Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Hướng dẫn học sinh ôn thi Trung học phổ thông Quốc gia bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.51 KB, 65 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT TAM ĐẢO 2
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Tên sáng kiến:
HƯỚNG DẪN HỌC SINH ÔN THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA
BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG

Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Anh Đào
*Mã sáng kiến: 11.65.02


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Nói về ý nghĩa, vai trò to lớn của giáo dục và đào tạo, Đảng và Nhà nước ta luôn
coi “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Trong đó giáo dục phổ thông luôn là
nền tảng cơ bản của hệ thống giáo dục quốc dân. Cấp trung học phổ thông là cấp học cuối
cùng trong 12 năm đèn sách của các cô cậu học trò, các em chỉ hoàn thành nó khi vượt
qua kỳ thi bước ngoặt Trung học phổ thông Quốc gia, để tiếp tục học nghề, tìm kiếm việc
làm, tham gia vào cuộc sống lao động, hoặc để tiếp tục học lên Cao đẳng - Đại học. Để
làm được điều này, việc ôn thi Trung học phổ thông Quốc gia là việc làm thường niên và
luôn được chú trọng hàng đầu trong các trường trung học phổ thông, trong đó có trường
trung học phổ thông Tam Đảo 2.
Có thể nói, trong công tác ôn thi, Ngữ văn là một môn học cơ bản- môn học chính.
Việc giúp học sinh có được kiến thức, kỹ năng, thái độ và năng lực đáp ứng kỳ thi T rung
học phổ thông Quốc gia là điều vô cùng quan trọng. Môn học không chỉ giúp học sinh có
được tri thức mà điều quan trọng còn giúp hoàn thành nhân cách và đạo đức cho các em.


Trong chương trình ôn thi Trung học phổ thông Quốc gia môn Ngữ văn ở trường
phổ thông, Tây Tiến là một thi phẩm không thể không đề cập đến. Bài thơ được xem như
là một bông hoa đẹp giữa một rừng hoa đẹp của văn học kháng chiến chống Pháp. Bài
thơ toát lên vẻ đẹp lí tưởng, vẻ đẹp hào hùng, hào hoa… của những chàng trai Tây Tiến,
đại diện cho những anh bộ đội cụ Hồ. Nói vậy để thấy được sự phong phú, bất tận của bài
thơ. Song cũng chính vì sự phong phú, bất tận ấy mà giáo viên cần có những hướng dẫn
cụ thể, chi tiết dựa vào cách ra đề thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong những năm gần
đây để các em học sinh có thể dễ dàng tiếp cận bài thơ.
Từ yêu cầu của cuộc thi Trung học phổ thông Quốc gia, từ tầm quan trọng của bài
thơ Tây Tiến với vai trò là một giáo viên Ngữ văn, người viết thấy cần thiết phải Hướng
dẫn học sinh ôn thi Trung học phổ thông Quốc gia bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
2. Tên sáng kiến: Hướng dẫn học sinh ôn thi Trung học phổ thông quốc gia bài thơ Tây
Tiến của Quang Dũng.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Anh Đào
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Hợp Châu – Tam Đảo – Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0918201489
E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Anh Đào
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng cho giáo viên bộ môn ôn thi trung học phổ thông quốc gia
môn Ngữ văn lớp 12. Sáng kiến đưa ra những định hướng cụ thể, chi tiết về nội dung,

1


cách thức ôn tập tác phẩm Tây Tiến của Quang Dũng thông qua các dạng đề, đặc biêt là
dạng đề vận dụng.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu:
Sáng kiến này chính thức được áp dụng lần đầu vào ngày 10/09/2019.

7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1 Cấu trúc đề thi trung học phổ thông Quốc gia môn Ngữ văn
Người viết bám sát cấu trúc đề thi minh họa, đề thi chính thức và đề thi dự trữ của
kì thi THPT Quốc gia năm 2019 và những năm về trước để đưa ra cấu trúc đề thi trung
học phổ thông Quốc gia môn Ngữ văn như sau:
Phần Đọc hiểu, luyện tập một số câu hỏi từ nhận biết, thông hiểu đến vận dụng
thấp như: thể thơ, nội dung chính của văn bản, đặt nhan đề cho văn bản, phong cách ngôn
ngữ, phương thức biểu đạt, thao tác lập luận, các hình thức thể hiện của văn bản...Đặc
biệt, cần nhận diện được một số biện pháp tu từ quen thuộc như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,
hoán dụ, liệt kê, phép điệp… và nêu tác dụng của phép tu từ đó. Học sinh căn cứ vào nội
dung văn bản để trả lời cho chính xác, tránh trả lời lan man kiểu “gợi hình, gợi cảm và
mang sắc thái văn chương”. Bên cạnh đó, học sinh cần viết được 5-7 câu rút ra một thông
điệp từ văn bản có ý nghĩa nhất với bản thân hay chọn một thông điệp theo yêu cầu đề
bài.
Phần Làm văn, câu nghị luận xã hội, học sinh biết cách viết đoạn văn khoảng
200 chữ về một hiện tượng đời sống hoặc tư tưởng đạo lí có liên quan đến văn bản đọc
hiểu. Cần lưu ý rằng, đoạn văn hoàn toàn khác với bài văn thu nhỏ, chỉ cần sử dụng 2, 3
thao tác lập luận trong bài làm là đạt yêu cầu.
Câu nghị luận văn học, học sinh cần nắm vững nội dung, nghệ thuật của những tác
phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 12. Về tác phẩm thơ: Tây Tiến (Quang Dũng), Việt
Bắc (Tố Hữu), Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm), Sóng (Xuân Quỳnh), Đàn ghi ta của
Lorca (Thanh Thảo)…Văn xuôi: Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc
Tường), Người lái đó Sông Đà (Nguyễn Tuân), Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim
Lân), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Những đứa con trong gia đình (Nguyễn
Thi), Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu
Quang Vũ)…Lưu ý, học sinh nắm vững phong cách nghệ thuật của tác giả, nét đặc sắc
của tác phẩm hoặc giá trị nhân đạo của tác phẩm (truyện ngắn).
Căn cứ vào cấu trúc của đề thi trung học phổ thông Quốc gia môn Ngữ văn như
trên, người viết Hướng dẫn học sinh ôn thi trung học phổ thông quốc gia bài thơ Tây
Tiến của Quang Dũng với các dạng đề từ đọc hiểu văn bản đến làm văn nghị luận văn

học. Trong làm văn nghị luận văn học người viết lại chia ra các kiểu bài cụ thể như: Nghị
luận về bài thơ, đoạn thơ (5 dạng); Dạng đề so sánh; Dạng đề nghị luận về một ý kiến
bàn về văn học; và cuối cùng là bài tập luyện tập cho học sinh làm ở nhà.

2


7.2 Cách làm của một số kiểu bài thường gặp
I. Kiểu bài nghị luận về một tác phẩm thơ, đoạn thơ.
1. Khái niệm:
Nghị luận về một tác phẩm thơ, đoạn thơ là quá trình sử dụng tổn hợp các thao tác lập
luận để làm rõ nội dung tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
2. Cách làm:
a. Nghị luận về một bài thơ:
* MỞ BÀI:
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
- Nêu ấn tượng về bài thơ.
* THÂN BÀI:
- Phân tích bài thơ theo bố cục hoặc theo nội dung mạch cảm xúc: (phân tích kết hợp giữa
nội dung và nghệ thuật)
Khi phân tích cần chú ý:
+ Thể loại cụ thể.
+ Cách lựa chọn và sử dụng từ ngư, đặt câu.
+ Nhịp điệu, âm điệu, thanh điệu.
+ Các biện pháp nghệ thuật.
+ Cách xây dựng hình tượng thơ.
- Đánh giá chung về nội dung tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ
+ Nội dung: Bài thơ thể hiện vể đẹp gì? Tâm trạng của nhân vật tữ tình như thế nào?...
+ NT: Bài thơ sử dụng những bút pháp nghệ thuật nổi bật nào?
* KẾT BÀI:

Nêu giá trị của bài thơ đối với thơ ca và đời sống.
b. Nghị luận về một đoạn thơ:
* MỞ BÀI:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu và trích dẫn đoạn thơ.
* THÂN BÀI:
- Phân tích nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
- đánh giá nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
* KẾT BÀI:
nêu giá trị của đoạn thơ và bài thơ
II. Kiểu bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.
1. Khái niệm:
NL về một ý kiến bàn về văn học là quá trình vận dụng tổng hợp các thao tác lập luận
để làm cho người đọc hiểu rõ hiểu sâu về ý kiến bàn về văn học ở nhiều góc độ khác
nhau.

3


2.Cách làm:
* MỞ BÀI:
- Giới thiệu vấn đề có liên quan đến ý kiến.
- Trích dẫn ý kiến
* THÂN BÀI:
- Giải thích ý kiến: Giải thích các từ ngữ, các hình ảnh để thấy được nội dung ý nghĩa của
ý kiến.
- Chứng minh ý kiến: Ý kiến được thể hiện như thế nào trong văn học.
- Đánh giá ý kiến: Đúng sai tác dụng của ý kiến đối với văn học và đời sóng như thế nào?
* KẾT BÀI:
- Khái quát nội dung phân tích.

- Ý nghĩa của ý kiến.
III. Kiểu bài so sánh văn học.
1. Khái niệm:
Là quá trình vận dụng tổng hợp các thao tác lập luận ( chủ yếu lá so sánh và pt) để giúp
cho người đọc hiểu đúng về sự giống và khác nhau của hai đối tượng văn học. Từ đó nhìn
nhận rõ hơn về đặc điểm và giá trị của mỗi đối tượng.
- Khi thực hiện so sánh cần tách đối tượng thành ác bình diện káhc nhau đẻ khảo sát. Lưu
ý các bình diện đưa ra phải có sự tương đồng nhất định.
VD: Hình tượng với hình tượng, tư tưởng với tư tưởng, nghệ thuật với nghệ thuật.
2. Cách làm:
* MỞ BÀI:
- Giới thiệu về hai đối tượng văn học.
- Giới thiệu về hai bình diện so sánh.
* THÂN BÀI:
- Phân tích từng đoạn thơ.
- So sánh điểm giống nhau về nội dung và nghệ thuật.
- So sánh điểm khác nhau về nội dung và nghệ thuật: Từ sự khác nhau chỉ ra đặc sắc
riêng của mỗi đối tượng.
- Lí giải về sự khác nhau dựa vào giai đoạn sáng tác, hoàn cảnh sáng tác, pong cách ngệ
thuật….
* KẾT BÀI:
Khái quát và nêu ý nghĩa của mỗi đối tượng.
7.3 Ôn tập bài thơ Tây Tiến qua các dạng đề cụ thể
7.3.1 DẠNG ĐỀ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN.
Đề 1: Đọc đoạn thơ sau đây và trả hời các câu hỏi từ 1 đến 4.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

4



Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi…”
(Trích “Tây Tiến” – Quang Dũng)
Câu 1. Đoạn thơ trên thể hiện tâm trạng gì của tác giả?
Câu 2. Nêu ý nghĩa tu từ của từ láy chơi vơi trong đoạn thơ.
Câu 3. Câu thơ: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi được phối thanh như thế nào? Nêu hiệu
quả nghệ thuật của việc phối thanh đó.
Câu 4. Cụm từ bỏ quên đời thể hiện vẻ đẹp bi hùng của người lính Tây Tiến. Trình bày ý
kiến của anh chị bằng một đoạn văn (khoảng 5 đến 7 dòng).
Đáp án:
Câu 1. Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ.
Cảm xúc ấy là nỗi nhớ: Đối tượng của nỗi nhớ là con Sông Mã, nhớ Tây Tiến, nhớ đồng
đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến, nhớ về rừng núi. Nay tất cả đã “xa rồi” nên
mới nhớ da diết như thế
Câu 2. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào
đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm , nỗi nhớ da diết,
miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi
không yên.
Câu 3. Những câu trên có nhiều thanh trắc, gợi sự trắc trở, gập nghềnh của đường hành

quân, đến câu: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” toàn thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm
dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.
Nhịp thơ chậm , âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng tạ sự thư thái trong tâm hồn
Câu 4.
- Về hình thức: Cần đảm bảo đùng hình thức một đoạn văn.
- Về nội dụng: HS có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo những
nội dung sau:
+ Nghệ thuật nói giảm, nói tránh đã làm cho câu thơ giảm đi đau thương mà thay vào đó
là sự bi tráng, hào hùng.

5


+ Người lính ra đi mà như đi vào giấc ngủ bởi họ đã khoác lên mình đôi cánh của lý
tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Đề 2: Đọc đoạn thơ sau đây và trả hời các câu hỏi từ 1 đến 4.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Trích “Tây Tiến” – Quang Dũng)
Câu 1.Văn bản trên được viết theo thể thơ gì? Nêu nội dung cơ bản của văn bản?
Câu 2. Văn bản có sử dụng rất nhiều từ Hán Việt, anh/ chị hãy liệt kê những từ ngữ đó và
nêu tác dụng của chúng.
Câu 3. Chỉ ra phép tu từ nói giảm được sử dụng trong văn bản và nêu tác dụng của phép
tu từ đó.

Câu 4. Thông điệp có ý nghĩa nhất đối với anh chị được gợi ra từ đoạn thơ trên là gì? Vì
sao?
Trả lời:
Câu 1. Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên. Văn bản tập trung
khắc họa chân dung người chiến binh Tây Tiến (ngoại hình, tâm hồn, lí tưởng, sự hi sinh)
Câu 2. Những từ Hán Việt được sử dụng là: đoàn binh, biên giới, chiến trường, biên
cương, viễn xứ, áo bào, độc hành. Việc sừ dụng những từ Hán Việt ở đây đã tạo ra sắc
thái trang trọng, mang ý nghĩa khái quát, làm tôn thêm vẻ đẹp của người lính Tây Tiến,
góp phần tạo ra vẻ đẹp hào hùng cho hình tượng.
Câu 3. Phép tu từ nói giảm dược thể hiện trong câu thơ: “Áo bào thay chiếu anh về đất”.
Cụm từ “về đất” được thay thế cho sự chết chóc, hi sinh. Phép tu từ này có tác dụng làm
giảm sắc thái bi thương cho cái chết của người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến ngã
xuống thật thanh thản, nhẹ nhàng.
Câu 4. HS đưa ra thông điệp có ý nghĩa nhất và lí giải hợp lí, thuyết phục.
7.3.2 DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
7.3.2.1 NGHỊ LUẬN VỀ BÀI THƠ, ĐOẠN THƠ
7.3.2.1.A DẠNG 1: CẢM NHẬN ĐOẠN THƠ. TỪ ĐÓ RÚT RA NHẬN XÉT
THEO YÊU CẦU CỦA ĐỀ
Đề 1: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Từ đó nhận
xét về vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền
Tây dữ dội mà mĩ lệ

6


“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi ! Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
I. Mở bài
Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và con người ấy, bài thơ ấy.
Vẫn sống muôn đời cùng núi sông.
(Giang Nam)
Chiến tranh đi qua đã để lại cho chúng ta những hoài niệm về những tháng năm
không thể nào quên, đó là khi con người ta nhận ra sứ mệnh của mình sinh ra là để chiến
đấu, là để báo thù, đó là những con người sẵn sàng gác lại tuổi trẻ, việc học hành, tình
cảm cá nhân vị kỉ để đi theo tiếng gọi của Tổ Quốc… Những con người ấy đã đi vào
trong thơ ca, nghệ thuật như những huyền thoại của thế kỉ 20 mà nhà thơ Quang Dũng đã
thể hiện thật xuất sắc thông qua lăng kính lãng mạn nhưng vẫn đậm chất hiện thực của
mình qua bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm đã khắc họa thành công bức tượng đài người lính
Tây Tiến trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Ấn tượng sâu
đậm nhất trong ta là đoạn thơ mở đầu của thi phẩm. Đoạn thơ tập trung thể hiện nỗi nhớ
của tác giả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính
Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
………………………………..
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
II. Thân bài
1. Khái quát:

- Giới thiệu tác giả: Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn
nhạc với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Ông là một trong những

7


gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam, trưởng thành từ cuộc kháng chiến
chống Pháp.
- Giới thiệu tác phẩm: Bài thơ Tây Tiến là một thi phẩm xuất sắc của Quang Dũng nói
riêng và của văn học kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được khơi nguồn cảm
xúc từ đoàn quân Tây Tiến. Đây là một đơn vị chủ lực được thành lập đầu năm 1947.
Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung
đoàn 52. Quang Dũng là đại đội trưởng ở đó, từ đầu năm 1947 đến cuối năm 1948 rồi
chuyển sang đơn vị khác. Nhà thơ nhớ đơn vị cũ mà viết bài thơ này ở Phù Lưu Chanh,
Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến in
trong tập Mây đầu ô (1986).
- Giới thiệu đoạn thơ: Bài thơ được cấu trúc theo diễn biến tự nhiên của nỗi nhớ của
nhà thơ Quang Dũng nhớ về thiên nhiên miền Tây Bắc, về người lính Tây Tiến - những
đồng chí, đồng đội của một thời. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về
thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính Tây Tiến trên
chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng .
2. Cảm nhận đoạn thơ
a. Hai câu thơ đầu: Cảm xúc bao trùm của đoạn thơ và bài thơ.
Có thể nói cả bài thơ là nỗi nhớ trải dài thấm đẫm thời gian và bao trùm không
gian, nỗi nhớ có khi lặn xuống tầng sâu trong tâm hồn nhưng cũng có khi bật lên thành
tiếng gọi tha thiết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
- Đối tượng của nỗi nhớ: Sông Mã, Tây Tiến, rừng núi- những nơi đã từng gắn bó thân
thiết, chia sẻ bao kỉ niệm vui buồn của nhà thơ với đơn vị của mình.

- Mức độ của nỗi nhớ:
+ Câu thơ như một tiếng thở dài Sông Mã xa rồi, lại cũng như một tiếng gọi Tây
Tiến ơi!. Nỗi nhớ có cái gì đó khắc khoải, tiếc nuối, hụt hẫng cùng với khát vọng trở về
quá khứ thân thương mà hào hùng thuở nào. Ba từ Tây Tiến ơi nghe sao mà thân thương
đến thế, ta có cảm giác Tây Tiến không hề ở xa so với nhà thơ mà đoàn binh Tây Tiến ở
ngay trong trái tim nhà thơ.
+ Điệp từ nhớ: diễn tả nỗi nhớ cháy bỏng, dào dạt như những lớp sóng dâng trào mãnh
liệt trong lòng thi nhân:
Nhớ về rừng núi/ nhớ chơi vơi.
+ Cụm từ nhớ chơi vơi: Hai từ chơi vơi là hai từ giàu sức gợi, từng được dùng để diễn tả
tâm trạng của con người. Nỗi nhớ thật độc đáo. Đó là một nỗi nhớ thật khó định hình,
định lượng. Nỗi nhớ ấy như gợi ra được cả sự xa xôi về thời gian, gợi sự mênh mông về
không gian, gợi cả tầm cao, bồng bềnh lan tỏa, không sao đong đếm được. Nỗi nhớ còn
gợi sự hư ảo, mơ hồ giữa hai bờ hư và thực, quá khứ và hiện tại.

8


- Liên hệ: Văn học viết về nỗi nhớ rất phong phú:
Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
(Ca dao)
Hay nhớ đến ngẩn ngơ, mất hết cả lí trí
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai?
(Ca dao)
Nhà thơ Tố Hữu diễn tả nỗi nhớ cũng rất cụ thể, dễ hiểu
Nhớ gì như nhớ người yêu
+ Điệp âm ơi: Nỗi nhớ da diết, cháy bỏng, vang vọng bởi sự láy lại ba lần của âm ơi (ơi,
chơi vơi), đây là ba âm mở có kết cấu thanh bằng mang âm hưởng vang vọng lan tỏa

khiến cho nỗi nhớ như được ngân lên, ngập tràn trong tâm hồn thi nhân
-> Hòa nhập lòng mình với hai câu thơ mở đầu, ta thấy tình thương, nỗi nhớ của QD vơi
miền Tây, đồng chí, đồng đội thật sâu năng biết nhường nào!
b. Câu 3, 4: Hình ảnh đoàn quân TT.
Trong mịt mờ kỉ niệm, chân dung của đoàn quân Tây tiến được khắc họa, hòa lẫn
với những địa danh khó quên, với thiên nhiên vừa hiện thực vừa lãng mạn:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
- Địa danh: Nỗi nhớ đoàn quân TT gắn với những địa danh khó quên:
+ Trong nỗi nhớ của Quang Dũng có nhiều địa danh xuất hiện như: Sài Khao, Mường
Lát, những địa danh này vừa mang ý nghĩa cụ thể, vừa mang ý nghĩa tượng trưng khái
quát. Đây là những địa danh, tên những vùng đất mà người lính Tây Tiến đi qua, từng
gắn bó.
+ Mặt khác, những địa danh này còn mang ý nghĩa khái quát, nó tượng trưng cho một
không gian rất riêng của Tây Bắc xa xôi, lạ lẫm, hoang dã, bí ẩn, ghi lại một thời kì lịch
sử hào hùng của dân tộc với biết bao khó khăn, gian khổ như một nhà thơ đã nói:
Những tên làng, tên núi, tên sông
Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc.
- Sự khắc nghiệt của thiên nhiên: Rung cảm hồn mình với những câu thơ tài hoa của
nhà thơ xứ Đoài mây trắng, ta thấy ngòi bút của Quang Dũng thật táo bạo và chân thực
khi miêu tả sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi đây và sự mỏi mệt của đoàn quân rất đỗi
kiêu hùng. Đó đâu phải là thứ sương khói bảng lảng như trong thơ đường, thơ Tống, cũng
không mơ màng “Chùng chình qua ngõ” như trong thơ Hữu Thỉnh. Núi rừng Tây Bắc
hiện ra trong mờ ảo khói sương, sương dày. lạnh cắt da cắt thịt như muốn nhấn chìm, che
lấp cả đoàn quân mỏi, như muốn xóa dấu con người, cản bước cuộc trường chinh. Hai

9


chữ sương lấp cùng chữ mỏi đưa người đọc trở về với cuộc sống hiện thực khốc liệt của

người lính !
- Liên hệ:
+ Hình ảnh thơ khiến người đọc nhớ đến trạng thái rã rời, mệt mỏi của người tù Hồ Chí
Minh trên đường chuyển lao trong bài thơ Chiều tối.
+ Nhà thơ Vũ Quần Phương đã bình về chi tiết này rất hay: Đoàn quân không gợi một
chút nào cái hùng sân khấu mà đoàn quân mệt mỏi vì đường xa, bụi bặm, đói khát.
+ Người lính cũng không mang tầm vóc sử thi như trong thơ Tố Hữu: “Núi không đè nổi
vai vươn tới”. Phải chăng con người đã gục ngã trước khó khăn?
- Câu thơ tiếp theo là một sự trả lời đầy tinh tế:
“Mường Lát họa về trong đêm hơi”
“Hoa về” hay “ đêm hơi” đều là cách kết hợp từ rất lạ lẫm gợi nên nhiều cách hiểu:
+ Cũng có thể, những người lính Tây Tiến trên đường hành quân trở về Mường Lát họ
mang theo những đóa hoa rừng ngát hương thơm
+ Có thể hiểu trong sự cảm nhận lãng mạn của người lính, sương khói ở Mường Lát lúc
tụ vào, lúc tan ra trông như những bông hoa khói vậy.
+ Có thể hiểu mỗi người lính Tây Tiến được ví như một bông hoa tuyệt đẹp của núi rừng
đang trở về hội tụ tại Mường Lát đêm nay ?
+ Có thể hiểu người lính Tây Tiến đã phải đốt đuốc trong đêm hành quân. Những ngọn
đuốc soi sáng bước đường hành quân gian khổ ấy, đẹp lung linh như bông hoa giữa khói
sương mờ ảo
“Đêm hơi” là một không gian chập chờn, hư ảo, hơi thở của con người và thiên
nhiên tan biến vào nhau, hơi sương hay hơi súng…mọi khái niệm đều là có thể.
-> Dù hiểu theo cách nào, người đọc vẫn cảm nhận được những khó khăn, gian khổ mà
người lính Tây Tiến đã phải trải qua, để ta hiểu về hiện thực khốc liệt của chiến tranh để
thêm cảm phục, thêm yêu vẻ đẹp tâm hồn của những người lính trẻ mộng mơ, hào hoa
lãng mạn. Những hình ảnh ấy khiến cho đoạn thơ bớt đi sự dữ dằn của hiện thực, người
đọc có cảm giác như được xoa dịu, vơi đi những nhọc nhằn, vất vả mà người lính Tây
Tiến phải chịu đựng.
=> Có thể nói, rung cảm lòng mình với hai câu thơ trên, với ngòi bút tài hoa và trái tim
đong đầy yêu thương với đơn vị Tây Tiến, nhà thơ xứ Đoài mây trắng đã làm nổi bật hai

vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc vừa dữ dội, vừa nên thơ, đồng thời cũng làm nổi bật hai
khía cạnh trong cuộc đời chiến đấu của người lính Tây Tiến vừa gian khổ, vừa lãng mạn,
yêu đời.
c. Bốn câu tiếp theo: Hình ảnh con đường hành quân.
Nếu bốn câu đầu là nỗi nhớ da diết với những nét phác họa giàu tính tạo hình, thì
bốn câu thơ tiếp theo là sự cụ thể hóa chặng đường gian truân mà không thiếu vắng cái
nhìn trẻ trung, tươi tắn.

10


* Gian khổ, khó nhọc: Con đường đèo dốc
Trước hết hình ảnh con đường dốc được miêu tả với những nét tạo hình thật tài hoa:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây sung ngủi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
- Từ láy: Trong hai câu thơ đầu, Quang Dũng sử dụng những từ láy (khúc kkuỷu, thăm
thẳm, heo hút) đạt giá trị biểu cảm cao, chúng lại được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự
gian nan trùng điệp, núi đèo hiểm trở, gập ghềnh, vừa lên cao đã vội đổ dốc, cứ thế gấp
khúc nối tiếp nhau -> độ cao ngất trời, độ sâu hun hút.
- Điệp từ dốc: được nhắc đến liên tiếp hai lần gợi ra một địa hình hiểm trở chỉ có dốc là
dốc cao và sâu.
- Đảo ngữ Heo hút cồn mây: heo hút gợi ra sự vắng vẻ, hiu quạnh, nghệ thuật đảo ngữ
càng nhấn mạnh điều đó. Cồn mây đặc tả độ cao và gợi ra vị trí của người lính Tây Tiến
đứng trong mây, trên đỉnh núi cao vời vợi. Như vậy, dẫu câu thơ không nhắc đến sự khó
khăn nhưng người đọc vẫn hình dung ra chặng đường hành quân leo dốc, vượt đèo mà
người lính phải trải qua.
- Ngắt nhịp, thanh trắc: Với cách ngắt nhịp dứt khoát 4/3, câu thơ thứ nhất như bị bẻ
gãy đột ngột, kết hợp với những thanh trắc liên tiếp, dồn dập đã diễn tả sự hiểm trở của
dốc cao, vực thẳm

=> Quang Dũng đã mở ra không gian ba chiều khiến hình ảnh thơ được chạm nổi thành
một bức phù điêu hùng vĩ về núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh thơ khiến ta liên tưởng đến
chặng đường hành quân của người chinh phu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn
và Đoàn Thị Điểm:
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
- Nghệ thuật nhân hóa: Súng ngửi trời.
+ Trước hết, đây là một hình ảnh xuất phát từ cảm xúc trước hiện thực, những người lính
Tây Tiến hành quân phải vượt núi cao, cao đến mức núi chạm trời, họ đi trong mây mà
tưởng như nòng súng chạm tới đỉnh trời.
+ Đây là một hình ảnh đẹp, lạ và táo bạo làm rõ vẻ đẹp hào hùng, hào hoa của người lính
Tây Tiến.
. Hào hoa, lãng mạn: Tác giả không nói súng chạm trời mà là súng ngửi trời. Nghệ thuật
nhân hóa khiến ta thấy được sự tếu táo, đùa vui, lãng mạn, lạc quan, yêu đời, trêu ghẹo cả
tạo hóa của lính Tây Tiến
Câu thơ khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh thơ mộng trong bài thơ Đồng chí của
Chính Hữu:
Đầu súng trăng treo

11


Hay tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, lạc quan của người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu
đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
. Hào hùng: Quang Dũng không nói đến người lính mà ta vẫn thấy người lính, không nói
núi cao mà ta vẫn thấy núi rất cao. Chữ ngửi vẽ ra hình ảnh người lính đang ở tư thế chót
vót trên đỉnh núi, đi giữa ngàn mây, nòng súng đang chạm vào vòm trời. Điều đó cho
thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến trong tư thế
sánh ngang trời đất, làm chủ hoàn cảnh. Đó là vẻ đẹp tiêu biểu của người lính trong văn
học chống Pháp:

Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo.
(Lên Tây Bắc - Tố Hữu)
- Nghệ thuật đối lập: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.
Thiên nhiên Tây Bắc dường như luôn luôn có ý định thử thách lòng người. Tác giả
sử dụng nghệ thuật đối lập cùng cách ngắt nhịp 4/3, kết hợp với điệp từ ngàn thước với
hai động từ chỉ hướng lên, xuống khiến cho câu thơ như bị bẻ gãy làm đôi để miêu tả hai
chiều không gian Tây Bắc vừa có độ cao chót vót, vừa có độ sâu thăm thẳm đầy bất ngờ,
nguy hiểm.
Đọc những câu thơ này của Quang Dũng ta liên tưởng đến hai câu thơ của Lí Bạch
tả cảnh thác Hương Lô:
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây
Trần Lê Văn đã bình về câu thơ này thật xác đáng:
Đọc câu thơ và nghe đã muốn mòn chân mỏi gối.
- Bình yên, êm ả:
Giữa những câu thơ chật chội những thanh trắc, QD thả xuống môt câu thơ toàn thanh
bằng:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Không gian được cảm nhận qua điểm nhìn của người lính Tây Tiến, khi người
lính hành quân lên đến đỉnh núi phóng tầm mắt ra xa, dưới kia là những ngôi nhà bồng
bềnh trong biển mưa núi sương rừng ở Pha Luông. Câu thơ gợi ra không gian rộng mở,
mênh mang, huyền ảo, lãng mạn, xua tan mỏi mệt, mang lại cảm giác nhẹ nhõm, lâng
lâng. Qua đó cho thấy tâm hồn lãng mạn, bay bổng của người lính.
=> Bốn câu thơ có sự kết hợp hài hòa giữa các thanh điệu, giàu chất nhạc, chất họa.
Ngoài ra, Quang Dũng còn sử dụng nghệ thuật của thơ Đường vẽ mây nảy trăng khi nhà
thơ tả cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội để làm nổi bật lên hình ảnh người


12


lính Tây Tiến trên bước đường hành quân và chiến đấu đầy gian khổ, vất vả, hi sinh
nhưng vẫn lạc quan hồn nhiên yêu đời, lãng mạn.
d. Sáu câu còn lại.
* Hai câu đầu: Sự hy sinh.
Một trong những lí do khiến bài thơ Tây Tiến chịu số phận thăng trầm là bởi Quang
Dũng đã dám nói về cái chết, nói về sự kiệt sức và bất lực. Nhưng người ta quên mất rằng
Quang Dũng miêu tả sự hi sinh nhưng khí lực của câu thơ vẫn vô cùng mạnh mẽ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời!
+ Hai chữ anh bạn chứa đựng những tình cảm gắn bó giữa những người bạn thân thiết,
gần gũi.
+ Từ ngữ dãi dầu, gục: Hiện thực bi tráng được diễn tả qua những từ ngữ dãi dầu, gục.
Đó là những vất vả, gian lao, nếm mật nằm gai mà người lính Tây Tiến phải trải qua trên
chặng đường hành quân gian khổ và quá trình chiến đấu với quân thù. Đặc biệt là chữ
gục có nhiều cách hiểu: Có thể đó là sự mệt mỏi khiến người lính ngủ gục trên súng mũ
như muốn quên đi tất cả, có thể đây là cách nói giảm, nói tránh diễn tả sự hi sinh của
người lính vì Tổ quốc. Dù hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn gợi vẻ đẹp hào hùng của
người lính vì họ “gục lên súng mũ”-một tư thế thật đẹp! (Liên tưởng đến thơ của Lê Anh
Xuân- Dáng đứng Việt Nam, Tố Hữu-Lượm)
- Cách nói giảm, nói tránh không bước nữa, bỏ quên đời: Quang Dũng vẫn tiếp tục sử
dụng cách nói giảm, nói tránh khi viết về vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến qua các
cụm từ: không bước nữa, bỏ quên đời. Chiến đấu và hi sinh đó là hiện thực khốc liệt của
chiến tranh. Nhà thơ Quang Dũng đã không ngần ngại nói đến cái chết mặc dù câu thơ
không có từ nào nói đến cái chết. Hiệu quả của nghệ thuật nói giảm nói tránh vừa gợi
được tình thương, vừa gợi đựơc sự bình thản, hùng tráng, ngang tàng, bất cần chứ không
bi lụy. Họ sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, quê hương, coi cái chết thật nhẹ nhàng. Dường
như họ sang thế giới bên kia chỉ là một cuộc dừng chân tạm thời, là một cuộc nghỉ giải

lao giữa đường mà thôi như Phan Bội Châu đã viết trong bài Cảm tác vào nhà ngục
Quảng Đông:
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Câu thơ sáng ngời phẩm chất người chiến sĩ cách mạng:
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc
(Nguyễn Đình Chiểu).
* Hai câu tiếp: Uy lực chốn rừng sâu:
- Những khó khăn, gian khổ chưa dừng lại, hai câu thơ tiếp còn hé lộ sự bí ấn, sự khắc
nghiệt của rừng già và thác dữ nơi đây.
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi”

13


Thiên nhiên hoang dã, dữ dội được miêu tả trong tiếng gầm thét của thác, bóng dáng của
cọp trêu người.
+ Âm thanh thác gầm thét: Quang Dũng đã chọn khoảnh khắc “Chiều chiều” để miêu tả
oai linh thác bởi chiều là khoảng thời gian nỗi nhớ dễ khơi sâu, lòng người dễ trùng
xuống mà rừng già lại trở nên đầy kì bí. Những con thác như một sinh thể có linh hồn,
vừa oai hùng, vừa hoang dại. Động từ “gầm thét” đã đặc tả sự cuồng nộ của âm thanh
những con thác nơi đây. Âm thanh ấy sau này còn được Nguyễn Tuân miêu tả như “tiếng
của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lôn giữa rừng vầu, rừng tre, nứa nổ lửa”….
+ Mối nguy hiểm “cọp trêu người”: Không những vậy, đêm xuống người lính còn phải
đối mặt với mối nguy hiểm “cọp trêu người”. Mãnh thú vốn chẳng biết trêu đùa giữa chốn
rừng thiêng. Cách dùng từ này thể hiện rõ sự coi thường gian khó, sự lạc quan, trẻ trung
của tâm hồn. Hai thanh trắc “hịch”, “cọp” liên tiếp đặt cạnh nhau càng nhấn mạnh thêm
những bước chân nặng nề đáng sợ của loài mãnh thú đang rình rập.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng:
“Địa danh Mường Hịch đọc có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm khuya.

Hai chữ Hịch, cọp với hai dấu nặng trĩu xuống nghe rờn rợn. Câu thơ nói đủ sự khốc liệt
của chiến trường người lính. Hai dấu chấm nặng như xoáy vào lòng đất gợi cảm giác
ghê sợ, hãi hung”
+ Sử dụng từ láy và điệp từ: Chiều chiều, đêm đêm gợi cho người đọc ấn tượng mạnh
mẽ về thời gian diễn ra triền miên, thường xuyên, liên tục nơi rừng thiêng thác sâu, cọp
dữ, nơi ấy luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với người lính Tây Tiến. Như vậy, người
lính Tây Tiến không chỉ bị ngã xuống trước họng súng của kẻ thù mà còn có thể bị ngã
xuống bởi rừng thiêng, thác hiểm, thú dữ. Tuy nhiên, nói về uy lực chốn rừng sâu chỉ là
một cách để Quang Dũng ngợi ca khí phách anh hùng của người lính Tây Tiến
* Hai câu cuối: Kỉ niệm ấm áp tình người, tình quân dân thắm thiết:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
- Đắm hồn mình vào trang thơ của Quang Dũng, ta thấy thật thú vị khi đoạn thơ khép lại
bằng sự chuyển đổi cảm hứng đột ngột từ sự hiểm nguy sang vẻ ấm cúng, thơ mộng của
bản làng.
+ Từ cảm thán “ôi” thể hiện cảm xúc nhớ nhung dâng trào, không thể nào kìm nén.
+ Địa danh Mai Châu, bữa xôi sốt dẻo ấm áp tình quân dân: Quang Dũng từng kể
những kỷ niệm với người dân khi đoàn quân dừng chân ở những bản làng, được ăn bữa
cơm đầu mùa do bàn tay thơm thảo của người con gái Tây Bắc nấu. Hương vị ấy, làn
khói mơ hồ ấy có thể chỉ bay lên trong thoáng chốc nhưng nhiều năm sau nó còn vương
vấn tâm hồn của thi nhân. Hương nếp thơm hay đó chính là sự thơm thảo của lòng người,
của tình em nồng ấm? Ta còn nhớ mãi tình quân dân ấm nồng trong bài thơ Tiếng hát
con tàu của Chế Lan Viên:

14


Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.
+ “Mùa em” là 1 kết hợp từ độc đáo, gợi lên sự lãng mạn, tình tứ và “em” trở thành trung
tâm trong nỗi nhớ của nhà thơ. Do đa dạng trong cách ngắt nhịp nên câu thơ có tạo nên
nhiều cách hiểu: Chữ mùa gợi sự đầy đủ, ăm ắp sự sống, mang hương vị của đồng nội,
còn chữ em gợi vẻ đẹp xuân sắc của người thiếu nữ. Hai từ mùa em đã gợi tả tinh tế cảm
giác xao xuyến, say mê của các chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn trước sản vật và
con người Tây Bắc.
=>Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ ấy, tình quân dân đã làm vơi đi những khó
khăn mà người lính phải trải qua. Đây sẽ mãi mãi là những kỉ niệm đẹp đẽ làm ấm lòng
người lính trên chặng đường hành quân gian lao, đầy thử thách, gợi lên vẻ đẹp hào hoa
của người lính Tây Tiến.
e. Đánh giá chung về đoạn thơ:
* Nội dung:
- Tác giả Maiacôpxki đã từng viết:
“Phải phí tổn nghìn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi
Một chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Vâng! Câu thơ thật đúng khi ta được cảm nhận đoạn thơ trên trong Tây Tiến của
Quang Dũng. Đoạn thơ tuy ngắn nhưng thật hay và độc đáo.
+ Đoạn thơ đã khắc họa một cách sống động về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa hùng
vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ mang
vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng.
+ Đoạn thơ tuy ngắn nhưng tiêu biểu cho giá trị nội dung và nghệ thuật của cả tác phẩm
Tây Tiến. Đoạn thơ góp phẩn khẳng định và làm nên sức sống muôn đời cho tác phẩm –
đưa tác phẩm trở thành tác phẩm hay nhất viết về hình ảnh người lính trong những ngày
đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
+ Qua đoạn thơ, ta cũng cảm nhận được ngòi bút tài hoa và tấm lòng gắn bó, yêu quê
hương đất nước sâu sắc của Quang Dũng. Đó chính là tình cảm yêu nước cao đẹp trong
thơ ca cách mạng Việt Nam. Đó cũng là bài học yêu nước mà ta cần học tập để bảo vệ và

phát triển đất nước mình, xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
* Nghệ thuật:
Nhà văn Nga Lêônit Lêônôp có viết:
“Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội
dung”.

15


Đúng vậy, Đoạn thơ trên với những thành công về nghệ thuật làm lay động lòng
người. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng lãng mạn, tài hoa ở:
- Thể thơ thất ngôn trường thiên.
- Bút pháp tương phản: Đó là sự tương phản bi và tráng, giữa hào hùng và hào hoa, giữa
giấc mơ và thực tại, giữa thiên nhiên hoang sơ dữ dội và sự thơ mộng êm đềm.
- Bút pháp phóng đại. Nhà thơ còn sử dụng bút pháp phóng đại, phát huy cao độ trí tưởng
tượng của nhà thơ để có những liên tưởng bất ngờ như “Súng ngửi trời”, “cọp trêu
người”,
- Giọng điệu: nét nổi bật của Tây Tiến là những câu thơ giàu nhạc tính, sự phối hợp luân
phiên bằng– trắc biến hóa vô cùng.
- Ngôn ngữ: Bài Tây Tiến sử dụng rất nhiều những từ ngữ chỉ địa danh nhưng tác phẩm
không vì thế mà trở nên mòn sáo. Thậm chí những địa danh đó vẫn tạo nên sự hấp dẫn
của xứ lạ phương xa đầy bí ẩn.
3. Nhận xét về vẻ đẹp người lính Tây Tiến:
- Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng: Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Nhà thơ như
con ong biến trăm hoa thành mật ngọt/ Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay.” Rõ
ràng qua “Tây Tiến” Quang Dũng chẳng khác nào một chú ong cần mẫn khi đã “bay”
khắp trên vườn hoa nghệ thuật để hút nhụy trên từng đóa hoa ngôn từ và tạo nên những
dòng thơ chẳng khác nào những giọt mật ngọt ngào. Hơn thế nữa, những giọt mật ấy lại
rất riêng, rất đặc biệt khi được đánh giá là một “lệch chuẩn tài hoa và độc đáo.”
- Vẻ đẹp người lính Tây Tiến: Giữa bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng

song cũng dữ dội, khắc nghiệt hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên không hề nhỏ bé,
tầm thường đi mà ngược lại, họ càng ngời sáng, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn và lẫm liệt
hơn bao giờ hết.
+ QD không né tranh sự gian khổ tàn khốc của những chặng đường hành quân, của thiên
nhiên vô cùng khắc nghiệt. Thế nhưng cách nói của QD lại hoàn toàn khác lạ! Thiên
nhiên càng dữ dội bao nhiêu thì khí phách của ngưới lính lại càng mãnh mẽ bấy nhiêu!
=> Có thể nói Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở chính là phông nền để
ngưới lính xuất hiện, để tôn thêm vẻ oai phong, kĩ vĩ mà không kém phần lãng mạn, hào
hoa của những con người luôn mang theo trong tim lí tưởng sống “Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh”
III. Kết bài
Hê-minh-uê đã từng nói: “Tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có sự bất tử
của nó. Bởi vì, đó là sản phẩm bền vững của lao động và trí tuệ của con người. Rồi mai
này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể sụp đổ, chỉ có những tác phẩm
văn học chân chính mới có khả năng vượt qua được quy luật băng hoại của thời gian để
tồn tại vĩnh viễn”. May thay, trong số các tác phẩm ấy, chúng ta có Tây Tiến của Quang
Dũng, nhất là đoạn thơ mở đầu tác phẩm – một đoạn thơ thật hay và độc đáo ! Cảm ơn

16


nhà thơ Quang Dũng đã “cắm một cây sào sáng tạo” để đưa tác phẩm Tây Tiến– một tác
phẩm văn học của lòng nhân, của đức tin, và của giá trị sống về phía những con người
chân thiện, để chúng ta hiểu rằng: Những người lính Tây Tiến là bất tử và mãi mãi là
biểu tượng cao đẹp cho người lính trong kháng chiến chống Pháp. Đúng như nhà thơ Lê
Đại Hành đã từng viết:
Sông Mã gầm lên sông Mã ơi!
Người yêu sông Mã đã qua đời
Để đời nhớ mãi quân Tây Tiến
Khúc độc hành ca của một thời

Đề 2: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Từ đó nhận
xét về vẻ đẹp lãng mạn của bài thơ Tây Tiến:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
I. Mở bài
Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc!
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu!
Mảnh đất Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ! Mảnh đất của những ngọn núi vút cao ẩn hiện
trong mây trời sương khói; Mảnh đất của những bản làng chìm trong sắc trắng của hoa
mơ hoa mận khi mỗi độ xuân về. Và đó còn là mảnh đất của những thửa ruộng bậc thang
vàng ửng khi mùa lúa chín. Trong tùy bút Người lái đò sông Đà của NT, ta đã gặp gỡ một
Tây Bắc hung bạo và trữ tình, trong truyện ngắn VCAP , ta đã gặp gỡ một TB làm say
đắm lòng người bởi tiếng sáo gọi bạn tình….. Và chúng ta không thể nào quên một Tây
Bắc hoang sơ và hùng vĩ, thơ mộng và trữ tình trong trong một thi phẩm đặc sắc của
Quang Dũng đó là bài thơ Tây Tiến! Vẻ đẹp của miền đất tình nghĩa này được ông thể
hiện trong những câu thơ được coi là tuyệt bút:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
………………………………..
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

17



II. Thân bài
1. Khái quát chung:
- Giới thiệu tác giả: Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn
nhạc với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Ông là một trong những
gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam, trưởng thành từ cuộc kháng chiến
chống Pháp.
- Giới thiệu tác phẩm: Bài thơ Tây Tiến là một thi phẩm xuất sắc của Quang Dũng nói
riêng và của văn học kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được khơi nguồn cảm
xúc từ đoàn quân Tây Tiến. Đây là một đơn vị chủ lực được thành lập đầu năm 1947.
Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung
đoàn 52. Quang Dũng là đại đội trưởng ở đó, từ đầu năm 1947 đến cuối năm 1948 rồi
chuyển sang đơn vị khác. Nhà thơ nhớ đơn vị cũ mà viết bài thơ này ở Phù Lưu Chanh,
Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến in
trong tập Mây đầu ô (1986).
- Giới thiệu đoạn thơ: Bài thơ được cấu trúc theo diễn biến tự nhiên của nỗi nhớ của
nhà thơ Quang Dũng nhớ về thiên nhiên miền Tây Bắc, về người lính Tây Tiến - những
đồng chí, đồng đội của một thời. Ở phần một tác phẩm, nhà thơ tập trung thể hiện nỗi nhớ
về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính Tây Tiến
trên chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng. Ở đoạn thơ thứ
hai của bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về hình ảnh người lính Tây Tiến trong đêm liên
hoan văn nghệ thấm đẫm tình quân dân, bức tranh thiên nhiên miền Tây hoang sơ, mĩ lệ,
thơ mộng, trữ tình, con người miền Tây Bắc với những nét đẹp văn hóa mang màu sắc
xứ lạ.
2. Cảm nhận đoạn thơ
a. Bốn câu thơ đầu: Nhớ kỉ niệm đời lính trong đêm liên hoan văn nghệ thấm đẫm tình
quân dân
* Khái quát chung:
- Tình quân dân trong văn học: Viết về tình quân dân là một đề tài quen thuộc trong
thơ ca. Trái tim ta đã từng rung lên bởi các vần thơ viết về tình quân dân đậm chất hiện

thực và giản dị, gần gũi:
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
…………………………………….
Chúng tôi đi mang đời lưu động
Nghỉ lại rất nhiều nơi không nhớ hết tên làng.
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Hay

18


Từ lưng đèo
Dốc núi mù che
Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ
Tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở, bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau
(Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông)
Hoặc:
Anh về cối lại vang rừng
Chim kêu trên mái, gà mừng dưới sân
(Tố Hữu)
- Tình quân dân trong trong Tây Tiến: Ngược lại, Quang Dũng viết về tình quân dân lại
đậm màu sắc lãng mạn. Đó là đóng góp mới mẻ, độc đáo của ngòi bút tài hoa và tình cảm
đậm sâu của Quang Dũng dành cho những đồng chí Tây Tiến thân yêu của mình.
* Phân tích

- Có thể nói đây là những phút giây vô cùng hiếm hoi và quý giá của người lính Tây Tiến
sau những chặng đường hành quân gian khổ, người lính Tây Tiến được nghỉ ngơi, được
sống trong tình quân dân nồng thắm:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em, xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
- Đoàn quân Tây Tiến đã phải trải qua biết bao gian lao, vất vả nhưng dường như trong
cuộc sống của họ không thể thiếu những kỉ niệm ngọt ngào. Những đêm liên hoan văn
nghệ, dưới ánh lửa trại tâm hồn họ như được thăng hoa:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
- Từ Hán- Việt Doanh trại gợi không khí cổ kính, trang trọng.
- Cách sử dụng từ ngữ của tác giả thật đặc sắc:
+ Cụm từ hội đuốc hoa: Không phải là ánh lửa trại bình thường mà hội đuốc hoa.
Đuốc hoa hay còn gọi là hoa chúc là từ Hán - Việt để chỉ ngọn nến thắp lên trong phòng
đêm tân hôn. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tác giả cũng có câu thơ viết về hình ảnh
này: Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai sau.
Nét độc đáo, hiếm có trong thơ Quang Dũng đó là tác giả dùng hình ảnh tượng
trưng cho hạnh phúc lứa đôi để nói lên tình quân dân.
Ta thấy nhà thơ Tố Hữu cũng đã từng viết:
Nhớ gì như nhớ người yêu

19


Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Hơn nữa, tác giả còn dùng từ hội gợi ra sự tưng bừng, náo nhiệt, rạo rực, bay
bổng. Đêm liên hoan văn nghệ thực sự đã trở thành một ngày hội lớn, ngập tràn muôn
vàn tia sáng như trong đêm chiến thắng của người lính Tây Tiến với con người vùng Tây

Bắc.
+ Động từ bừng: Cảnh đêm liên hoan văn nghệ rực rỡ, tưng bừng được diễn tả rất rõ qua
từ bừng. Với một từ bừng, Quang Dũng đã để lại trong tâm hồn người đọc biết bao liên
tưởng và dung ngẫm sâu xa. Phải chăng đây là sự bừng sáng của ánh đuốc, là sự tưng
bừng của của âm nhạc và còn có thể hiểu là tiếng hát rộn rã vang dội khắp không gian
rừng núi Tây Bắc. Phải chăng đó còn là sự bừng sáng của những kỉ niệm không bao giờ
phai mờ trong tâm trí người lính Tây Tiến, trong lòng nhà thơ Quang Dũng với các đồng
đội. Dường như mọi gian khó với người lính Tây Tiến không còn có nghĩa lí gì nữa,
trong tâm hồn họ chỉ còn lại sự yêu đời và lạc quan tin tưởng mà thôi!
=> Những liên tưởng này cho thấy nét đặc sắc trong phong cách thơ Quang Dũng tài
hoa, hơn nữa còn cho ta thấy những người lính Tây Tiến tâm hồn lãng mạn biết bao!
- Vẻ đẹp của những cô gái Tây Bắc: Đặc biệt, vẻ đẹp của những cô gái Tây Bắc cùng
với những nét đẹp văn hóa mang màu sắc xứ lạ ở nơi đây khiến cho tâm hồn người lính
Tây Tiến thêm dạt dào cảm xúc:
Kìa e xiêm áo tự bao giờ
+ Hai từ kìa em: những câu thơ của Quang Dũng đã được viết từ lâu nhưng bây giờ đọc
lên như vẫn còn tười nguyên cảm xúc được thể hiện qua cái nhìn tình tứ của người lính.
Kìa em là đại từ dùng để chỉ đối tượng từ xa nhưng trong câu thơ này nó còn hàm ý chỉ
thái độ bất ngờ, ngạc nhiên, là niềm vui thích rất đỗi tình tứ của người lính trẻ khi nhìn
thấy cô gái vùng cao trong xiêm áo lộng lẫy uyển chuyển theo điệu nhạc, điệu múa tự
bao giờ. Từ em như một nốt nhấn của câu thơ, Đó là cách gọi trìu mến, tình tứ đong đầy
yêu thương, đầy say đắm si mê của lính TT với các cô gái. Nhân vật em hiểu theo cách
thứ nhất là những cô gái Thái, cô gái Lào duyên dáng, xinh đẹp trong điệu múa độc đáo,
mới lạ đối với những người lính vùng xuôi. Theo nhà thơ Vũ Quần Phương thì nhân vật
em còn có thể hiểu theo cách thứ hai: ở đây các nam bộ đội đóng vai nữ rất đẹp gái, với
sự trẻ trung tinh nghịch của mình, họ đã làm đồng đội ngạc nhiên, ngỡ ngàng khi hóa
thân thành nữ nhi. Vì vậy, câu thơ như một lời thốt lên vì bất ngờ: Kìa em xiêm áo tự bao
giờ.
+ Khèn lên man điệu:
Khèn lên man điệu nàng e ấp

Quang Dũng đã có một khoảng thời gian gắn bó với cuộc sống của con người Tây
Bắc nên mới có những ấn tượng sâu sắc về nét văn hóa ở nơi đây. Man điệu là điệu nhạc,
điệu múa của người dân tộc thiểu số. Có thể hiểu đây là điệu Lăm vông, Lăm tơi của

20


những cô gái Thái, cô gái Lào đã làm nên màu sắc huyền ảo, lãng mạn. Từ “man điệu”
diễn tả 1 điệu múa hoang sơ và phóng khoáng, vừa đăm đuối đến tan chảy và tình từ đến
dịu dàng. Tiếng “khèn” là đặc trưng của âm nhạc vùng cao khi cất lên đã tôn vinh vẻ
đẹp, lôi cuốn người xem. Từ e ấp chỉ vẻ đẹp kín đáo, thẹn thùng, dịu dàng, duyên dáng
của các cô gái. Chính vẻ đẹp ấy đã làm say đắm tâm hồn người lính Tây Tiến. Nó như
một dòng nước ngọt ngào, mát lành làm xua tan đi bao mệt nhọc, vất vả và khiến tâm
hồn người lính trở nên lãng mạn, bay bổng, đầy mộng mơ.
Đêm liên hoan có đuốc, có hoa, có tiếng kèn, điệu múa và nhất là có hình ảnh
những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân tộc óng ánh sắc màu văn hoa núi
rừng. E ấp trong những điệu xòe hoa duyên dáng. Tất cả như say, như mơ, như mê để
hồn thơ được xây lên từ đó:
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
- Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến: Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Tâm hồn người lính đang say trong tiếng nói, tiếng cười, điệu múa, ánh mắt
như đang vấn vít lấy nhau. Chính tình quân dân thắm nồng đã nâng đỡ tâm hồn người
lính lên trên hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh. Người lính có giấc mộng một ngày
nào đó sẽ được đặt chân đến Viên Chăn - thủ đô của nước Lào. Đó là niềm khao khát
được lập chiến công, đất nước được giải phóng, kẻ thù bị quét sạch ra khỏi bờ cõi lãnh
thổ.
* Đánh giá:
Chỉ với bốn câu thơ, tác giả đã dựng lên một bức tranh vừa phong phú về màu
sắc, đường nét, vừa đa dạng về âm thanh. Với tâm hồn lãng mạn, tài hoa, Quang Dũng
không chỉ cho người đọc thấy được vẻ đẹp của bản sắc văn hóa mà còn cho ta thấy tình

quân dân đằm thắm, mặn nồng và tâm hồn lạc quan yêu đời của người lính Tây Tiến.
Chính điều đó đã khiến cho đoạn thơ như một thế giới cổ tích hiện ta giữa hiện thực đầy
khốc liệt của cuộc chiến tranh gian khổ.
b. Bốn câu thơ sau: Khung cảnh thiên nhiên sông nước và con người Tây Bắc
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
* Dẫn dắt:
Nếu khung cảnh đêm liên hoan văn nghệ đem đến cho người đọc không khí mê
say ngây ngất thì cảnh sông nước miền Tây Bắc lại gợi lên cảm giác mênh mang, hoang
dại, tĩnh lặng, mờ ảo, cho thấy nét tài hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến. Quang
Dũng đã sử dụng những ngôn từ đa nghĩa và phiếm chỉ để gợi lên những vẻ đẹp vốn rất
khó diễn tả này
* Phân tích:

21


- Người đi: “Người đi” ở đây có thể là nhà thơ, có thể là đoàn quân Tây Tiến, cũng có thể
chỉ là 1 du khách đã từng đến với Mộc Châu. Cách gọi ấy gợi lên sự bảng lảng, không
xác định.
+ Châu Mộc: Châu Mộc là một địa danh thuộc vùng đất Sơn La, từng gắn bó với tác giả
và binh đoàn Tây Tiến
+ Chiều sương ấy: chiều sương giống như đêm hơi vừa miêu tả không gian, vừa ám chỉ
thời gian. Đó là 1 không gian mờ ảo, lãng mạn. Sương giăng mờ khắp không gian,
choàng lên cảnh vật như một tấm áo voan mỏng, cảnh hiện ra vừa thực, vừa như mơ, mờ
ảo và lãng mạn. Đã vậy chữ “ấy” lại tăng thêm sự phiếm chỉ, mơ hồ, không gian hoài
niệm trở nên giàu sức gợi hình.
- Liên hệ: Đây chính là cảnh bản sương giăng, đèo mây phủ đặc trưng của vùng Tây Bắc:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
(Chế Lan Viên).
- Nhớ thiên nhiên: Hình ảnh hồn lau:
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Hoa lau là hình ảnh đặc trưng của vùng núi cao, Tố Hữu đã từng viết:
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son
(Việt Bắc).
Lau mọc khắp triền sông, vách đá, trong bài thơ này, lau là hình ảnh quen thuộc
của vùng biên giới Tây Bắc:
Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh
(Lau biên giới - Chế Lan Viên)
Cây lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng của thời tiền sử:
Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha.
“Hồn lau” là một sáng tạo độc đáo của Quang Dũng, bởi nếu là kết quả của cái
nhìn bằng thị giác, người ta chỉ thấy được bờ lau, ngọn lau, bông lau… chứ không nhìn
thấy được hồn lau, vì hồn là một thứ vô cùng trừu tượng, chỉ có dùng tâm hồn mới cảm
nhận được thôi. Quang Dũng cao hơn thế đã nắm bắt được linh hồn của cảnh vật, đó là
thiên nhiên đặc trưng của vùng Tây Bắc Tổ quốc. Nhà thơ đã nhân hóa gọi là hồn lau,
nhà thơ đã thổi hồn vào cảnh vật làm cho nó trở nên sống động như có linh hồn vậy
Thiên nhiên đã được nhân hóa như có linh hồn phảng phất trong gió, trong sương như
nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
Ngàn lau cười trong nắng

22



Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng
Hồn lau trong thơ Quang Dũng cũng gợi vẻ xa vắng, hiu hắt nên nó là hồn lau của
li biệt phảng phất một chút buồn nhưng không xao xác mà đầy nhớ thương, lưu luyến bởi
tác giả đã hai lần cất lên câu hỏi có nhớ, có thấy. . Phải chăng đó là hình ảnh lưu giữ tình
cảm thiết tha mà người dân miền Tây dành cho những chiến sĩ Tây Tiến khi xa, cũng là
mảnh hồn người chiến sĩ gửi lại Mộc Châu lúc giã từ ? Hai chữ hồn lau còn gợi sự xa
xót trước một vẻ đẹp bị lãng quên. Đó là chất thi sĩ trong sâu thẳm tâm hồn người lính
Tây Tiến được đánh thức trong khoảnh khắc giao cảm bất ngờ với hồn tạo vật.
- Nỗi nhớ con người: dáng người trên độc mộc
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Câu thơ mang đậm màu sắc điện ảnh. Người nghệ sĩ như đứng từ trên cao để chụp
lấy một hình ảnh đẹp: con thuyền độc mộc với dáng người đang lướt trên dòng nước lũ.
Thuyền độc mộc là thuyền dài và hẹp làm bằng một thân cây gỗ to, khoét trũng có một
người chèo lái. Hình ảnh dáng người trên độc mộc có thể là người lính Tây Tiến, cũng có
thể là con người Tây Bắc. Dù hiểu theo cách nào, tác giả đã cho người đọc thấy vẻ đẹp
của con người được khai thác ở hai khía cạnh vừa duyên dáng, uyển chuyển, mềm mại,
lại vừa khỏe khoắn, mạnh mẽ với sức sống mãnh liệt qua nghệ thuật tương phản. Hình
ảnh thơ vì thế vừa lãng mạn, vừa gợi vẻ hùng vĩ. Con thuyền độc mộc thì nhỏ bé mà dòng
nước lũ kia là thiên nhiên hoang sơ, dữu dội. Cảnh vừa tương phản, vừa làm nền để tôn
vinh vẻ đẹp cho con người nơi đây.
- Nhớ thiên nhiên: hùng vĩ và thơ mộng:
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Nỗi nhớ về thiên nhiên được đọng lại qua hai hình ảnh tiêu biểu là dòng nước lũ
và hoa đong đưa.
+ Dòng nước lũ là hình ảnh về thiên nhiên man dại, dữ dội, nguy hiểm
+ Hoa đong đưa: Điều đặc biệt là trên dòng nước lũ ấy, xuất hiện hình ảnh hoa đong
đưa.

. Cách sử dụng từ ngữ của tác giả rất độc đáo cho thấy sự tài hoa của nhà thơ. Đong đưa
chứ không phải là là đung đưa, đong đưa vừa diễn tả được trạng thái chuyển động đung
đưa vừa làm toát lên vẻ đẹp thơ mộng, mềm mại, duyên dáng, tình tứ làm say đắm lòng
người. Cành hoa ấy như đang làm duyên trên dòng nước lũ, soi bóng trên dòng sông vậy.
Đó không phải là cánh hoa “hoa trôi man mác” giống như trong câu thơ của Truyện
Kiều, mà cánh hoa tạo dáng trên dòng nước lũ đầy khắc nghiệt. Vì thế, thiên nhiên vùng
Tây Bắc hiện ra trong nỗi nhớ của Quang Dũng vừa mang vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ, vừa
mang vẻ đẹp thơ mộng, mĩ lệ.

23


. Hình ảnh thơ còn có cách hiểu thú vị khác nữa, hoa đong đưa là một liên tưởng lãng
mạn của tác giả khi câu thơ sau có sự hô ứng với câu thơ trước. Dáng người trên độc
mộc giống như bông hoa đong đưa trên mặt nước. Đó chính là nét tinh túy của con người
Tây Bắc: khỏe khoắn, táo bạo và vô cùng gợi cảm. Phải có một tâm hồn lãng mạn, lạc
quan, yêu đời như tác giả mới có những cảm nhận tinh tế như vậy?
- Câu hỏi tu từ liên tiếp được đặt ra: Có nhớ, có thấy gợi ra tâm trạng bâng khuâng, xa
vắng, lưu luyến và đầy tiếc nuối. Dường như chiều sương ấy với hồn lau nẻo bến bờ,
dáng người trên độc mộc luôn trở thành nỗi nhớ, niềm thương của người ra đi vậy!
c. Đánh giá chung đoạn thơ:
* Nghệ thuật:
Nhà văn Nga Lêônit Lêônôp có viết:
“Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội
dung”.
Đúng vậy! Đoạn thơ trên với những thành công về nghệ thuật làm lay
động lòng người. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng lãng mạn, tài hoa
ở thể thơ thất ngôn trường thiên, bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn, cách xây dựng
hình ảnh, ngôn ngữ tài hoa, độc dáo, giàu hình ảnh, giàu liên tưởng: bừng lên, đuốc hoa,
hôn lau, đong đưa…Giọng điệu: nét nổi bật của Tây Tiến là những câu thơ giàu nhạc

tính, nhẹ nhàng êm ả.
* Nội dung:
- Đoạn thơ tả cảnh sinh hoạt và thiên nhiên nhưng tác giả không tả mà chỉ gợi, chỉ ghi lại
những nét phóng túng, tự nhiên nhưng đó là những nét thần nên làm sống dậy đường nét,
hình dáng và cả không khí.
- Đoạn thơ đã đưa người đọc vào thế giới âm nhạc và thiên nhiên thơ mộng để cùng say
mê, ngây ngất với tâm hốn chiến sĩ Tây Tiến trước vẻ đẹp vừa kì bí vừa hấp dẫn nơi xứ lạ
phương xa. Đồng thời những câu thơ này còn giúp ta hiểu thêm tài năng nghệ thuật của
Quang Dũng và sức sống của bài thơ Tây Tiến.
3. Nhận xét về vẻ đẹp lãng mạn của bài thơ Tây Tiến
- Vẻ đẹp lãng mạn: vẻ đẹp lãng mạn thể hiện trên những phương diện cái tôi trữ tình tràn
đầy tình cảm, cảm xúc, phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng những yếu tố cường
điệu, thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào
hùng, tuyệt mĩ. Vẻ đẹp lãng mạn thể hiện ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng hi
sinh cho lí tưởng chung của dân tộc, thể hiện ở vẻ đẹp tâm hồn hào hoa thơ mộng.
- Vẻ đẹp lãng mạn của bài thơ Tây Tiến:
+ Qua đoạn thơ ngắn, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy vẻ đẹp lãng mạn của thơ QD nói
chung và bài thơ Tây Tiến nói riêng. Bức chân dung của người lính TT được đặt trong
khung cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội lại vừa hết sức thơ mộng, .

24


×