Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ôn thi THPT quốc gia môn Giáo dục công dân trong chủ đề dạy học công dân với pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.39 KB, 53 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
1.1. Lí do chọn đề tài
Năm 2019 là năm thứ ba Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa môn GDCD vào thi
THPTQG để xét tốt nghiệp và đại học với hình thức thi là 100% trắc nghiệm khách
quan. Nội dung thi năm đầu tiên nằm ở toàn bộ chương trình lớp 12, hai năm tiếp theo
nội dung thi chủ yếu là lớp 12, nội dung lớp 11 chỉ tập trung ở chuyên đề “công dân
với kinh tế”.
Môn giáo dục công dân nằm trong tổ hợp các môn thi khoa học xã hội, đây là
môn học gắn liền với thực tiễn cuộc sống, kiến thức lí thuyết không nhiều nhưng đòi
hỏi học sinh phải hiểu được kiến thức và vận dụng được kiến thức để giải quyết tình
huống thì mới dễ được điểm cao.
Đề thi THPT QG năm 2019 có ít câu hỏi vận dụng hơn so với năm 2018. Các
câu hỏi vận dụng cao tập trung vào một số chuyên đề như: Thực hiện pháp luật, Quyền
bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội, Công dân với các
quyền tự do cơ bản và công dân với các quyền dân chủ. Tuy nhiên, đề thi vẫn đảm bảo
70% câu hỏi dễ và trung bình để học sinh xét tốt nghiệp. Một số chuyên đề không có
câu hỏi xuất hiện trong đề thi như: Lớp 12 có 2 chuyên đề Pháp luật và đời sống,
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo và lớp 11 có 1 chuyên đề: Công dân với
các vấn đề chính trị xã hội.
Môn giáo dục công dân là môn học mới được đưa vào thi THPT QG nên ngân
hàng câu hỏi còn ít, kinh nghiệm ôn thi của giáo viên chưa nhiều. Hiệu quả ôn thi giữa
các trường trong tỉnh cũng như cả nước còn có sự chênh lệch khá lớn. Thời lượng ôn
thi và nội dung ôn giữa các trường cũng không có sự thống nhất.
Đối với trường học nơi tôi đang công tác, đa số học sinh có lực học trung bình
nên việc ôn tập tốt môn GDCD sẽ giúp các em dễ dàng đạt tổng số điểm cao để xét tốt
nghiệp. Tuy nhiên, tâm lí của đa số học sinh vẫn coi đây là môn phụ, có xét đại học
nhưng đa số là những khối thi và ngành thi mà học sinh ít lựa chọn nên các em chưa có
ý thức học, chưa tập trung thời gian cho việc ôn luyện. Đa số học sinh chỉ học trên lớp
theo yêu cầu của giáo viên mà không chịu ôn luyện ở nhà, không sưu tầm các đề thi



1


trên mạng để tự giải cũng như không chủ động tìm hiểu các văn bản pháp luật và tình
huống pháp luật mới liên quan
đến nội dung bài học. Điều đó cũng gây khó khăn cho giáo viên trong việc đảm bảo
chất lượng học tập và ôn thi bộ môn.
Bản thân là giáo viên dạy môn Giáo dục công dân đã có 3 năm kinh nghiệm ôn
thi cho học sinh lớp 12 tôi nhận thấy đề thi THPT QG trong những năm gần đây chủ
yếu tập trung vào lớp 12 nên tôi đã dành thời lượng ôn thi cho học sinh chủ yếu tập
trung vào chương trình lớp 12. Trong quá trình ôn thi cũng có những thuận lợi và khó
khăn. Dựa vào kết quả thi của học sinh và kinh nghiệm ôn thi của mình tôi xin được
chia sẻ với đồng nghiệp sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả ôn thi THPT quốc gia môn Giáo dục công dân trong chủ đề dạy học
“công dân với pháp luật”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra các giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả ôn thi THPT QG môn
GDCD cho học sinh lớp 12.
1.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của đề tài.
Đưa ra một số ví dụ thiết thực để đổi mới phương pháp ôn thi THPT QG.
Nêu một số kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả ôn thi THPT QG cho HS lớp
12.
1.4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Học sinh các lớp 12A6, 12A7 và 12A8 trường THPT Đồng Đậu.
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Một số bài học trong chương trình SGK môn GDCD lớp 12
1.6. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Đọc các tài liệu, các bài báo, một số sáng kiến kinh nghiệm khác về phương
pháp ôn thi THPT QG.
Ra đề thi thử cho HS bám sát cấu trúc đề thi THPT QG chính thức.
b. Phương pháp quan sát
Nhìn nhận lại thực trạng của việc ôn thi THPT QG môn GDCD ở trường THPT
Đồng Đậu trong những năm gần đây.
2


Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ôn thi THPT QG môn GDCD
cho học sinh lớp 12.
1.7. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm
1.7.1. Lời giới thiệu
1.7.2. Tên sáng kiến
1.7.3. Tác giả sáng kiến
1.7.4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
1.7.5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
1.7.6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
1.7.7. Mô tả bản chất của sáng kiến
1.7.8. Những thông tin cần được bảo mật
1.7.9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
1.7.10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng
kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử.
1.7.11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu.
2. Tên sáng kiến
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ôn thi THPT quốc gia môn Giáo dục
công dân trong chủ đề dạy học “Công dân với pháp luật”
3. Tác giả sáng kiến

- Họ và tên: Lê Thị Lan
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Đồng Đậu, Yên Lạc, Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0374140712
- E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến đồng thời là tác giả sáng kiến
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Sáng kiến có thể sử dụng làm tài liệu ôn thi THPT quốc gia môn Giáo dục công
dân cho học sinh lớp 12 trong chủ đề “Công dân với pháp luật”
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 10/09/2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
3


7.1. Về nội dung của sáng kiến
7.1.1 Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
7.1.1.1. Cơ sở lí luận
Năm 2017 là năm đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện đổi mới hình thức
thi THPT QG với mục đích để xét tốt nghiệp và đại học. Chỉ có môn Ngữ văn thi tự
luận, các môn còn lại thi theo hình thức trắc nghiệm. Thí sinh sẽ thi 4 bài trắc nghiệm
gồm Toán, Ngoại ngữ, Khoa học tự nhiên (tổ hợp Vật lý, Hóa học, Sinh học) và Khoa
học xã hội (tổ hợp Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân) đối với thí sinh hệ giáo dục
THPT.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo, Sở giáo dục và đào tạo Vĩnh
Phúc cũng đã có công văn hướng dẫn các trường THPT trong toàn tỉnh về công tác ôn
thi THPT QG, tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề và nâng cao chất lượng ôn thi
THPT QG.
Môn GDCD là môn học lần đầu tiên được đưa vào thi để xét tốt nghiệp và đại
học nên bản thân giáo viên dạy bộ môn vẫn còn lúng túng trong việc xây dựng chuyên
đề và tổ chức ôn thi cho học sinh. Đa số GV còn chưa có sự thống nhất về nội dung

chương trình, về phương pháp và cách tiến hành ôn thi sao cho có hiệu quả. Bên cạnh
đó, tâm lí học sinh vẫn coi môn GDCD là môn phụ, môn học dễ được điểm cao, nên
các em còn chủ quan, chưa chú trọng vào việc ôn luyện. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả
ôn thi THPT QG cho học sinh, giáo viên phải rút kinh nghiệm trong quá trình ôn thi để
có những phương pháp, cách thức phù hợp nhất nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
ôn tập cho học sinh.
7.1.1.2. Cơ sở thực tiễn
7.1.1.2.1. Nội dung chương trình ôn thi THPT QG môn GDCD lớp 12
- Nội dung chương trình lớp 12, bao gồm có các chủ đề sau:
+ Bài 1: Pháp luật và đời sống
+ Bài 2: Thực hiện pháp luật
+ Bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật
+ Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội
+ Bài 5: Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo
+ Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản
+ Bài 7: Công dân với các quyền dân chủ
4


+ Bài 8: Pháp luật với sự phát triển của công dân
+ Bài 9: Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước
Tất cả nội dung chương trình lớp 12 đều nằm trong nội dung thi THPT QG, trừ
những phần giảm tải và đọc thêm theo phân phối chương trình của Bộ giáo dục. Tuy
nhiên, trong những năm đã tổ chức thi, đề thi chủ yếu tập trung vào các chuyên đề:
Thực hiện pháp luật, Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời
sống xã hội, công dân với các quyền tự do, dân chủ. Nhưng cũng không vì thế mà giáo
viên ôn tủ cho HS, để đảm bảo cho HS đạt kết quả tốt, GV phải giúp các em nắm được
kiến thức cơ bản tất cả các nội dung đã học, tập trung nhiều thời gian hơn vào những
chủ đề có nhiều câu hỏi trong đề thi.
Ngoài kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, nội dung thi THPT Quốc gia môn

GDCD còn có những câu hỏi vận dụng liên quan đến thực tiễn cuộc sống và kiến thức
pháp luật cơ bản hiện hành. Vì vậy, đòi hỏi HS phải nắm chắc kiến thức cơ bản sách
giáo khoa và các quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời tích cực tìm hiểu những
tình huống pháp luật qua các phương tiện thông tin đại chúng để giải quyết tốt những
câu hỏi vận dụng.
7.1.1.2.2. Thực trạng việc ôn thi THPT QG trước khi thực hiện đề tài ở trường
THPT Đồng Đậu
a. Thuận lợi
* Về phía nhà trường:
Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất và tài liệu
tham khảo cho giáo viên và học sinh trong quá trình ôn thi.
Nhà trường tạo điều kiện để tổ chức cho giáo viên tham gia hội thảo chuyên đề
ôn thi THPT QG và có chế độ khen thưởng đối với giáo viên có báo cáo chuyên đề
cấp cụm và cấp tỉnh đạt chất lượng tốt.
Nhà trường luôn quan tâm, động viên và khen thưởng kịp thời đối với những
học sinh có kết quả cao trong các kì thi khảo sát. Đồng thời chỉ đạo giáo viên có kinh
nghiệm phụ đạo cho những học sinh yếu kém trong quá trình ôn thi.
Đoàn thanh niên thường xuyên tổ chức các buổi ngoại khóa để học sinh lớp 12
trao đổi về phương pháp học tập và định hướng nghề nghiệp cho các em.
* Về phía giáo viên:
Có trình độ chuyên môn đạt chuẩn.
5


Có lòng nhiệt tình, yêu nghề, tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
Thường xuyên cập nhật kiến thức, thông tin, sự kiện hằng ngày liên quan đến
nội dung bài học và cập nhật đề thi của các trường trong và ngoài tỉnh để học sinh
tham khảo.
Tích cực trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp trong trường và các đồng ngiệp
trong tỉnh.

Được tham gia các buổi tập huấn về kĩ thuật ra đề, xây dựng các chuyên đề dạy
học do Sở giáo dục và đào tạo tổ chức.
* Về phía học sinh:
Đoàn kết, có tinh thần giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
Ngoan ngoãn, lễ phép, vâng lời thầy cô giáo.
b. Khó khăn
Đối với HS lớp 12 nói chung và học sinh lớp 12 trường THPT X nói riêng, áp
lực thi cử khiến nhiều em rơi vào tình trạng lo âu, không có kế hoạch và phân bố thời
gian học tập, nghỉ ngơi hợp lí. Tâm lí của đa số học sinh chỉ tập trung vào những môn
xét đại học, còn những môn không thi hoặc chỉ để xét tốt nghiệp các em chỉ học để đủ
điểm tốt nghiệp. Nhiều em còn học hành chểnh mảng, tư tưởng nước đến chân mới
nhảy nên kết quả học tập và thi cử không cao.
Phần lớn học sinh trong trường đều là con em gia đình làm nông hoặc buôn bán
nên phụ huynh chưa sát sao việc học và định hướng nghề nghiệp cho các em, nhiều
phụ huynh phó mặc cho giáo viên.
Bên cạnh đó, nội dung chương trình thi trong 2 năm trở lại đây là toàn bộ
chương trình THPT, nhưng đề thi chính thức lại chỉ tập trung vào lớp 11 và lớp 12,
trong đó có những chủ đề không có câu hỏi trong đề thi nên dẫn đến tình trạng học
sinh học tủ, bỏ qua những bài không xuất hiện trong đề thi.
Không chỉ với học sinh mà ngay cả với giáo viên cũng gặp nhiều lúng túng và
lo lắng trong quá trình ôn thi cho các em vì môn học mới được đưa vào thi THPT QG.
Bản thân giáo viên môn GDCD cũng chưa nắm chắc kĩ thuật ra đề và xác định cấp độ
nhận thức trong đề thi nên chưa chỉ ra được kinh nghiệm và kĩ thuật làm bài thi cho
học sinh. Khi môn thi mới được đưa vào thi THPT QG, giáo viên cũng chưa được tập
huấn nhiều về kĩ thuật ra đề và phương pháp tổ chức ôn thi đạt. Ngoài ra, việc trao đổi
kinh nghiệm ôn thi giữa các trường cũng chưa được triển khai rộng rãi. Công tác tổ
6


chức hội thảo nâng cao chất lượng ôn thi THPT QG cũng chưa được sở phổ biến trong

năm đầu tiên.
Trong quá trình ôn thi, đa số giáo viên ra đề chưa sát với cấu trúc đề thi của Bộ.
Việc xác định cấp độ nhận thức giữa nhận biết và thông hiểu, giữa vận dụng thấp và
vận dụng cao chưa chuẩn, GV còn lúng túng ở khâu ra đề. Chính vì vậy việc ôn luyện
cho học sinh cũng không đi đúng hướng nên hiệu quả ôn thi chưa cao.
Thời gian ôn thi cũng là vấn đề, mỗi trường có cách phân chia số tiết học
chuyên đề khác nhau. Có trường ôn từ lớp 10, cũng có trường lớp 12 mới thực hiện
việc học chuyên đề hoặc kì 2 mới bắt đầu ôn. Chính vì vậy, kết quả thi giữa các trường
có sự chênh lệch đáng kể, nên khó xác định, so sánh được hiệu quả ôn thi của từng
trường. Trong quá trình dạy học giáo viên cũng chưa kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc
học và ôn thi nên còn lúng túng về thời gian.
Hình thức thi môn GDCD là 100% trắc nghiệm nên tâm lí của đa số học sinh
không học thuộc, không học kĩ kiến thức cơ bản, vì vậy, khi gặp những câu hỏi liên
quan đến khái niệm hoặc chuẩn kiến thức sách giáo khoa là các em lúng túng và dùng
biện pháp đoán mò.
7.1.1.2.3. Cách thức giáo viên thường sử dụng để ôn thi THPT QG trước khi thực
hiện đề tài ở trường THPT Đồng Đậu
7.1.1.2.3.1. Hệ thống kiến thức cơ bản
Khi môn GDCD mới được đưa vào thi THPT QG, GV trường tôi thường cho
HS học kĩ kiến thức cơ bản ở các giờ học chính khóa. Ở các buổi học chuyên đề, GV
cho HS hệ thống lại kiến thức cơ bản và trọng tâm sách giáo khoa thuộc chuyên đề
giảng dạy nhưng không có kiến thức mở rộng, nâng cao nên khi gặp những bài tập vận
dụng, liên quan đến kiến thức xã hội, pháp luật HS thường bị lúng túng trong việc
chọn đáp án.
Thông thường, GV dành ít thời gian cho phần ôn luyện kiến thức cơ bản. Các
phương pháp tổng hợp kiến thức cũng chưa phát huy được khả năng tổng hợp, ghi nhớ
kiến thức của HS, đa số giáo viên chỉ cho học sinh ghi lại nội dung chính của bài học
mà không đưa ra được các ví dụ, các dạng bài tập cụ thể thuộc nội dung kiến thức đó.
Vì vậy, HS dễ quên ngay sau khi ôn và khi gặp các câu hỏi liên quan đến từng đơn vị
kiến thức HS cũng khó nhớ lại nội dung kiến thức thuộc câu hỏi đang làm.

7.1.1.2.3.2. Luyện đề trắc nghiệm
7


Sau khi cho HS hệ thống lại kiến thức, GV thường cho HS luyện đề trắc nghiệm
và chữa đề ngay cho học sinh mà không phân loại thành các dạng bài tập và phương
pháp, kĩ thuật đặc trưng để giải các dạng bài tập đó. Vì vậy, khi gặp các dạng bài tập
tương tự, học sinh không có kinh nghiệm và kĩ năng để giải quyết tốt những câu hỏi,
tình huống mình đã từng gặp trước đó.
Với hình thức thi là 100% trắc nghiệm nên giáo viên không đưa câu hỏi tự luận
vào phần ôn tập khiến HS bị thụ động trong việc chọn đáp án cho trước. Có những bài
tập, nếu cho trước đáp án thì có thể các em có thể chọn đúng, nhưng khi cho bài tập tự
luận thì hầu như các em không làm được vì không nhớ chính xác nội dung kiến thức
cơ bản.
Ví dụ: Với dạng câu hỏi vận dụng:
+ Trắc nghiệm: Giám đốc công ti X là ông H đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
chiếm đoạt 1 tỷ đồng tiền công quỹ. Hành vi của ông H thuộc loại vi phạm pháp luật
nào dưới đây?
A. Hình sự và dân sự.

B. Hình sự và kỉ luật.

C. Dân sự và kỉ luật.

D. Hình sự và hành chính.

+ Tự luận: Giám đốc công ti X là ông H đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm
đoạt 1 tỷ đồng tiền công quỹ. Hành vi của ông H thuộc loại vi phạm pháp luật nào?
Ông phải chịu trách nhiệm pháp lí nào?
Với dạng câu hỏi như này, nếu là câu hỏi trắc nghiệm thì HS sẽ dễ dàng chọn

được đáp án đúng. Nhưng khi chuyển câu hỏi này thành dạng câu hỏi tự luận thì đòi
hỏi học sinh phải nhớ và phân biệt được các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm
pháp lí tương ứng.Vì vậy, việc không cho HS ôn tập câu hỏi tự luận sẽ làm cho HS ỉ
lại, không ghi nhớ kiến thức cơ bản, trong khi việc giải hầu hết các dạng bài tập đều
đòi hỏi HS phải nắm chắc kiến thức cơ bản.
7.1.1.2.3.3. Kiểm tra chuyên đề
Sau khi kết thúc mỗi chuyên đề, GV thường cho HS làm bài kiểm tra trắc
nghiệm 40 câu giống như cấu trúc đề thi minh họa THPT QG thuộc nội dung kiến thức
của chuyên đề. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng câu hỏi tham khảo môn GDCD còn ít
nên chủ yếu là GV tự ra đề. Vì vậy có nhiều câu hỏi còn chưa chuẩn về kĩ thuật hoặc
chưa xác định đúng các cấp độ nhận thức, không sát với cấu trúc của đề thi minh họa

8


THPT QG. Điều này cũng làm cho việc đánh giá kết quả học tập của HS chưa chính
xác và hiệu quả ôn thi chưa cao.
Ngoài ra, đề thi môn GDCD còn liên quan đến kiến thức xã hội và pháp luật
ngoài SGK nên nếu GV ra đề không chặt chẽ sẽ dẫn đến việc tranh cãi đáp án đúng.
Chính vì vậy, để đánh giá đúng chất lượng học tập của HS đòi hỏi GV phải ra đề chính
xác về kĩ thuật, nội dung, chuẩn về mặt pháp lí và bám sát cấu trúc đề thi THPT QG đã
công bố. Tuy nhiên việc ra 1 đề kiểm tra trắc nghiệm hoàn toàn mới, chưa xuất hiện
trong đề thi lần nào đòi hỏi GV phải đầu tư rất nhiều về thời gian, công sức và quan
trọng là phải có kinh nghiệm và nắm chắc về kĩ thuật ra đề.
Những thực trạng trên cho thấy rằng cần có những biện pháp cụ thể, áp dụng
triệt để trong giờ ôn thi thì mới có thể đạt được kết quả cao trong kỳ thi THPT QG và
cũng phần nào đó giúp học sinh có thêm hứng thú với bộ môn GDCD.
7.1.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ôn thi THPT QG môn GDCD
Ôn thi THPT QG đạt được kết quả cao không chỉ là mong muốn riêng của học
sinh và phụ huynh mà còn là tâm huyết của cả giáo viên. Chính vì vậy, phương pháp

ôn tập phù hợp thật sự rất quan trọng. Với tinh thần đổi mới phương pháp kiểm tra,
đánh giá nên yêu cầu cần phải đổi mới phương pháp ôn tập.
Môn GDCD về cơ bản để kiểm tra kiến thức văn hóa xã hội và những hiểu biết
cơ bản về pháp luật của học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chính vì thế các
câu hỏi sẽ xuyên sâu vào sự vận dụng bài học trên lớp vào trong cuộc sống thực tế.
Dưới đây là một số kinh nghiệm của tôi trong quá trình giảng dạy nhằm giúp
việc ôn thi môn GDCD trong kỳ thi THPT quốc gia đạt hiệu quả cao:
7.1.2.1. Một số yêu cầu trong quá trình ôn thi THPT QG cho học sinh
* Về phía giáo viên:
Nắm chắc chuẩn kiến thức, kĩ năng và các văn bản pháp luật liên quan đến nội
dung chương trình GDCD lớp 12.
Chủ động tìm hiểu, tiếp cận các phương pháp và cách thức ra đề, bám sát cấu
trúc đề thi THPT QG mới nhất. Nắm rõ những chỉ đạo của cấp trên để tác động đến
tâm lí học sinh và cung cấp cho các em những hiểu biết đầu tiên về cách thức ra đề thi.
Vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh.

9


Sưu tầm đề thi của Bộ, Sở và các trường khác để học sinh tham khảo. Đồng
thời, bản thân giáo viên phải nắm chắc về kĩ thuật ra đề. Bên cạnh những câu hỏi sưu
tầm, GV chủ động ra những tình huống liên quan đến những thông tin, sự kiện pháp
luật mới cập nhật để tạo hứng thú học tập cho học sinh. Tuy nhiện, phải đảm bảo chính
xác về nội dung và kĩ thuật ra đề.
Nội dung ôn tập và kiến thức để giải quyết tình huống không nằm ngoài kiến
thức cơ bản sách giáo khoa. Không nên cho những tình huống pháp luật quá lắt léo
hoặc đi sâu vào kiến thức pháp luật mà các em chưa được học.
Kiểm tra, đánh giá học sinh theo tinh thần đổi mới, kết hợp đa dạng các hình
thức kiểm tra, đánh giá học sinh.

* Về phía học sinh:
Nắm chắc kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa.
Nắm được cấu trúc đề, cách thức đổi mới đề thi THPT quốc gia.
Tự học, tự giải đề theo định hướng của giáo viên.
Thường xuyên theo dõi các thông tin xã hội ở các kênh truyền thông để trang bị
những kiến thức xã hội cho các tình huống pháp luật ở những câu hỏi vận dụng.
Nắm chắc kiến thức pháp luật liên quan đến nội dung chương trình môn học.
7.1.2.2. Phương pháp và cách thức tiến hành ôn thi
Dựa vào các văn bản hướng dẫn của Sở giáo dục và Đào tạo Vĩnh Phúc trong
việc xây dựng chuyên đề ôn thi THPT QG và dựa và kinh nghiệm của bản thân trong
quá trình ôn thi cho HS, tôi thực hiện ôn thi cho HS theo các bước cơ bản sau:
7.1.2.2.1. Hệ thống kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa và kiến thức mở rộng,
nâng cao (nếu có)
Đề thi THPT QG môn GDCD, kiến thức trong sách giáo khoa sẽ chiếm khoảng
70% và kiến thức liên hệ bên ngoài sẽ chiếm khoảng 30%. Học sinh chỉ cần học trong
sách giáo khoa là có thể đạt được điểm 7. Còn nếu muốn đạt điểm cao hơn, đòi hỏi các
em phải tích cực theo dõi, cập nhật thông tin trên các phương tiện truyền thông đại
chúng về các sự việc xảy ra hằng ngày trong đời sống xã hội. Vì vậy, để đạt được điểm
cao, GV phải đảm bảo việc dạy và ôn tập sao cho HS nắm chắc kiến thức cơ bản trong
sách giáo khoa.

10


Đối với các giờ học chính khóa theo phân phối chương trình, HS phải được học
đầy đủ kiến thức cơ bản trong SGK theo chuẩn kiến thức, kĩ năng. Những nội dung
giảm tải theo phân phối chương trình của Bộ giáo dục, HS có thể đọc thêm ở nhà.
Đối với các giờ học chuyên đề, HS phải hệ thống được kiến thức cơ bản đã
được học chính khóa. GV có thể sử dụng phương pháp hệ thống kiến thức và kĩ thuật
sơ đồ tư duy để giúp HS hệ thống lại kiến thức đã học.

Ví dụ: Khi ôn tập chuyên đề “Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo” để HS dễ
nhớ nội dung chính, GV có thể hệ thống kiến thức bằng sơ đồ tư duy trên khổ giấy to:

GV cũng có thể dùng phương pháp làm việc nhóm để các nhóm tự vẽ sơ đồ tư
duy hệ thống kiến thức bài học hoặc đánh giá mức hiểu biết của HS trong từng đơn vị
kiến thức.

11


Bên cạnh kiến thức cơ bản, GV cũng có thể cung cấp cho HS những kiến thức
mở rộng, nâng cao tùy theo chuyên đề để học sinh có thể vận dụng để làm tốt những
câu hỏi liên hệ và vận dụng.
Ví dụ: Khi dạy bài 9 “pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước” ở
điểm a mục 2: Một số nội dung cơ bản của pháp luật về phát triển kinh tế để học sinh
hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ kinh doanh, GV có thể cung cấp cho HS một số văn
bản pháp luật liên quan để HS có thể vận dụng để giải quyết tốt tình huống trong thực
tiễn.
* Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh
Điều 6 Luật đầu tư và Luật sửa đổi, bổ sung của Luật đầu tư 2014 quy định
danh mục hàng hóa, ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh như sau:
+ Kinh doanh các chất ma túy theo quy định tại Phụ lục 1 của Luật đầu tư;
+ Kinh doanh các loại hóa chất, khoáng vật quy định tại Phụ lục 2 của Luật đầu
tư;
+ Kinh doanh mẫu vật các loại thực vật, động vật hoang dã theo quy định tại
Phụ lục 1 của Công ước về buôn bán quốc tế các loài thực vật, động vật hoang dã nguy
cấp; mẫu vật các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm Nhóm I có
nguồn gốc từ tự nhiên theo quy định tại Phụ lục 3 của Luật đầu tư;
+ Kinh doanh mại dâm;
+ Mua, bán người, mô, bộ phận cơ thể người;

+ Hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính trên người.
+ Kinh doanh pháo nổ
* Các trường hợp không phải đăng ký kinh doanh
Căn cứ khoản 2 Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP, các trường hợp này bao
gồm:
- Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối;
- Những người bán hàng rong, quà vặt;
- Những người buôn chuyến (mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để
bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ);
- Những người kinh doanh lưu động (bán hàng tích hợp trên những phương tiện
di chuyển như xe đẩy, xe máy, xe tải nhỏ…);
- Những người làm dịch vụ có thu nhập thấp.
12


Tuy nhiên nếu kinh doanh các ngành, nghề có điều kiện, những đối tượng nêu
trên vẫn phải đăng ký kinh doanh theo quy định.
7.1.2.2.2. Hệ thống các dạng bài tập đặc trưng theo chuyên đề
Mỗi chuyên đề có các dạng bài tập đặc trưng khác nhau, nhưng theo kinh
nghiệm của tôi thì đề thi THPT QG môn GDCD được phân chia thành các cấp độ nhận
thức rất rõ ràng, việc phân biệt các cấp độ nhận thức cũng dựa vào đặc trưng của từng
dạng câu hỏi nên tôi hệ thống các dạng bài tập cho học sinh theo cấp độ nhận thức:
nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao.
Ví dụ: Khi dạy chuyên đề “Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của
đời sống xã hội” tôi hệ thống các dạng bài tập theo các cấp độ nhận thức và hướng dẫn
HS cách làm bài theo từng cấp độ.
+, Câu hỏi nhận biết: Theo quy định của pháp luật, việc giao kết hợp đồng lao động
phải tuân theo nguyên tắc trực tiếp giữa người sử dụng lao động và
A. chính quyền sở tại.


B. văn phòng tư pháp.

C. người lao động.

D. cơ quan dân cử.

HS phải nhớ được nguyên tắc trong giao kết hợp đồng lao động để trả lời câu hỏi.
Dạng câu hỏi nhận biết thường tái hiện lại các khái niệm, nội dung kiến thức đã
học. Câu hỏi ở dạng đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu.
+, Câu hỏi thông hiểu: Quyền bình đẳng của công dân trong lao động không thể hiện
ở nội dung nào sau đây?
A. Giao kết hợp đồng lao động.

B. Thực hiện quyền lao động.

C. Tự do tìm kiếm việc làm.

D. Quyết định lợi nhuận thường niên.

HS phải hiểu được nội dung quyền bình đẳng trong lao động để phân biệt được
với các quyền khác.
Câu hỏi thông hiểu có độ khó hơn câu hỏi nhận biết, HS cần hiểu được kiến
thức đã học.
+, Câu hỏi vận dụng: Chị A giấu chồng thế chấp ngôi nhà cùa hai vợ chồng chị để
lấy tiền góp vốn cùng bạn mở cửa hàng kinh doanh. Phát hiện sự việc, chồng chị A là
anh S đã đánh và ép chị phải chấm dứt việc kinh doanh với bạn. Bức xúc, chị bỏ về
nhà mẹ đẻ sinh sống. Chị A và anh S cùng vi phạm quyền bình đẳng trong lĩnh vực
nào sau đây?
A. Hôn nhân và gia đình.


B. Tài chính và thương mại.
13


C. Hợp tác và đầu tư.

D. Sàn xuất và kinh doanh.

Ở dạng câu hỏi vận dụng, thường xuất hiện một đến hai nhân vật cụ thể, HS
biết vận dụng kiến thức đã học trên lớp để giải quyết tình huống tương tự sách giáo
khoa hoặc tình huống GV đã giảng trên lớp.
+, Câu hỏi vận dụng cao: Ông S là giám đốc; anh B, anh D, chị A là nhân viên và chị
Q là nhân viên tập sự cùng làm việc tại công ty X. Anh D tố cáo việc anh B đe dọa chị
A làm chị A đột ngột bỏ việc trốn đi biệt tích. Vì thế, cán bộ cơ quan chức năng đến
gặp ông S để xác minh sự việc. Cho rằng anh D cố tình hạ thấp uy tín của mình, ông S
đã kí quyết định sa thải anh và phân công chị Q tạm thời đảm nhận phần việc của anh
D. Những ai sau đây vi phạm quyền bình đẳng trong lao động?
A. Chị A và ông S.

B. Ông S và chị Q.

C. Ông S, chị A và chị Q.

D. Chị A, ông S và anh B.

Ở dạng câu hỏi này, thường xuất hiện rất nhiều nhân vật. Đó là những tình
huống HS sẽ gặp ngoài xã hội, không giống với những tình huống đã học hoặc đã trình
bày trong SGK đòi hỏi HS không chỉ phải nắm chắc kiến thức cơ bản mà còn phải
hiểu biết về kiến thức xã hội, pháp luật hiện hành mới giải quyết được.
Khi cho bài tập ôn luyện GV phải đảm bảo HS được tiếp cận với đầy đủ các

dạng bài tập theo cấu trúc đề thi THPT quốc gia. GV nên sưu tập các dạng bài tập ở
các đề thi của Bộ, của Sở đã từng thi để đảm bảo chính xác về nội dung và kĩ thuật ra
đề. GV nên kết hợp cả bài tập trắc nghiệm và tự luận để học sinh vừa ghi nhớ được
kiến thức cơ bản vừa rèn luyện được cách làm đề trắc nghiệm.
Ví dụ: Khi dạy chuyên đề: “Công dân với các quyền dân chủ” để HS không thụ động
trong việc chọn đáp án có sẵn, GV nên cho câu hỏi tự luận để HS ghi nhớ kiến thức đã
học.
Câu 1: Phân biệt quyền khiếu nại và tố cáo. Cho ví dụ để phân biệt quyền khiếu nại và
tố cáo.
Để trả lời câu hỏi này HS phải nhớ và hiểu được quyền khiếu nại và quyền tố
cáo.
Câu 2: Tại một điểm bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, sau khi độc lập viết
phiếu bầu, anh Q nhờ chị B và được chị B đồng ý bỏ giúp phiếu bầu của anh vào hòm
phiếu. Anh Q vi phạm nguyên tắc bầu cử nào?
Để trả lời câu hỏi này HS phải nhớ được nguyên tắc bầu cử và vận dụng nguyên
14


tắc đó vào giải quyết tình huống cụ thể.
Nguyên tắc bầu cử là: Phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Như vậy,
anh Q đã vi phạm nguyên tắc trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Nếu HS giải quyết đúng tình huống này thì khi gặp những câu hỏi trắc nghiệm
cho sẵn các phương án lựa chọn, HS sẽ dễ dàng chọn ngay được đáp án đúng mà
không cần phải loại trừ các đáp án sai.
7.1.2.2.3. Hệ thống các phương pháp cơ bản, đặc trưng để giải các dạng bài tập
theo chuyên đề
Sau khi giới thiệu cho HS các dạng bài tập đặc trưng, GV hướng dẫn cho học
sinh phương pháp và kĩ thuật giải các dạng bài tập đó. Tùy vào từng chuyên đề mà HS
có phương pháp giải khác nhau.
Ví dụ: Khi dạy chuyên đề “Thực hiện pháp luật” HS dễ bị nhầm lẫn giữa các hình

thức thực hiện pháp luật và các loại vi phạm pháp luật. Giáo viên lấy những ví dụ đặc
trưng để phân biệt cho HS.
Câu 1: Học hết lớp 12, bạn A không thi đại học mà ở nhà phụ giúp bố mẹ kinh doanh.
Bạn A đã thực hiện pháp luật theo hình thức nào dưới đây?
A. Sử dụng pháp luật.

B. Thi hành pháp luật.

C. Tuân thủ pháp luật.

D. Áp dụng pháp luật.

Câu 2: Công dân thi hành pháp luật khi thực hiện hành vi nào sau đây?
A. Hiến máu nhân đạo.

B. Bảo vệ Tổ quốc.

C. Bảo trợ người khuyết tật.

D. Thay đổi quyền nhân thân.

Câu 3: Cơ sở kinh doanh của bà A thường xuyên xả chất thải chưa qua xử lí ra môi
trường. Bà A đã vi phạm pháp luật theo hình thức nào dưới đây?
A. Sử dụng pháp luật.

B. Thi hành pháp luật.

C. Tuân thủ pháp luật.

D. Áp dụng pháp luật.


Câu 4: Tòa án nhân dân huyện X ra quyết định thuận tình li hôn cho anh A và chị B.
Tòa án nhân dân huyện X đã thực hiện pháp luật theo hình thức nào dưới đây?
A. Sử dụng pháp luật.

B. Thi hành pháp luật.

C. Tuân thủ pháp luật.

D. Áp dụng pháp luật.

Để trả lời được những câu hỏi trên, trước hết HS phải xác định được từ khóa
trong câu hỏi và nhận biết được các hình thức thực hiện pháp luật

15


+ Câu 1: Việc bạn A không thi đại học mà ở nhà kinh doanh là việc cá nhân được làm
theo quy định của pháp luật, nên đáp án đúng là A.
+ Câu 2: Thi hành pháp luật là cá nhân phải làm những gì pháp luật quy định phải làm
nên đáp án đúng là B.
+ Câu 3: Việc làm của bà A là không được làm theo quy định của pháp luật nên đáp án
đúng là C.
+ Câu 4: Chỉ có cơ quan có thẩm quyền mới có quyền ra quyết định áp dụng pháp luật
nên việc làm của Tòa án nhân dân huyện X là áp dụng pháp luật.
Như vậy, việc giáo viên lấy các ví dụ điển hình và hướng dẫn HS cách giải sẽ
giúp HS dễ dàng ghi nhớ kiến thức và giải các dạng bài tập tương tự như vậy.
7.1.2.2.4. Hệ thống các ví dụ, bài tập cụ thể cùng lời giải minh họa cho từng chuyên
đề
Sau khi hướng dẫn học sinh cách giải từng dạng bài tập theo chuyên đề, giáo

viên cho HS hệ thống các câu hỏi luyện tập theo cấu trúc đề thi THPT quốc gia. Số
lượng câu hỏi tùy thuộc vào từng chuyên đề. Số lượng câu hỏi thuộc các cấp độ nhận
thức cũng tùy theo từng chuyên đề. GV nên kết hợp cả câu hỏi tự luận và trắc nghiệm
để HS vừa củng cố kiến thức đã học, vừa vận dụng kiến thức đã học để làm bài tập
trắc nghiệm.
Ví dụ: Khi dạy chuyên đề “Công dân với các quyền tự do cơ bản” GV cho HS hệ
thống các ví dụ, bài tập thuộc đầy đủ các cấp độ nhận thức để HS luyện tập cùng lời
giải minh họa.

 Câu hỏi trắc nghiệm
+ Câu hỏi nhận biết:
Câu 1: Việc khám xét chỗ ở của người nào đó không được tiến hành tùy tiện mà phải
tuân theo đúng trình tự, thủ tục do
A. pháp luật quy định.

B. cá nhân đề xuất.

C. cơ quan phê duyệt.

D. tập thể yêu cầu.

Lời giải: Trong khái niệm quyền bất khả về chỗ ở của công dân có nội dung “…Việc
khám xét chỗ ở của công dân không được tiến hành tùy tiện mà phải tuân theo đúng
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định” → đáp án đúng: A
Câu 2: Theo quy định của pháp luật, thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân được
A. bảo đảm an toàn và bí mật.

B. niêm phong và cất trữ.
16



C. phát hành và lưu giữ.

D. phổ biến rộng rãi và công khai.

Lời giải: Trong khái niệm quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại,
điện tín có nội dung “…Thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân được đảm bảo an toàn
và bí mật” → đáp án đúng: A
+ Câu hỏi thông hiểu:
Câu 1: Theo quy định của pháp luật, công dân vi phạm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của người khác trong trường hợp tiến hành việc bắt giữ một người nào đó
đang
A. truy lùng tội phạm.

B. phạm tội quả tang.

C. khống chế con tin.

D. cướp giật tài sản.

Lời giải: Công dân vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của người khác khi
bắt, giam, giữ người trái pháp luật. Các hành vi ở đáp án B, C, D đều là những hành vi
vi phạm pháp luật được phép bắt giữ → đáp án đúng: A
Câu 2: Công dân xâm phạm quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe của
người khác khi thực hiện hành vi nào dưới đây?
A. Bắt đối tượng bị truy nã.

B. Trấn áp bằng bạo lực.

C. Điều tra tội phạm.


D. Theo dõi con tin.

Lời giải: Công dân xâm phạm quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe
của người khác khi cố ý hoặc vô ý làm tổn hại đến sức khỏe người khác→ đáp án
đúng: B
+ Câu hỏi vận dụng: Biết người yêu mình là anh A nghiện ma túy, chị B cùng gia
đình đã chủ động cự tuyệt và kiên quyết ngăn cản không cho anh A đến nhà. Sau nhiều
lần tìm gặp đều bị người yêu từ chối, muốn níu kéo tình cảm, anh A đột nhập vào
phòng riêng của chị B để lại lá thư có nội dung đe dọa sẽ tự sát nếu không cưới được
chị làm vợ. Anh A đã vi phạm quyền nào dưới đây của công dân?
A. Đảm bảo bí mật thư tín, điện tín.

B. Bất khả xâm phạm về chỗ ở.

C. Đảm bảo an toàn tính mạng.

D. Bất khả xâm phạm về thân thể.

Lời giải: Anh A tự ý đột nhập vào chỗ ở của chị B khi chưa được chị B cho phép →
đáp án đúng: B
+ Câu hỏi vận dụng cao: Bà A là giám đốc, bà T là phó giám đốc, ông M và chị H là
nhân viên, anh B là bảo vệ cùng làm việc tại công ty X. Trong một cuộc họp, ông M
17


nêu ý kiến trái chiều nên đã bị bà A yêu cầu dừng phát biểu. Mặc dù vậy, ông M vẫn
kiên quyết trình bày quan điểm cùa mình. Thấy vậy, bà T ép ông M dừng lời và chỉ
đạo anh B đuổi ông ra ngoài. Có mặt trong cuộc họp, chị H đã dùng điện thoại quay
lại toàn bộ sự việc và chia sẻ với nhiều người. Những ai sau đây đã vi phạm quyền tự

do ngôn luận của công dân?
A. Bà A và chị H.

B. Bà T, bà A và anh B.

C. Bà T, chị H và anh B.

D. Bà A và bà T.

Lời giải: Anh B là bảo vệ, Việc anh B làm theo chỉ đạo của giám đốc đuuổi ông M ra
ngoài không vi phạm quyền tự do ngôn luận của công dân nên loại đáp án B và C.
Việc chị H quay vi deo và chia sẻ với nhiều người không vi phạm quyền tự do ngôn
luận nên loại đáp án A → vậy D là đáp án đúng

 Câu hỏi tự luận
Câu 1: Theo em, có phải trong mọi trường hợp công an đều có quyền bắt người
không? Vì sao?
Trả lời:
- Không phải trong mọi trường hợp công an đều có quyền bắt người.
- Vì:
+ Không một ai, dù ở cương vị nào có quyền tự ý bắt và giam, giữ người vì những lí
do không chính đáng hoặc do nghi ngờ không có căn cứ. Tự tiện bắt và giam, giữ
người trái pháp luật là xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân, là hành vi trái pháp luật.
+ Trong một số trường hợp cần thiết phải bắt, giam, giữ người để giữ gìn trật tự, an
ninh, để điều tra tội phạm, để ngăn chặn tội phạm thì những cán bộ nhà nước có thẩm
quyền thuộc Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án và một số cơ quan khác được
quyền bắt và giam, giữ người, nhưng phải theo đúng trình tự và thủ tục do pháp luật
quy định.
Câu 2: Anh K nghi ngờ gia đình ông B tàng trữ ma túy nên đã báo với công an xã X.

Do vội đi công tác, anh T phó công an xã yêu cầu anh S công an viên và anh C trưởng
thôn đến khám xét nhà ông B. Vì cố tình ngăn cản, ông B bị anh S và anh C cùng
khống chế rồi giải ông về giam giữ tại trụ sở công an xã. Hai ngày sau, khi anh T trở
về thì ông B mới được trả lại tự do. Trong tình huống này những ai đã vi phạm quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của công dân?
18


Trả lời: Hành vi vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là hành vi
bắt, giam, giữ người trái pháp luật.
+ Anh S và anh C đã giam giữ người khi chưa có quyết định của cơ quan có thẩm quyền
và giam giữ quá 12 giờ.
+ Anh T có vi phạm pháp luật nhưng không vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân
thể của công dân.
Vậy chỉ có anh S và anh C vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân.
Việc giải quyết đúng các tình huống trong câu hỏi tự luận không chỉ giúp HS ghi
nhớ kiến thức cơ bản mà còn giúp HS đễ dàng chọn đáp án đúng trong câu hỏi trắc
nghiệm ở những tình huống tương tự.
Các câu hỏi, bài tập trên chỉ là những ví dụ điển hình. Trong quá trình ôn luyện
cho HS, GV có thể sưu tầm các đề thi liên quan đến nội dung chuyên đề của các trường
khác tùy thuộc vào thời lượng, đối tượng học sinh và số tiết ôn thi của từng trường.
7.1.2.2.5. Bài tập tự giải ở nhà
GV có thể cho đa dạng các dạng bài tập để học sinh ôn luyện ở nhà để củng cố
kiến thức cơ bản, hoặc có thể sưu tầm đề thi của các trường để học sinh tự giải.
Ví dụ: Bài tập tự giải của chuyên đề “công dân với các quyền tự do cơ bản”
Câu 1. Lựa chọn đáp án đúng để điền vào những chỗ trống dưới đây sao cho phù hợp.
– Mỗi chúng ta phải biết tôn trọng chỗ ở của người khác, đồng thời biết tự
(1)................ chỗ ở của mình và (2)................ người khác khi họ xâm hại chỗ ở một
cách trái phép.
1. A. bảo vệ

B. ủng hộ
C. tố cáo
D. tôn trọng
2. A. bảo vệ
B. ủng hộ
C. tố cáo
D. tôn trọng
– Các quyền tự do cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và luật quy
định mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và (3)...................
3.

A.

nhân

B. công dân.

C. dân tộc.

D. cộng đồng.

dân.
– Theo pháp luật Việt Nam, không ai bị bắt nếu không có quyết định của (4)...............,
quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội (5)...............
4. A. Toà án
5. A. ban đêm.

B. Chính phủ
B. quả tang.


C. Quốc hội
C.
nghiêm
19

D. công an
D. nguy hiểm.


trọng.
– Công dân có quyền bất khả xâm phạm về (6)...................... Việc bắt giữ người phải
theo đúng quy định của pháp luật.
6. A.

thân

B. lương tâm

C.

nhân

D. danh dự

thể.
phẩm
– Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm là
quyền (7).................... của công dân và quan trọng nhất vì nó gắn liền với mỗi con
người, giúp công dân có thể sống tự do và an toàn.
7. A. cơ bản

B. cơ sở
C. thực chất
D. bản chất
– Mọi việc làm xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của người
khác đều bị pháp luật (8)...................... nghiêm khắc.
8. A. cảnh cáo

B. trừng phạt

C. phê phán

D. phê bình

– Trong cuộc sống, chúng ta phải biết (9)................ tính mạng, sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm của người khác. Đồng thời phải biết (10)............... quyền của mình.
9. A. bảo vệ
10. A. tìm hiểu

B. tìm hiểu
B. yêu thương

C. yêu thương
C. bảo vệ

D. tôn trọng
D. tôn trọng

– Mọi hành vi xâm phạm đến danh dự và nhân phẩm của công dân đều vừa trái với
(11)................ xã hội, vừa vi phạm pháp luật.
11. A. dư luận


B. đạo đức

C. chuẩn mực

D. lương tâm

– Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở là một trong những quyền (12)................. của
công dân được quy định trong hiến pháp của Nhà nước ta.
12. A. cơ bản
B. cơ sở
C. thực chất
D. Bản chất
– Không ai được tự ý vào vào chỗ ở của người khác nếu không được người khác đồng
ý, trừ trường hợp (13).................. cho phép.
13. A. toà án
B. pháp luật
C. cảnh sát
D. công an
– Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân là (14) ............ dùng để thăm hỏi, trao đổi
tin tức hoặc cùng nhau bàn bạc công việc sản xuất kinh doanh.
14. A. động lực

B. cơ sở

C. phương tiện

D. mục tiêu

– Quyền tự do ngôn luận có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp công dân (15).............

chủ động và tích cực vào các hoạt động của Nhà nước và xã hội.
15. A. góp ý
B. giúp đỡ
C. tham gia
D. kiến nghị
– Thư tín, điện thoại, điện tín là phương tiện sinh hoạt thuộc về đời sống (16)..............
của mỗi con người, thuộc về bí mật (17)............. của mỗi cá nhân
20


16. A. vật chất
17. A. đời tư

B. tinh thần
B. riêng biệt

C. tâm hồn
C. biệt lập

D. văn hoá
D. riêng tư

– Để thực hiện quyền tự do (18)............., công dân có thể viết thư cho đại biểu Quốc
hội để đề đạt nguyện vọng của mình.
18. A. thân thể

B. ngôn luận

C. tín ngưỡng


D. hội họp

– Để bảo đảm các quyền tự do cơ bản, Nhà nước ta (19)................. pháp luật và
(20)............. nghiêm khắc các hành vi xâm phạm đến các quyền cơ bản của công dân.
19. A. ban hành
B. thực hiện
C. áp dụng
D. đề xuất
20. A. góp ý
B. trừng trị
C. nhắc nhở
D. cảnh cáo
Câu 2. Hãy nối mỗi thông tin ở cột A với những thông tin tương ứng ở cột B sao cho
phù hợp.
A
B
1. Quyền bất khả xâm phạm về a. Gửi bài đăng báo để bày tỏ quan điểm của
thân thể
mình về chính sách của Nhà nước.
2. Quyền được pháp luật bảo hộ
b. Viết thư cho đại biểu Quốc hội để đề đạt
về tính mạng, sức khoẻ, danh dự
nguyện vọng của mình.
và nhân phẩm
3. Quyền bất khả xâm phạm về c. Những người làm nhiệm vụ chuyển thư không
chỗ ở
được để mất thư, điện tín của nhân dân.
4. Quyền được bảo đảm an toàn
d. Không được tự tiện bóc mở, thu giữ thư, điện
và bí mật thư tín, điện thoại, điện

tín của người khác.
tín
e. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác
5. Quyền tự do ngôn luận
nếu không được người đó đồng ý.
g. Cán bộ có thẩm quyền được khám xét chỗ ở
phải theo đúng trình tự, thủ tục nhất định.
h. Không ai được phép xúc phạm người khác để
hạ uy tín và gây thiệt hại về danh dự của người
khác.
i. Không ai được có hành vi cố ý hoặc vô ý làm
tổn hại đến tính mạng, sức khoẻ của người khác.
k. Trong thời hạn 12 giờ, nếu lệnh bắt khẩn cấp
không được Viện kiểm sát phê chuẩn thì người bị
bắt phải được trả tự do ngay.
l. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của
21


Toà án.
Hướng dẫn làm bài – Đáp án
Câu 1. Đáp án : 1A, 2C, 3B, 4A, 5B, 6A, 7A, 8B, 9D, 10C, 11B, 12A, 13B, 14C, 15C,
16B, 17A, 18B, 19A, 20B.
Câu 2. Đáp án : 1 – k, l ; 2 – h, i ; 3 – e, g ; 4 – c, d ; 5 – a, b.
7.1.2.3. Phuơng pháp, kĩ năng làm bài thi
7.1.2.3.1. Nắm chắc kiến thức trong sách giáo khoa
Đề thi THPT quốc gia môn GDCD gồm 40 câu hỏi trắc nghiệm, học sinh làm
trong thời gian 50 phút. Thông thường khi mới nhận đề thi, thí sinh sẽ thấy hơi
"hoảng" vì nhìn đề khá dài. Tuy nhiên, môn GDCD gần như không có sự đánh đố quá
cao siêu cho học sinh, nên dù là câu hỏi nhận biết, thông hiểu hay vận dụng thì học

sinh cũng phải nắm chắc kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa thì mới có thể làm tốt
được bài thi.
Ví dụ: đề thi THPT QG năm 2019 có các câu hỏi sau:
- Câu hỏi nhận biết thuộc kiến thức bài 2 “thực hiện pháp luật”: Sử dụng pháp luật
là việc các cá nhân, tổ chức sử dụng đúng các quyền cùa mình, làm những gi mà pháp
luật
A. đã bãi bỏ.

B. chưa cho phép.

C. cho phép làm. D. tuyệt đổi

cấm.
Để trả lời được câu hỏi này HS phải nhớ được khái niệm hình thức sử dụng pháp luật
để chọn đáp án đúng.
- Câu hỏi thông hiểu thuộc kiến thức bài 8 “pháp luật với sự phát triển của công
dân”: Nội dung quyền được phát triển không thể hiện ở việc công dân
A. được chăm sóc sức khỏe.

B. tự do kinh doanh ngoại tệ.

C. được cung cấp thông tin.

D. tham gia hoạt động văn hóa.

Để trả lời được câu hỏi này HS phải hiểu được nội dung quyền được phát triển của
công dân để loại trừ đáp án không thuộc nội dung đã học.
Đối với những câu hỏi vận dụng cao có nhiều nhân vật, nếu học sinh không
nắm chắc kiến thức cơ bản và không có kinh nghiệm làm sẽ dễ bị rối và mất nhiều thời
gian. Ở những câu hỏi này HS nên đọc câu hỏi trước, rồi đọc nội dung tình huống sau,

tránh để phần dẫn làm cho bị nhiễu, chỉ chọn và gạch chân những nhân vật mà câu hỏi
đề cập đến.
22


Ví dụ: Tình huống vận dụng cao thuộc nội dung kiến thức bài 6 “Công dân với các
quyền tự do cơ bản”: Nghi ngờ cháu A lấy trộm đồ chơi tại siêu thị X, nơi mình làm
quản lí, nên ông M đã chi đạo nhân viên bảo vệ là anh D bắt giữ cháu. Sau một ngày
tìm kiếm, bố cháu A là ông B phát hiện con bị bỏ đói tại nhà kho của siêu thị X nên đã
đến tìm gặp và hành hung làm cho anh D bị đa chấn thương. Những ai sau đây vi
phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân?
A. Ông M và ông B.

B. Anh D và ông B.

C. Ông M và anh D.

D. Ông M, anh D và ông B.

Để trả lời câu hỏi này HS phải nắm được dấu hiệu vi phạm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân là bắt, giam, giữ người trái pháp luật. Trong đó có dấu
hiệu: Không ai được bắt, giam, giữ người vì những lí do không chính đáng hoặc do
nghi ngờ không có căn cứ. Từ đó HS chọn được những nhân vật vi phạm quyền bất
khả xâm phạm về thân thể của công dân là ông M và anh D. Ông B cũng vi phạm pháp
luật nhưng vi phạm quyền được pháp luật bảo đảm an toàn về tính mạng chứ không vi
phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể mà nội dung câu hỏi đề cập đến.
Như vậy, để trả lời đúng các câu hỏi trong đề thi ở tất cả các cấp độ nhận thức
thì trước hết HS phải nắm chắc kiến thức cơ bản trong SGK. Bên cạnh đó, HS phải có
những kĩ năng khác như: nhận diện dạng câu hỏi, xác định được từ khóa, phân bố thời
gian hợp lí…

7.1.2.3.2. Xác định đúng từ "khóa" trong câu hỏi
Để không mất nhiều quá nhiều thời gian cho việc đọc đề và để trả lời nhanh và
chính xác các câu hỏi thì điều quan trọng là HS phải xác định được từ khóa trong câu
hỏi. Từ khóa trong mỗi câu hỏi chính là mấu chốt để học sinh giải quyết vấn đề. Thậm
chí, trong trường hợp học sinh không thuộc chi tiết nội dung kiến thức thuộc câu hỏi,
thì việc xác định đúng từ khóa cũng sẽ giúp HS dễ dàng loại trừ được các đáp án
nhiễu.
Ví dụ 1: Trong câu hỏi nhận biết thuộc nội dung kiến thức bài 2 “thực hiện pháp
luật: Việc cá nhân, tổ chức thực hiện đầy đù những nghĩa vụ, làm những gì mà pháp
luật quy định phải làm là
A. sử dụng pháp luật.

B. thi hành pháp luật.

C. giáo dục pháp luật.

D. tư vấn pháp luật.

Trước hết để làm được câu hỏi này HS phải phân biệt được các hình thức thực
23


hiện pháp luật, sau đó xác định từ khóa trong câu hỏi để chọn đáp án đúng. Cụ thể, có
4 hình thức thực hiện pháp luật:
+ Sử dụng pháp luật: Cá nhân, tổ chức được làm những gì pháp luật cho phép
làm. Từ khóa là “được làm”.
+ Thi hành pháp luật: Cá nhân, tổ chức chủ động làm những gì pháp luật quy định
phải làm. Từ khóa là “phải làm”.
+ Tuân thủ pháp luật: Cá nhân, tổ chức không được làm những gì pháp luật cấm.
Từ khóa là “không được làm”.

+ Áp dụng pháp luật: Cán bộ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định áp
dụng pháp luật.
Từ việc xác định từ khóa HS chọn ngay được đáp án đúng là đáp án B.
Ví dụ 2: Trong câu hỏi vận dụng cao thuộc nội dung kiến thức bài 4 “Quyền bình
đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội”: Ông A và ông B
cùng nộp hồ sơ đăng kí kinh doanh. Biết hồ sơ của mình chưa đủ điều kiện theo quy
định, ông A nhờ chị T đưa cho ông D là lãnh đạo cơ quan chức năng 50 triệu đồng và
được ông D cấp phép kinh doanh cho ông A. Thấy ông A được cấp phép kinh doanh
trong khi hồ sơ cùa mình đủ điều kiện nhưng lại chưa được cấp phép, ông B tung tin
ông A chuyên bán hàng giả. Những ai sau đây vi phạm quyền bình đẳng trong kinh
doanh?
A. Ổng A, ông D và chị T.

B. Ông A và ông B.

C. Ông A và ông D.

D. Ông D, chị T và ông B.

Từ khóa trong câu hỏi này là “vi phạm quyền bình đẳng trong kinh doanh”. HS
phải tìm ra những nhân vật vi phạm quyền bình đẳng trong kinh doanh dựa vào nội
dung kiến thức đã học về quyền bình đẳng trong kinh doanh.
Ông A vi phạm quyền bình đẳng trong kinh doanh vì hồ kinh doanh chưa đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật.
Ông D vi phạm quyền bình đẳng trong kinh doanh vì đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn nhận hối lộ để cấp phép kinh doanh cho cá nhân không có đủ điều kiện kinh
doanh theo quy định của pháp luật.
Chị T và ông B có vi phạm PL nhưng không vi phạm quyền bình đẳng trong
kinh doanh.


24


Như vậy, Mỗi khi đọc câu hỏi xong, điều đầu tiên là HS phải tìm được từ khóa
của câu hỏi và dựa vào nội dung kiến thức đã học để xác định đáp án đúng. Điều đó
giúp thí sinh định hướng được câu hỏi liên quan đến vấn đề gì và đáp án sẽ gắn liền
với từ khóa ấy.
7.1.2.3.3. Dùng phương pháp loại trừ
Trong quá trình làm bài thi GDCD, khi chưa xác định được một đáp án đúng thì
phương pháp loại trừ cũng là một cách hữu hiệu để tìm ra câu trả lời đúng.
Mỗi câu hỏi có 4 đáp án và chỉ có một đáp án đúng, các đáp án cũng thường
không khác nhau nhiều lắm về mặt nội dung. Tuy nhiên vẫn có cơ sở để học sinh dùng
phương án loại trừ bằng "mẹo". Thay vì đi tìm đáp án đúng, HS căn cứ vào nội dung
câu hỏi để tìm phương án sai, rồi loại trừ dần.
Khi không còn đủ cơ sở để loại trừ nữa thì hãy dùng cách phỏng đoán, nhận
thấy phương án nào khả thi hơn và đủ tin cậy hơn thì khoanh vào phiếu trả lời, đó là
cách cuối cùng để HS lựa chọn.
Ví dụ 1: Trong câu hỏi thông hiểu thuộc nội dung kiến thức bài 7 “Công dân với
các quyền dân chủ”: Theo quy định của pháp luật, tại thời điểm tổ chức bầu cử, cử tri
không vi phạm nguyên tắc bầu cử khi
A. độc lập lựa chọn ứng cử viên.

B. ủy quyền thực hiện nghĩa vụ bầu cử.

C. đồng loạt sao chép phiếu bầu.

D. công khai nội dung đã viết vào phiếu

bầu.
HS cần nhớ được nguyên tắc bầu cử là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu

kín.
+ Phương án B vi phạm nguyên tắc trực tiếp.
+ Phương án C và D vi phạm nguyên tắc bỏ phiếu kín.
Vậy đáp án đúng là phương án A
7.1.2.3.4. Phân bổ thời gian hợp lí và không được bỏ trống đáp án
Đề thi THPT quốc gia được sắp xếp từ dễ đến khó theo các cấp độ nhận thức:
nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp và vận dụng cao. Đề thi năm 2019 được chia theo
tỉ lệ 3:3:2:2. Trong đó, 12 câu đầu ở cấp độ nhận biết, 12 câu tiếp theo là câu hỏi thông
hiểu, từ câu 25 đến câu 32 ở cấp độ vận dụng thấp, 8 câu cuối cùng ở cấp độ vận dụng
cao. Thông thường, HS sẽ làm từ dễ đến khó. Tuy nhiên ở những câu hỏi nhận biết và
thông hiểu nếu HS không nhớ kiến thức cơ bản thì cũng khó chọn được đáp án đúng.
25


×