như vậy, đã thúc đẩy
khoa học tìm tòi nhiều phương pháp mới, những yếu tố mới, nhằm nâng cao thành
tích thể thao cho các VĐV. Trong thực tế, với những phương pháp mạnh mẽ của
khoa học kĩ thuật đã có được bước phát triển mạnh. Việc đưa những công nghệ tiêu
biểu, hiện đại, những phương pháp ưu tú và quá trình huấn luyện đã tạo tiền đề to

lớn trong việc thúc đẩy TDTT phát triển.
Ngoài toàn diện về kỹ thuật mang hướng biện pháp ra còn toàn diện về hiểu
biết và vận dụng kỹ chiến thuật cá nhân và tập thể năng lực thích ứng với hoàn
cảnh, sức khoẻ, tâm lí, nhân cách và thể lực chuyên môn. Sự toàn diện thể hiện
năng lực, trình độ thi đấu gắn chặt hữu cơ thống nhất ở con người. Tính toàn diện
này là hướng ứng dụng của toàn bộ quá trình đào tạo, huấn luyện đồng thời là yêu
cầu toàn diện của từng cá nhân VĐV, chưa kể phạm vi tổng hợp một đội bóng hình
thành sức mạnh thể hiện về trình độ thi đấu cao trước mọi đấu thủ.
Để hoàn thiện được các yêu cầu đó thì xu hướng Bóng chuyền hiện đại
thường quân tâm đến các yếu tố cao - mạnh - bền.

11


* Chiều cao
Chiều cao trong Bóng chuyền chỉ người cao, tức chiều cao đứng, tay với
( một tay và hai tay), bật tại chỗ cao, bật có đà cao và ở chừng mực nhất định thể
hiện ở khả năng vươn xa, yếu tố này tạo điều kiện cho VĐV có thể khống chế tầm
không gian chiều cao theo chiều thẳng đứng và không gian theo chiều ngang.
Trong những năm gần đây xu hướng tìm chiều cao trong Bóng chuyền được
đặc biệt quan tâm. Chiều cao của Bóng chuyền Việt Nam được tăng lên rất nhiều:
VD: Như hiện nay chúng ta có VĐV Ngô Văn Kiều với chiều cao 1,96(m) và “ Sức
bật với” có đà là 3,62(m); Nguyễn Hữu Hà cao 1,93(m) và “Sức bật với” có đà là
3,45(m)... Với đội hình rất nhiều cầu thủ cao như vậy chúng ta đạt được huy
chương bạc Segame 24 được tổ chức ở Thái Lan 2007.
* Sức mạnh:
Là năng lực cơ bắp khắc phục lực cản bên trong hoặc bên ngoài trong quá
trình vận động. Đó là một trong những tố chất thể lực cơ bản có quan hệ mật thiết
với các tố chất sức nhanh và khả năng phối hợp vận động. Đặc biệt ngoài các môn
thể thao khác thì tố chất sức mạnh trong môn Bóng chuyền là yếu tố ảnh hưởng

trực tiếp tới việc tiếp thu kỹ thuật cơ bản và ảnh hưởng tới trạng thái tâm lý của
VĐV trong tập luyện và thi đấu.
* Sức bền:
Là năng lực của cơ thể hoạt động trong thời gian dài và chống lại mệt mỏi.
Nếu huấn luyện mà không tạo ra mệt mỏi thì chức năng của cơ thể không thể nâng
cao được. Mặt khác mệt mỏi lại làm cho năng lực vận động của cơ thể giảm sút,
hạn chế sự phát huy trình độ kỹ thuật. Do vậy, trong huấn luyện thể thao nói chung
và trong huấn luyện môn Bóng chuyền nói riêng phải chú ý nhiều đến tố chất sức
bền và đặc biệt trong Bóng chuyền sức bền bật nhảy lại là một yếu tố đặc trưng và
rất quan trọng, nó quyết định trực tiếp đến thành tích thi đấu.
7.2.4. Xu hướng mới về công tác huấn luyện thể lực cho VĐV Bóng chuyền
hiện nay.
Bóng chuyền hiện đại có thể nói là môn thể thao của những người khổng lồ
được thể hiện bằng cường độ vận động cao, hành động thi đấu rất căng thẳng đòi
hỏi VĐV phát huy đến cực hạn khả năng chức phận của cơ thể và tố chất nhanh –
mạnh – bền tối đa. Huấn luyện thể lực cho VĐV Bóng chuyền nhằm mục đích nâng
cao tố chất vận động, nâng cao năng lực làm việc và sự điều khiển của hệ thần kinh
trung ương cùng các trung khu thần kinh cũng như các bộ phận của cơ thể nhằm

12


mục tiêu chung là chịu đựng sự huấn luyện với lượng vận động lớn bảo đảm trạng
thái ổn định, trạng thái sung sức thể thao, kéo dài tuổi thọ VĐV, phòng chống chấn
thương thể thao. Từ đó VĐV nắm vững kỹ chiến thuật nhanh hơn, có hiệu suất cao
hơn và không những nâng cao thành tích thể thao mang lại huy chương cho đất
nước.
Vận động của con người biểu hiện trong hoạt động thể thao phân thành các
tố chất như sức nhanh - sức mạnh - sức bền mềm dẻo và khéo léo mà bản chất của
chúng là năng lực thể chất. Tố chất vận động tốt hay không là cơ sở để nắm trước

tiên là kỹ thuật, tố chất vận động và không ngừng nâng cao nó sẽ bảo đảm nâng cao
tương xứng kỹ chiến thuật một cách ổn định, vững vàng chắc chắn. Ngược lại
muốn phát triển tố chất thể lực VĐV Bóng chuyền thì nhất thiết phải thực hiện
huấn luyện thể lực một cách toàn diện, có kế hoạch và có tính khoa học cao. Có
như vậy mới tạo được cơ sở cho việc nắm vững, ổn định, toàn diện về trình độ kỹ
thuật, chiến thuật, tâm lí của các VĐV Bóng chuyền.
Huấn luyện thể lực đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành những năng
lực hành động của VĐV và phụ thuộc trực tiếp vào kĩ chiến thuật thi đấu, vào các
chỉ số lượng vận động và căng thẳng tâm lí. Huấn luyện kĩ thuật chuyên môn được
thực hiện, tiếp thu và hoàn thiện kĩ năng, kĩ xảo trong tình huống thi đấu. Nếu mức
độ huấn luyện thể lực không cao sẽ hạn chế khả năng tiếp thu kĩ thuật, chiến thuật,
ngược lại mức độ huấn luyện thể lực cao đúng mức là yếu tố quan trọng nhất của
kế hoạch tâm lí cụ thể là tạo lòng tin thi đấu, biểu hiện cao nhất ở các tố chất, tâm
lí, ý chí những điều kiện căng thẳng cực độ. Ngày nay, thể thao được phát triển cao
cả về thể lực lẫn kĩ, chiến thuật. Do vậy việc huấn luyện thể lực cũng phải đạt đến
trình độ cao và huấn luyện lấy chiến thuật làm mục đích để yêu cầu toàn bộ các mặt
khác phục vụ nó. Chính vì thế dẫn xuất xu hướng tập luyện với thời gian cường độ,
lượng vận động lớn đã hình thành. Thi đấu Bóng chuyền hiện nay rất nhanh và gay
cấn. Do thay đổi về luật nên đòi hỏi VĐV phải có kĩ, chiến thuật, thể lực và tâm lí
tốt. Trong huấn luyện thể lực phải đảm bảo khả năng thích ứng về thể lực chuyên
môn. Để VĐV đáp ứng được với yêu cầu thi đấu đỉnh cao đòi hỏi trong huấn luyện
phải đầu tư nghiên cứu và tiến hành huấn luyện một cách nghiêm chỉnh chặt chẽ, có
tính khoa học.
Song thực tế tố chất chuyên môn cần thiết trong Bóng chuyền là sức bật, tốc
độ di chuyển, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo, đặc biệt là sức bật nhảy.
Trong thi đấu rất cần sức bật nhảy bởi nó là cơ sở để thực hiện những kỹ chiến
thuật như đập bóng, chắn bóng, nhảy chuyền hai, nhảy phát bóng. Tỉ lệ huấn luyện

13



kĩ – chiến thuật thể lực cần phải hợp lí và nhất thiết cần phải coi trọng đặc điểm cá
nhân để tiến hành huấn luyện chung. Huấn luyện chung cũng cần song phải dựa
trên cơ sở đó để huấn luyện cá biệt cho VĐV.
7.3. Mục đích nghiên cứu, Nhiệm vụ nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu
7.3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng hiệu quả đập bóng của đội tuyển Bóng
chuyền nam khối 12 trường THPT Tam Đảo II. Đề tài tiến hành lựa chọn một số bài
tập nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác huấn luyện VĐV Bóng chuyền góp
phần nâng cao hiệu quả đào tạo VĐV bóng chuyền nam trường THPT Tam Đảo II.
7.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để giải quyết mục đích nghiên cứu, đề tài đề ra các nhiệm vụ sau
* Tìm hiểu hệ thống bài tập nhằm phát triển sức bền bật nhảy của đội tuyển
Bóng chuyền nam khối 12 của trường THPT Tam Đảo II.
* Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hệ thống bài tập phát triển sức bền bật
nhảy nhằm nâng cao hiệu quả đập bóng của đội tuyển Bóng chuyền nam khối 12
trường THPT Tam Đảo II.
7.3.3. Phương pháp nghiên cứu
7.3.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm tham khảo tổng hợp, hệ thống
hoá các nguồn kiến thức có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, hình thành cơ sở lý
luận, xây dựng giả thiết khoa học, xác định mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. Đồng
thời cũng thông qua phương pháp này, chúng tôi sẽ có cơ sở lựa chọn, ứng dụng và
kiểm chứng được hiệu quả hệ thống các bài tập phát triển sức bền bật nhảy cho
nam đội tuyển Bóng chuyền trường THPT Tam Đảo II - Vĩnh Phúc.
7.3.3.2. Phương pháp phỏng vấn
Đây là phương pháp khi sử dụng cần đưa ra hệ thống các câu hỏi cho đối
tượng và dựa vào các câu trả lời để trao đổi, tổng hợp thông tin về vấn đề nghiên
cứu, rút ra kết luận chính xác, khách quan có chất lượng. Nội dung phỏng vấn của
chúng tôi xoay quanh các vấn đề thực trạng việc giáo dục tố chất sức bền bật nhảy

của đội tuyển Bóng chuyền nam trường THPT Tam Đảo II. Bên cạnh đó, chúng tôi
tiến hành phỏng vấn các GV, HLV trong việc lựa chọn các test kiểm tra và các bài
tập nhằm phát triển sức bền bật nhảy cho đối tượng nghiên cứu.

14


7.3.3.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi tiếp cận với đối tượng nghiên cứu nhằm
mục đích bao quát toàn diện những ưu điểm và nhược điểm của đối tượng nghiên
cứu. Chúng tôi đã sử dụng phương pháp này trong việc quan sát các buổi tập luyện
và thi đấu của đội tuyển Bóng chuyền nam để đánh giá sự tiếp thu lượng vận động,
khả năng phối hợp vận động. Qua đó xác định được sự phù hợp của các bài tập.
Việc quan sát này được tiến hành liên tục từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, nhờ đó
nâng cao được độ tin cậy của đề tài.
7.3.3.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm
Chúng tôi sử dụng phương pháp kiểm tra sư phạm cả hai giai đoạn trước
thực nghiệm và sau thực nghiệm dưới dạng các bài test nhằm đánh giá sự phát triển
sức bền bật nhảy cho đối tượng nghiên cứu và mức độ hiệu quả các bài tập.
7.3.3.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Với phương pháp này, chúng tôi tiến hành kiểm nghiệm tính khoa học, tính
tực tiễn và tính hiệu quả của các bài tập cả về mặt lý thuyết cũng như thực hành.
Chúng tôi tiến thành thực nghiệm so sánh 2 nhóm đối tượng là nam đội
tuyển Bóng chuyền khối 12 trường THPT Tam Đảo II - được lựa chọn ngẫu nhiên
làm nhón thực nghiệm và nhóm đối chứng với số lượng 2 nhóm bằng nhau.
+ Nhóm thực nghiệm: 9 học sinh
+ Nhóm đối chứng: 9 học sinh
Chương trình thực nghiệm được áp dụng trong 7 tuần, cả 2 nhóm đều được
tập luyện theo kế hoạch huấn luyện của đội tuyển bóng chuyền trường THPT Tam
Đảo II. Với thời gian 3 buổi mỗi tuần và mỗi buổi tập 90-120 phút. Tuy nhiên

nhóm đối chứng A sẽ không có tác động thêm của các bài tập phát triển sức bền bật
nhảy đã lựa chọn. Nhóm thực nghiệm B được áp dụng hệ thống các bài tập phát
triển sức bền bật nhảy đã lựa chọn.
7.3.3.6. Phương pháp toán học thống kê
Để phân tích kết quả nghiên cứu chúng tôi sử dụng phương pháp toán học
thống kê với một số công thức đặc trưng mà chúng tôi quan tâm sau đây.
Những tham số được sử dụng
Những tham số được sử dụng

15


- Trị số trung bình:
X=

∑x

i

n

- Phương sai:
δ2 =

∑(X − X

A

)2 + ∑ ( X − X B )2


nA + nB − 2

- So sánh hai số trung bình:
XA − XB

t=

δ2 δ2
+
n A nB

Với điều kiện n < 30
+ Đối với nA = nB chúng tôi sử dụng công thức :
XA − XB
t=
n +n
δ A B
nA . nB

Trong đó:

n: Tập hợp các cá thể
i: Cá thể thứ i
xi: Giá trị cá thể thứ

7.4. Thời gian, địa điểm, đối tượng nghiên cứu
7.4.1. Thời gian nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu từ tháng 9/ 2019 đến tháng 1/ 2020
7.4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng tiến hành nghiên cứu là 18 VĐV bóng chuyền nam khối 12 trường

THPT Tam Đảo II.
7.4.3. Địa điểm nghiên cứu
Tại trường THPT Tam Đảo II.
7.5. Tổ chức thực hiền đề tài
7.5.1. Cơ sở lí luận của việc lựa chọn một số bài tập phát triển
sức bền bật nhảy

16


7.5.1.1. Một số đặc điểm bật nhảy trong tập luyện và thi đấu Bóng chuyền
Bóng chuyền là môn thể thao thi diễn ra trong thời gian dài căng thẳng,
lượng vận động cao, hoạt động thần kinh tâm lý lớn, với các hoạt động kĩ - chiến
thuật đa dạng biến hoá theo nhịp độ khác nhau. Quá trình thi đấu diễn ra bắt đầu từ
phát bóng- đỡ bóng - tấn công, sau đỡ - phát là quá trình chắn bóng - phòng thủ –
phản công. Chính vì thế hoạt động trong tập luyện thi đấu của VĐV diễn ra tích cực
ở các khâu như tấn công, phòng thủ, lăn ngã cứu bóng, nhảy chuyền hai, nhảy phát
bóng. Thông qua quan sát chúng ta có thể thấy ở môn Bóng chuyền hoạt động bật
nhảy là một hoạt động chiếm ưu thế, trong thi đấu cũng như trong tập luyện các
tình huống thi đấu liên tục kế tiếp nhau. VĐV ít khi thực hiện động tác ở tư thế tĩnh
mà bắt buộc VĐV phải phán đoán, di chuyển nhanh chiếm vị trí tiếp cận với bóng
phối hợp động tác để thực hiện kĩ - chiến thuật có hiệu quả.
Điển hình như:
- Di chuyển nhanh chắn bóng trên luới
- Di chuyển đập bóng ở các vị trí
- Phối hợp nhảy chuyền đánh lừa đối phương
- Nhảy phát bóng mạnh.
Ngoài sự hỗ trợ về chiều cao thì tốc độ di chuyển, phản ứng động tác có liên
quan mật thiết và tạo tiền đề cho khả năng bật nhảy. Mặt khác rất quan trọng có liên
quan đến phát triển khả năng bật nhảy. Đó là yếu tố hợp lí của phối hợp kỹ thuật

động tác.
Bóng chuyền là một môn thể thao không chu kỳ, thực hiện kĩ thuật ở các tư
thế khác nhau mà kĩ thuật là yếu tố không thể thiếu được trong khi tập luyện. Ở các
đội trình độ chuyên môn cao, qua quan sát và thống kê cho thấy hiện nay VĐV
chuyền hai trong một trận đấu số lần nhảy chuyền chiếm tới 80%, thực hiện kỹ
thuật nhảy chuyền nhằm rút ngắn thời gian bóng bay trên không đánh lừa hướng
phòng thủ đối phương. Ngoài ta thực hiện tấn công hàng sau, phát bóng mạnh gây
yếu tố bất ngờ... cũng cần kết hợp sức bật nhảy để tăng lực. Đối với VĐV trẻ, khả
năng bật nhảy là tiền đề trong việc tiếp thu các động tác trên không chính xác và có
hiệu quả để phục vụ cho việc thi đấu. Qua đây chúng ta có thể thấy được mối quan
hệ mật thiết giữa
- Khả năng bật nhảy với thực hiện kĩ thuật

17


- Khả năng bật nhảy với tốc độ di chuyển, phản ứng động tác có ảnh hưởng rất
lớn đến hiệu quả trong quá trình giảng dạy và thi đấu Bóng chuyền.
7.5.1.2. Cơ sở lý luận và các yếu tố chi phối sức bền bật nhảy
* Cơ sở lý luận
Sức bền là năng lực thực hiện một hoạt động với cường độ cho trước hay là
năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có thể chịu
đựng được. Sức bền chuyên môn là năng lực duy trì khả năng vận động cao trong
các loại hình bài tập nhất định. Để giáo dục sức bền chuyên môn phải dựa trên hai
đặc điểm dưới đây:
- Phát triển sức bền chuyên môn người ta sử dụng bài tập chuyên môn hoá
cho vận động là chính.
- Các bài tập để phát triển sức bền chuyên môn được thực hiện với cường độ
gần với cường độ thi đấu, nếu thấp hơn thì sẽ không có hiệu quả.
Nếu trong huấn luyện nâng cao sức bền chung mà thời gian kéo dài và khối

lượng bài tập có ý nghĩa quyết định, thì điều quan trọng đối với sức bền chuyên
môn là xác định tương quan tối ưu giữa cường độ và khối lượng bài tập, căn cứ vào
loại hình chuyên môn hoá, trình độ tập luyện của VĐV, thời kì tập luyện. Tuy nhiên
trong khi huấn luyện sức bền chuyên môn cần phải xây dựng nền tảng vững chắc
của nó là sức bền chung.
Trong công tác huấn luyện sức bền bật nhảy đối với môn Bóng chuyền thì cơ
sở trước tiên là giáo dục sức mạnh.
* Các yếu tố chi phối sức bền bật nhảy
Trong môn Bóng chuyền cấu trúc của các động tác bật nhảy đập bóng thường bao
gồm các giai đoạn sau:
- Chạy đà.
- Bật nhảy trên không đánh bóng và tiếp đất.
Chạy đà thông thường từ 1 - 3 bước trong tình huống nhảy trong thi đấu
bóng chuyền có những trận phải bật nhảy 140 - 180 lần. Đặc biệt là những VĐV
chủ công số lần bật nhảy còn nhiều hơn và vì vậy số lần chạy đà cũng nhiều hơn.
Mặc dù trong chạy đà có những yêu cầu khác nhau với các bước chạy, song các
bước chạy vẫn mang tính chất chu kỳ của nó và nó cũng phụ thuộc một phần vào
yếm khí đó là sự phân giải ATP, CP nhưng về cuối hiệp do sự suy giảm các chất

18


giàu năng lượng (ATP và CP) nên việc chạy đà bật nhảy còn phải dựa vào cả hệ
cung cấp năng lượng gluco phân, thậm chí hệ ôxy hoá nếu chạy đà bật nhảy liên
tục.
Từ sự phân tích trên có thể nhận xét muốn nâng cao được sức bền bật nhảy
thì phải nâng cao cả sức bền yếm khí và sức bền ưa khí.
Xét về mặt bật nhảy trên không đánh bóng thì động tác bật nhảy phụ thuộc
vào sức bền yếm khí, có ý nghĩa ở sự dự trữ các chất giàu năng lượng và tái tạo các
chất giàu năng lượng (ATP và CP) đồng thời phụ thuộc vào sức bền thần kinh.

Trong quá trình thi đấu các xung thần kinh được huy động để tham gia vào các hoạt
động rất lớn. Vì vậy cường độ các xung động thần kinh từ vỏ đại não đến cơ quan
vận động cùng thần kinh cơ bị giảm sút chức năng do mệt mỏi.
Một yếu tố không thể thiếu được đó là yếu tố về kĩ thuật, trình độ và trạng
thái tâm lí ( ý chí) chi phối tới sức bền bật nhảy theo các nhà sinh lý học khi các
yếu tố này đạt tới tự động hoá thì năng lượng tiêu hao cho vận động sẽ giảm tới
mức tối thiểu và sản sinh hiện tượng tiết kiệm hoá trong vận động. Lúc này tăng
quá nhanh quá trình cạn kiệt năng lượng từ đó giúp cho quá trình hoạt động được
kéo dài hay nói cách khác là sức bền bật nhảy được nâng lên.
Sau khi tham khảo tài liệu chuyên môn thấy rằng có 9 yếu tố cơ bản ảnh
hưởng tới khả năng phát triển sức bền bật nhảy của VĐV Bóng chuyền:
- Trạng thái tâm lí ( ý chí)
- Khả năng phối hợp.
- Trình độ luyện tập.
- Kĩ thuật.
- Đặc điểm sinh lí lứa tuổi.
- Sức bền ưa khí.
- Sức bền yếm khí.
- Sức mạnh bột phát.
- Sức bền thần kinh.
Qua sự phân tích và lựa chọn ra được 9 yếu tố thấy rằng trong công tác giảng
dạy và huấn luyện chúng ta cần phối hợp các bài tập sao cho phù hợp, mang tính
khoa học để nó thúc đẩy nhau cùng phát triển các tố chất khác.

19


7.5.1.3. Tìm hiểu hệ thống các bài tập nhằm phát triển thể lực chuyên môn
* Bài tập phát triển sức mạnh
Sức mạnh của VĐV là khả năng vượt qua những cản trở chống đối bên ngoài

bằng sự gắng sức của cơ. Sức mạnh của cơ phụ thuộc chủ yếu và tốc độ chuyển
động và tạo điều kiện để VĐV thể hiện sức bền và sự khéo léo. Biểu hiện sức mạnh
rõ nét trong Bóng chuyền là ở động tác đánh bóng ( phát bóng, đập bóng, nhảy
chắn bóng và nhảy chuyền bóng, trong di chuyển ngã cứu bóng). Để phát triển sức
mạnh cần sử dụng các bài tập có sức cản khác nhau, khắc phục trọng lượng cơ thể (
ngồi xuống, đứng lên, treo và co tay, chống đẩy tay, nhảy....) với đồng đội và các
bài tập đặc trưng cho Bóng chuyền có sử dụng trọng lượng phụ.
- Các bài tập khắc phục trọng lượng
+ Nâng tạ trọng lượng từ 20 – 30kg
+ Giật tạ trọng lượng 10 – 15kg
+Gập người với tạ trọng lượng 15 - 20kg
+ Ngồi xuống đứng lên với tạ 35 – 50 kg trên vai.
+ Ném (đẩy) vật nặng ( đá, tạ bình vôi, tạ ném bóng nhồi).
+ Các bài tập với tạ bình vôi từ 15 – 20kg( tung bắt, cử nâng, cử giật. )
+ Các bài tập với đĩa tạ (gập thân về trước, nghiêng 2 bên, giật đĩa tạ trong
các tư thế khác nhau, quay tay...)
Lúc đầu các bài tập khắc phục trọng lượng thực hiện với tốc độ chậm sau đó
nhanh, các bài tập nhảy với trọng lượng có tác dụng phát triển sức mạnh hiệu quả
hơn so với không có trọng lượng.
- Các bài tập khắc phục trọng lượng cơ thể:
+ Nằm sấp chống đẩy trên các ngón tay
+ Nằm sấp bật đẩy tay, chân rời khỏi vị trí trên sàn.
+ Ngồi chống tay phía sau – di chuyển bằng tay và chân trên sàn.
+ Nằm sấp chống tay – di chuyển về trước không có sự tham gia của chân
(có người phục vụ)
+ Các động tác nhảy: Nhảy bật lên, bật ngang bằng một chân và hai chân tại
chỗ, bật nhảy về trước bằng một chân, bật xa không đà hoặc có đà, nhảy ba bước,
nhảy bật cao.

20



Thời gian thực hiện một lượt các bài tập trên đến khi xuất hiện mệt mỏi, còn
số lượng tập do nhiệm vụ các bài tập xác định. Thời gian nghỉ là đến khi mỗi VĐV
đã sẵn sàng bắt đầu tập lượt tiếp theo.
- Các bài tập hai người
+ Vác đồng đội chạy
+ Vác đồng đội trên vai đứng lên ngồi xuống
+ Kéo tay nhau gập thân, vật tay (2-3 phút)
- Các bài tập vật nặng mang tính đặc thù của Bóng chuyền.
+ Mô phỏng động tác chắn bóng khi có mang thêm trọng lượng vào người.
+ Ném đá giống cấu trúc động tác đập bóng.
+ Ném bóng nhồi (trọng lượng 1- 3kg) qua lưới.
+ Mô phỏng động tác đập bóng trên giá đập bóng.
- Các phương pháp phát triển sức mạnh.
+ Phương pháp đến cực hạn ( để tăng khối lượng cơ và kiện toàn cơ bắp) là
bài tập được thực hiện nhiều lần, nhịp độ tương đối chậm với trọng lượng từ 50 –
70% trọng lượng tối đa và VĐV nâng đến khi mệt mỏi không nâng đươc nữa thì
thôi.
+ Phương pháp nỗ lực gắng sức là thực hiện nhiều lần cùng một bài tập với
trọng lượng 80 – 90% trọng lượng tối đa mà VĐV nâng được. Thời gian nghỉ giữa
các đợt tập từ 4 – 6 phút. Mỗi buổi từ 5 – 8 tổ.
+ Phương pháp lặp lại là thực hiện các bài tập nhiều lần khắc phục lực đối
kháng chưa tới giới hạn với tốc độ giới hạn. Liều lượng tập luyện, số lần lặp lại 20
– 30 lần. Thời gian nghỉ giữa các đợt 2 – 4 phút, mỗi buổi từ 6-8 tổ.
+ Phương pháp tập luyện vòng tròn có đặc điểm là liên tục qua các trạm, tại
mỗi trạm cần thực hiện các bài tập có tác dụng huấn luyện cụ thể.
Các bài tập phát triển sức mạnh cần được thực hiện luân phiên với các bài
tập thả lỏng. Các bài tập có sử dụng trọng lượng lớn cần được thực hiện cách nhau
1 – 2 ngày.

* Bài tập phát triển sức mạnh tốc độ
Bài tập sức mạnh tốc độ (sức mạnh bột phát) là khả năng con người phát huy
một lực lớn trong khoảng thời gian ngắn. Đối với môn Bóng chuyển, sức mạnh tốc

21


độ chủ yếu để đưa trọng tâm VĐV lên cao ( sức bật). Thực hiện kĩ thuật đập bóng,
chắn bóng, phát bóng và chuyền hai. Phải phát triển sức mạnh của các sợi cơ, sức
mạnh và tốc độ co cơ phải phát triển song song với nhau, để phát triển sức bật
người ta sử dụng các bài tập khắc phục trọng lượng như tạ, bao cát. Các bài tập
nhảy không có trọng lượng là các bài tập chạy, nhảy trên hố cát, có trọng lượng là
bài tập với tạ các loại.
* Các bài tập phát triển sức bền
Sức bền là khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động nào đó. Khái niệm sức
bền là một tố chất thể lực vì vậy nó được thể hiện trong một số hoạt động nhất
định. Hay nói cách khác, sức bền là một khái niệm chuyên biệt thể hiện khả năng
thực hiện lâu dài một hoạt động chuyên môn nhất định.
Trong sinh lí thể thao, sức bền thường đặc trưng cho khả năng thực hiện các
hoạt động thể lực kéo dài liên tục từ 2 – 3 phút trở lên, với sự tham gia của một
khối lượng cơ bắp (từ 1/2 toàn bộ lượng cơ bắp của cơ thể ) nhờ sự hấp thụ ôxy để
cung cấp năng lượng cho cơ thể chủ yếu hoặc hoàn toàn bằng con đường ưa khí.
Như vậy, sức bền trong thể thao là khả năng thực hiện lâu dài hoạt động cơ bắp
toàn thân hoàn toàn hoặc chủ yếu mang tính ưa khí.
- Ví dụ một số bài tập phát triển sức bền:
+ Chạy từ 1.500m trở lên
+ Đi bộ thể thao
+ Đua xe đạp đường dài
+ Bơi 400m trở lên
+ Thi đấu Bóng chuyền (4 x 4; 3 x 3; 2 x 2)

- Các phương pháp phát triển sức bền
+ Phương pháp huấn luyện đồng đều: Được tiến hành huấn luyện với lượng
vận động kéo dài không dưới 20 phút trong chế độ tương đối ôn hoà khi mạch đập
đạt ở mức độ 150 lần / phút.
+ Phương pháp huấn luyện lặp lại và biến đổi: Đó là phương pháp thay đổi
tốc độ thực hiện bài tập dự định theo chiều hướng tăng, cho đến khi xuất hiện thời
điểm nợ ôxy và sự nợ này cần được thanh toán khi tiếp tục thực hiện các bài tập
mới, nhịp độ vừa phải và trong các đoạn dừng để nghỉ. Trước khi tăng cường độ dài
bài tập được thực hiện với mạch đập 140 – 160 lần/phút. Sau đó là 180 lần/ phút.

22


+ Phương pháp vòng tròn: Liên tục thực hiện các bài tập nhằm phát triển sức
mạnh, sức nhanh, sự khéo léo với những hình thức phối hợp khác.
+ Phương pháp thi đấu ít người nhằm hoàn thiện phối hợp nhóm và toàn đội
trong tấn công và phòng thủ không có thời gian nghỉ dài để phát triển sức bền.
* Xác định tố chất thể lực đặc trưng của môn Bóng chuyền
Để đánh giá khách quan tố chất thể lực đặc trưng của môn Bóng chuyền tôi
đã tiến hành phỏng vấn 15 GV, HLV có trình độ, kinh nghiệm lâu năm trong công
tác giảng dạy và huấn luyện (trong đó : 4 người có dưới 10 năm công tác, 5 người
có từ 10 đến 15 năm công tác và 6 người có trên 20 năm công tác). Kết quả phỏng
vấn thu được ở bảng sau:
Bảng 1: Kết quả phỏng vấn của các GV và HLV
Bóng chuyền (n = 15)
Kết quả
TT

Rất quan trọng


Quan trọng

Không quan trọng

ni

%

ni

%

ni

%

Tố chất
1

Sức nhanh

11

73,33

4

26,67

0


0

2

Sức mạnh

13

86,66

2

13,34

0

0

3

Sức bền

14

93,33

1

6,7


0

0

4

Khéo léo

10

66,6

5

33,4

0

0

Từ kết quả phỏng vấn ở bảng 1 cho ta thấy có 86,66% và 93,33% số phiếu
tán thành của các HLV và GV cho rằng tố chất sức mạnh và sức bền là rất quan
trọng trong môn Bóng chuyền và nó là tố chất thể lực đặc trưng của bộ môn này.
7.5.2. Đánh giá thực trạng sức bền bật nhảy của đội tuyển Bóng chuyền
nam khối 12 trường THPT Tam Đảo II.
Qua quan sát và thống kê một số buổi tập luyện và thi đấu, số lần bật nhảy
trung bình của mỗi học sinh (nhảy phát bóng, bật đập bóng, bật chuyền 2, bật chắn
bóng) vào khoảng 100 lần. Ngoài ra còn thực hiện một số hoạt động khác, nhưng
hoạt động bật nhảy là chủ yếu.


23


Những hoạt động trên diễn ra liên tục và nhiều lần, đồng thời học sinh phải
thực hiện các yêu cầu về hoàn thiện kỹ thuật trong các buổi tập kéo dài, đòi hỏi các
em phải có thể lực bền bỉ, trình độ kỹ thuật điêu luyện thì mới đáp ứng được yêu
cầu của buổi tập luyện và thi đấu
Trong tập luyện và thi đấu các hoạt động bật nhảy xảy ra liên tục với nhịp độ
cao. Mặc dù bật nhảy rất đa dạng nhưng thông qua quan sát thấy bật nhảy được sử
dụng chính là:
- Nhảy phát bóng
- Nhảy đập bóng
- Nhảy chắn bóng
- Nhảy chuyền 2
Để đánh giá được tố chất sức bền bật nhảy ảnh hưởng đến kết quả tập luyện
của đội tuyển, lấy hiệu quả đập bóng trong buổi tập làm tiêu chuẩn đánh giá và tiến
hành quan sát trong 10 buổi tập liên tục của đội tuyển Bóng chuyền nam THPT
Tam Đảo II– Vĩnh Phúc.
Bảng 2 : Hiệu quả đập bóng
Chất lượng đập bóng
Số giờ

10



Tốt

Trung bình


Hỏng

399

604

897

1.900

21%

31,79%

47,21%

100%

Qua số liệu bảng 2 cho thấy hiệu quả đập bóng vẫn còn nhiều hạn chế. Trong
tập luyện và thi đấu tỷ lệ đập bóng tốt chưa nhiều tổng số trong 10 giờ học đã thống
kê được 1.900 lần, số lần đập bóng tốt là 399 lần chiếm tỷ lệ 21%, đập bóng chất
lượng trung bình dành được 604 lần chiếm 31,79% còn 42,21% là đập bóng hỏng,
chiếm 897 lần.

7.5.3. Lựa chọn bài tập nhằm phát triển sức bền bật nhảy của đội tuyển
Bóng chuyền nam khối 12 trường THPT Tam Đảo II.

24



Để đảm bảo tính khách quan trong việc lựa chọn một số bài tập nhằm phát
triển sức bền bật nhảy cho đội tuyển bóng chuyền nam khối 12 của trường THPT
Tam Đảo II. Tôi đã tiến hành phỏng vấn 15 GV, HLV có kinh nghiệm lâu năm trong
giảng dạy (trong đó có 4 người có dưới 10 năm công tác, 5 người có từ 10 đến 20
năm công tác và 6 người có trên 20 năm công tác). Đặc điểm của đối tượng phỏng
vấn như sau :

40

26,6
7

Biểu đồ 1 : Đặc điểm đối tượng phỏng vấn
Qua phỏng vấn chúng tôi lựa chọn được các bài tập nhằm phát triển sức bền
bật nhảy của đội tuyển Bóng chuyền nam trường THPT Tam Đảo II. Nội dung bài
tập được trình bày ở bảng 3.
Bảng 3 : Kết quả phỏng vấn lựa chọn bài tập phát triển sức bền bật nhảy trong
môn Bóng chuyền (n = 15)

Kết quả phỏng vấn
TT Nội dung bài tập

Kết quả phỏng
vấn
ni

%

1


Đứng đối diện qua lưới bật nhảy mô phỏng làm động
tác chắn bóng liên tục (lần / thời gian)

13

86,67

2

Ba bước đà bật nhảy đập bóng ở số 4 hoặc số 3 có
người phục vụ tung bóng liên tục 40 lần (tính hiệu quả
đập bóng)

14

93,33

25


×