Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

SKKN Tích hợp kiến thức liên môn nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.29 KB, 34 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Lịch sử cũng như các môn học khác, có vai trò tác động đến con người không chỉ
về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng, tình cảm. Bên cạnh đó, còn góp phần xây dựng con
người phát triển về "Đức - Trí - Thể - Mĩ" ở những mức độ khác nhau. Nếu Văn học
giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong thơ ca để càng yêu quý hơn con
người, dân tộc Việt Nam thì thông qua Lịch sử ở trường trung học phổ thông nhằm
giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch
sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng
yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực
tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Bởi “ Bắt
nguồn từ một sự thực là trong khoa học Lịch sử có những yếu tố nghệ thuật”.
Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ,
nhưng hiện nay, việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn những
tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan, nhiều sự kiện nên chưa
tạo được hứng thú học lịch sử đối với học sinh và một thực tế đáng buồn là học sinh
không thích học môn Lịch sử, xem nhẹ môn Lịch sử. Các em tiếp thu kiến thức một
cách hời hợt, rời rạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không nắm được mối liên hệ
hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn… Vì
đa phần các em cho rằng học Lịch sử phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện khô khan, Lịch
sử là một môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ là cái đã qua không thể thay
đổi nên chỉ học cho qua chứ không có gì vận dụng vào thực tế.
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do bản thân
môn Lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa đáp ứng
được 2 yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy Lịch sử chưa phát huy được thế mạnh
của bộ môn, chưa chỉ ra cho các em nhận thức được đây là bộ môn khoa học, cần
phải só sự học tập, nghiên cứu nghiêm túc. Giáo viên chưa thực hiện được không khí


của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình trạng thụ động, chưa phát huy


được tính tích cực của học sinh làm cho không khí học tập mệt mỏi, làm cho giờ học
trở nên khô khan, nặng nề.
Dạy học theo theo chủ đề tích hợp là một trong những nguyên tắc quan trọng trong
dạy học học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. Đây được coi là một quan niệm
dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất
lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho người học lịch sử nhận thức được sự phát
triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh
vực của đời sống xã hội, khắc phục được tính tản mạn rời rạc trong kiến thức.
Dạy học liên môn trong môn lịch sử là hình thức liên kết những kiến thức với môn
lịch sử như Ngữ văn, Địa lí, Tin học, Giáo dục công dân......để học sinh tiếp thu kiến
thức, biết vận dụng kiến thức lịch sử vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để
giải quyết các vấn đề liên quan đến lịch sử.
Từ những lí do trên, tôi chọn giải pháp "Tích hợp kiến thức liên môn nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử ở trường THPT" để nhằm trao đổi với đồng
nghiệp về việc vận dụng phương pháp trên để giải quyết một vấn đề lịch sử cụ thể.
Nhằm giúp giáo viên lịch sử có thể áp dụng vào giảng dạy môn lịch sử một cách sinh
động, giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ môn lịch sử trong chương trình lịch sử
cấp THPT.
2. Tên sáng kiến: "Tích hợp kiến thức liên môn nhằm nâng cao hiệu quả dạy
học Lịch sử ở trường THPT"
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Tuấn
- Địa chỉ: Trường THPT Nguyễn Viết Xuân
- Số điện thoại: 0354337379
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
- Nguyễn Thị Tuấn, giáo viên Lịch sử Trường THPT Nguyễn Viết Xuân – Vĩnh
Tường – Vĩnh Phúc.



5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Nghiên cứu phương pháp tích hợp kiến thức liên
môn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Năm học 2017 2018
7. Mô tả về bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
- Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói
chung và dạy học Lịch Sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện
đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo
dục.
- Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các môn
học với môn Lịch Sử, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học, tức là
con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau “Từ
những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng tích hợp trong
việc xây dựng chương 3 trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm của lí thuyết hệ
thống, nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng như quá
trình dẫn đến trạng thái này”
Hiện nay, Bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy
trong các trường phổ thông. Tuy nhiên đây là một hình thức dạy học mới, giáo viên
chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy việc vận dụng
kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng
Môn lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu biết về
lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con người. Tuy
nhiên, thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn
những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan với nhiều sự kiện
lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn hóa, nghệ thuật, chưa
xen kẽ với văn học, khoa học…nên chưa tạo được sự hứng thú học sử đối với học
sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không nắm được mối quan hệ hữu cơ giữa
các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn. Yêu cầu hiểu biết
lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt cho giáo viên lịch sử nhiệm vụ:



Làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử, kích thích sự hứng thú học lịch
sử cho học sinh. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi giáo viên dạy lịch sử không
chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn lịch sử mà còn phải có những hiểu biết vững
chắc về các bộ môn địa lý, văn học, nghệ thuật, khoa học…để vận dụng vào bài
giảng lịch sử làm phong phú và hấp dẫn thêm bài giảng.
Trong chương trình phổ thông, giáo viên có thể sử dụng phương pháp tích hợp
trong hầu hết các bài dạy, từ đó làm tăng hứng thú cho học sinh.
Trong giảng dạy bộ môn Lịch sử, người giáo viên đóng vai trò quan trọng trong
việc làm sống lại các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến thức
trong sách giáo khoa thì khó có thể tạo dựng lại không khí lịch sử cần thiết để thu
hút các em đi sâu tìm hiểu, khám phá quá khứ của dân tộc, của thế giới. Để tạo nên
những cảm xúc thực sự trước những sự kiện thì việc vận dụng kiến thức liên môn
vào giảng dạy lịch sử là điều cần thiết, nó góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh
động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh.
Lịch Sử, Ngữ văn, Địa lí, GDCD... có liên hệ với nhau, kiến thức môn này sẽ hỗ
trợ cho môn kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó học
sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng, như khi học tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất
Tố, học sinh sẽ hiểu về những thuế, những sưu dịch mà nhân dân phải gánh chịu,
hiểu được những chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp, đặc biệt hiểu và
thông cảm sâu sắc cho tình cảnh người nông dân Việt Nam, làm việc cực nhọc “bán
mặt cho đất, bán lưng cho trời” nhưng vẫn không đủ sống, mà ta nghĩ là bằng ngôn
từ của mình giáo viên khó có thể khắc họa hết những tủi nhục, những đắng cay mà
người dân phải gánh chịu trong thời kỳ pháp thuộc. Và cũng khó tìm thấy một ngôn
từ nào để diễn tả cho hết sức mạnh như vũ bão của quân ta trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh xâm lược hơn những lời thơ của Nguyễn Trãi:
Đánh một trận sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ



(Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi)
Cũng bằng phương pháp trên ta áp dụng khi dạy về "Cuộc kháng chiến chống
Tống thời Lý" (bài 19 - lịch sử 10)
Năm 1077, 30 vạn quân Tống tràn sang nước ta đã bị đánh tan trên trận tuyến
sông như Nguyệt. Học đến đây giáo viên tích hợp kiến thức môn Địa lý, sử dụng bản
đồ để học sinh hình dung được địa hình và vị trí của sông Như Nguyệt (Bắc Ninh).

Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng thêm thơ ca bài “Thơ thần” mà Lý Thường Kiệt
cho người đọc bên đền Trương Hống, Trương Hát với tư cách là nghệ thuật chiến
tranh tâm lí của Lý Thường Kiệt:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Bài thơ như một lời hiệu triệu, nức lòng toàn quân, toàn dân, khiến cho tinh thần, ý
chí quyết tâm của quân dân ta ngày càng tăng. Đồng thời cũng là lời cảnh cáo đanh
thép với kẻ thù về những hành động sai trái của chúng, khiến kẻ thù khiếp vía.


Hoặc khi dạy phần "Phong trào đấu tranh chống quân xâm lược Minh và khởi nghĩa
Lam Sơn" (bài 19 - lịch sử 10). Khi giảng diễn biến trận Chi Lăng –Xương Giang,
giáo viên có thể trích dẫn các câu thơ trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn
Trãi:
“… Ngày 18 trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
Ngày 20 trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu
Ngày 25 bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày 28 Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn
… Xương Giang Bình Than máu trôi đỏ nước…

Bị ta chặn ở Lê Hoa quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vở mật…”
Giặc rơi vào thế cùng quẫn, HS có thể vận dụng kiến thức môn GDCD để nói về
việc nghĩa quân đã "thể đức hiếu sinh" cấp ngựa, thuyền cho chúng về nước thông
qua câu thơ:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo...
Những câu thơ đã thể hiện rõ tấm lòng nhân đạo của quân ta “mở đường hiếu sinh”
cho giặc. Việc làm đó vừa khiến cho giặc nể phục, coi trọng ta mà cũng không dám
sang xâm lược nước ta nữa. Mùa xuân năm 1428, khởi nghĩa thắng lợi, Nguyễn Trãi
viết “Cáo bình Ngô” khẳng định:
“Xã tắc từ đây bền vững
Giang sơn từ đây đổi mới”
Trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa (bài 23 - lịch sử 10 - cơ bản), giáo viên tích hợp
môn Địa lý để trình bày về diễn biến


Lược đồ trận Ngọc Hồi - Đống Đa
Đồng thời tích hợp kiến thức môn Ngữ văn để nói về hình ảnh người anh hùng áo
vải Tây Sơn với ý chí quyết tâm đánh giặc bảo vệ nền độc lập dân tộc
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phẩn
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”
Bên cạnh đó phần nào cũng vạch rõ bộ mặt phản dân bất tài của bè lũ Lê Chiêu
Thống….Với thắng lợi lẫy lừng đó không thể không nhắc đến công lao to lớn của
Quang Trung - Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải mà chính vợ ông là công chúa
Ngọc Hân đã ghi lại sự nghiệp của chồng mình như sau :
“Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình”

Khi dạy bài 19:“Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp
xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) (Lịch sử lớp 11- cơ
bản) về tình hình Việt Nam giữa thế kỷ XIX, trước khi Pháp xâm lược, Việt Nam là
nước độc lập có chủ quyền, kinh tế có những bước phát triển nhưng đã bộc lộ những


suy yếu.....Ở phần này giáo viên có thể sử dụng một số câu ca dao,
tục ngữ, một số câu thơ để làm nổi bật sự khủng hoảng của chế độ
phong kiến dưới triều Nguyễn vào giữa thế kỉ XIX như:
“Vạn niên là Vạn niên nào Thành xây xương lính, hào đào máu
dân”
Hay câu ca dao:
“Con ơi mẹ bảo con này cướp đem là giặc, cướp ngày là quan”
Hay những câu thơ của nhà thơ Nguyễn Công Trứ:
“Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy”…
Hay những câu thơ:
“ Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông”
Khi giảng về hành động của Pháp sau khi bị thất thủ ở Đà Nẵng, Pháp tấn công
vào Nam Kỳ thì học sinh có thể vận dụng kiến thức Địa Lí để trả lời câu
hỏi Vì sao thực dân Pháp sau khi thất thủ ở Đà Nẵng lại tấn công
Nam kỳ? và để hiểu rõ hơn tâm trạng hốt hoảng, hoang mang khi
triều đình đã không chủ động đánh giặc khi thực dân Pháp tấn công
của người dân giáo viên có thể sử dụng bài thơ “Chạy giặc” của
Nguyễn Đình Chiểu.
Khi nhận xét về thái độ chống Pháp của triều đình và của nhân
dân ta, giáo viên có thể sử dụng những câu thơ trong bài thơ:“Văn tế

Nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. Cũng qua bài thơ này
cho học sinh hiểu rõ được tương quan so sánh lực lượng giữa ta và
Pháp (từ quân số, sự thiện chiến, vũ khí trang bị…).


Dạy phần "Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945" (lịch sử lớp 12), giáo viên có
thể nhấn mạnh khí thế bừng bừng như thác đổ của cuộc khởi nghĩa đang lan rộng
khắp các địa phương trong toàn quốc bằng đoạn trích:
“ Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy
Nước non ơi hết thảy vùng lên
Bắc, Trung, Nam khắp ba miền
Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay…”
Học sinh sẽ chú ý lắng nghe, khi được gọi nhận xét, các em có khả năng nhận
xét được không khí trong cuộc khởi nghĩa khi liên tưởng đến những sự kiện mình
đang học bằng hình ảnh miêu tả của bài thơ. Đồng thời còn giúp các em đánh giá
đúng vai trò của quần chúng nhân dân là những người làm nên lịch sử - Là động lực
chính đưa cách mạng đến thành công.
Hay khi dạy bài 20 “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp xâm
lược kết thúc” (Lịch sử 12), giáo viên dùng kiến thức môn Địa lý để xác định cho
học sinh thấy vị trí địa lý của Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía
tây rừng núi Tây Bắc, gần biên giới với Lào, có vị trí then chốt ở Đông Dương và
Đông Nam Á sau đó trình bày diễn biến trên bản đồ. Sau khi khái quát về kết quả
của chiến dịch Điện Biên phủ, giáo viên có thể trích dẫn mấy câu thơ của Tố Hữu
như sau:
“… 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn…”.
Không chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà còn hướng cho học sinh đi tìm
hiểu nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, ta thấy rằng
các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được. Điều này có ý nghĩa

rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục đối với công lao của các thế hệ đi
trước. Đồng thời cũng góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê hương đất nước trong
nhận thức của các em.
Khi nói về ý nghĩa “Chiến thắng của Điện Biên phủ” giáo viên trích câu thơ:


“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Khi dạy bài 9: "Vương quốc Campuchia và vương Lào" (lịch sử lớp 10 - cơ bản),
giáo viên tích hợp môn Kiến trúc bằng cách cho học sinh xem các hình ảnh: Đền
Ăng-co-vát (Căm pu chia), tháp Thạt Luổng (Lào)... để học sinh thấy được trình độ
kiến trúc của con người thời phong kiến. Qua đó thấy được lịch sử phát triển của các
triều đại phong kiến thời đó.
Hoặc khi dạy bài 20: "Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X
- XV" (lịch sử lớp 10 - cơ bản), giáo viên có thể tích hợp kiến thức môn Mĩ thuật,
kiến trúc, điêu khắc như cho học sinh xem hình ảnh chùa Một Cột, tháp chùa Phổ
Minh (Nam Định), lan can đá chạm rồng tại thềm điện Kính Thiên (Hà Nội)....để
học sinh thấy được nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của Đại Việt từ thế kỉ X - XV.

Chùa Một cột


Đôi rồng đá thềm trước Điện Kính Thiên

Bài 36: "sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân" (lịch sử lớp
10- cơ bản): giáo viên tích hợp môn GDCD bằng cách cho học sinh xem bức ảnh “
Lao động trẻ em trong hầm mỏ ở Anh”. Giáo viên đưa ra câu hỏi cho học sinh thảo
luận: Vì sao giới chủ lại thích sử dụng lao động trẻ em? Liên hệ với trẻ em ngày nay,
công ước về quyền trẻ em… Từ đó thấy được tính ưu việt của chế độ ta. Đồng thời
liên hệ ngay ở địa phương: Một số trẻ em chưa đến tuổi lao động cũng đã bỏ học đi

làm và bị bóc lột sức lao động mà không biết.
Hay trong bài 22: “ Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của thực dân Pháp" (lịch sử lớp 11- cơ bản), giáo viên cho học sinh xem các
bức tranh “Nông dân, công nhân Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc” Từ đó học sinh
thấy rõ chính sách khai thác, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp đối với nước ta.
Lịch sử giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về Văn học, như phải hiểu hoàn cảnh tác
phẩm đó ra đời như thế nào mới hiểu hết được dụng ý nghệ thuật cũng như nội dung
sâu sa mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì. Ngược lại Văn học, Địa lý, GDCD,
kiến trúc, Mĩ thuật... làm cho các sự kiện, các kiến thức của lịch sử dễ dàng thấm
vào tiềm thức của con người. Nói về sự hỗ trợ của Lịch sử đối với các môn học
khác, G. Elton đã nói “Nhà sử học cũng có thể dạy cho các khoa học khác rất nhiều


điều. Anh ta có thể giúp các khoa học này hiểu thế giới quan của nhiều phương án
xây dựng sơ đồ, vạch rõ những mối quan hệ tương hỗ mà một chuyên môn hẹp khó
nhận thấy, giúp các khoa học xã hội hiểu rằng đối tượng mà chúng có quan hệ là
những con người. Trong khi tiếp nhận các khoa học khác tính chính xác và tầm rộng
của sự khái quát, đồng thời Lịch Sử có thể hoàn thành nghĩa vụ của mình bằng cách
xây dựng một thái độ nghiêm túc đối với các tài liệu và tránh những khái quát không
có cơ sở vững chắc”.
- Minh họa thiết kế giáo án tích hợp kiến thức liên môn vào một bài cụ thể

TIẾT 26 - BÀI 20
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC
TRONG CÁC THẾ KỈ X – XV
(Lịch sử 10 - chương trình cơ bản)
I. Mục đích yêu cầu
1. Về kiến thức
Giúp người học hiểu và nắm được những kiến thức cơ bản về nguồn gốc,
thành tựu và đặc điểm của văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X – XV

- Gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân ta không ngừng nỗ
lực xây dựng một nền văn hóa dân tộc đặc sắc. Ở các thế kỉ X – XV, công cuộc xây
dựng văn hóa diễn ra đều đặn, nhất quán.
- Tích hợp kiến thức về Nho giáo, Phật giáo, môn văn học, môn mĩ thuật để giúp
học sinh hiểu sâu sắc về những thành tự văn hóa mà nhân dân ta sáng tạo trong các
thế kỉ X – XV là sự kế thừa và phát triển nền văn hóa Việt Cổ thời Hùng Vương
dựng nước (văn minh sông Hồng) đồng thời có sự giao thoa với các nền văn hóa
Trung Quốc, Ấn Độ, tạo ra một nền văn hóa đa dạng.
- Thông qua tích hợp kiến thức văn học, mĩ thuật, âm nhạc, kiến trúc, khoa học quân
sự cùng những kiến thức thực tiễn, lịch sử địa phương để giúp học sinh hiểu được


đặc điểm của văn hóa Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV mang đậm tư tưởng yêu
nước, tự hào và độc lập dân tộc.
2. Về tư tưởng tình cảm
Qua tích hợp kiến thức về tôn giáo (Nho giáo, Phật giáo) văn học, nghệ thuật,
khoa học quân sự…giúp học sinh khắc sâu lòng yêu nước, bồi dưỡng niềm tự hào về
văn hóa dân tộc . Từ đó nâng cao ý thức trân trọng, bảo tồn và phát huy sáng tạo các
giá trị văn hóa – lịch sử của quê hương, đất nước.
3. Về kĩ năng:
- Rèn luyện kĩ năng quan sát, tư duy, phát hiện những nét đẹp trong văn hóa.
II. Thiết bị và tư liệu dạy học
- Tranh ảnh minh họa có liên quan đến bài học: Phật Tổ, Khổng Tử, Lão Tử, các
chùa tiêu biểu ở nước ta từ thế kỉ X – XV (chùa Dâu, chùa Phật tích, chùa Keo, chùa
Một Cột…), chân dung Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi…
- Thơ văn: bài Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), trích đoạn trong “Hịch Tướng
sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Bình Ngô Đại Cáo” (Nguyễn Trãi)...
- Tư liệu về Nho giáo, Phật giáo, chùa Một Cột, tháp Bình Sơn, súng thần cơ…
- Phiếu học tập và phiếu kiểm tra đánh giá cuối giờ học.
III. Tiến trình tổ chức giờ dạy – học

1. Ổn định lớp 10 D2
2. Dẫn dắt vào bài mới
Các em thân mến! Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết về đất nước một cách
thật bình dị mà sâu sắc:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn….”
Đất nước có từ ngày xửa ngày xưa, đất nước là hình hài của quá trình lao
động, chiến đấu không ngừng của bao thế hệ cha ông. Quá trình ấy đã kết tụ thành
những giá trị văn hóa bản địa vững chắc, khẳng định sự trường tồn của quốc gia dân
tộc.


Bài học hôm nay sẽ cho chúng ta hiểu sâu hơn về sự hình thành và phát triển
của văn hóa dân tộc từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
3. Hoạt động dạy và học
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Hoạt động 1- hoạt động nhóm:

Nội dung kiến thức cơ bản
I. Tư tưởng, tôn giáo

- Giáo viên: chia lớp học thành 03 nhóm học
tập, giao nhiệm vụ cho từng nhóm.
Nhóm 1: tìm hiểu về sự phát triển của Phật giáo
ở nước ta thời Lý, Trần.
Nhóm 2: Tìm hiểu sự phát triển của Nho giáo ở
nước ta từ thế kỉ X – XV.
Nhóm 3: Tìm hiểu sự phát triển của Đạo giáo ở
nước ta từ thế kỉ X – XV.

- Các nhóm: thảo luận và cử đại diện trình bày
phần nhiệm vụ được giao.
- Giáo viên: bổ sung, chốt kiến thức:
+ Về Phật giáo:

1. Phật giáo

Giáo viên sử dụng các hình ảnh minh họa:
Chùa Diên Hựu, chùa Phổ Minh, Tháp Báo
Thiên, tượng Phật Bà Quan Âm, chân dung sư
Vạn Hạnh, sư Đỗ Thuận, Ngô Chân Lưu.
Giáo viên nhấn mạnh sự phát triển của Phật
giáo ở nước ta thời Lý, Trần.
Phật giáo được du nhập vào nước ta từ rất sớm,
nhanh chóng được tiếp nhận rộng rãi ở nước ta
trong những thế kỉ đầu công nguyên và đóng vị
trí quan trọng thời Lý – Trần.
Thời Lý, cả vua quan và dân đều sùng phật, sử - Thời Lý: cả vua quan và dân đều
cũ viết:

sùng bái đạo Phật, nhiều nhà sư


“Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 đóng góp tích cực vào sự nghiệp
năm, tôn miếu chưa dựng, xã tắc chưa xây dựng đất nước.
lập mà trước đã dựng 8 chùa ở phủ
Thiên Đức….cấp độ điệp cho hơn 1000
người ở kinh sư làm tăng”
(Đại Việt sử kí toàn thư)
Các vua Lý đã nối tiếp nhau dựng chùa,

đúc chuông, tô tượng, in kinh phật. Thời kì này,
các sư tăng và tín đồ Phật giáo phát triển cả về
số lượng lẫn chất lượng. Theo nhà sử học Lê
Văn Hưu, đời Lý, nhân dân ta có quá một nửa
làm sư sãi, nơi nào có người ở nơi đó có chùa.
Nhiều nhà sư tham gia tích cực vào sự nghiệp
dựng nước và giữ nước như nhà sư Ngô Chân
Lưu, sư Đỗ Thuận, sư Vạn Hạnh…

- Thời Trần, xuất hiện phái Thiền

Thời Trần: Vua Trần Nhân Tông khi lên làm Trúc Lâm Đại Việt. Chùa trở
Thái Thượng Hoàng đã xuất gia đầu Phật và lập thành trung tâm vă hóa ở các làng,
ra phái Thiền Trúc Lâm Đại Việt. Trong nhiều xã.
năm, các kì thi tam giáo vẫn ngự trị trong thi
cử, sĩ tử đi thi phải thông hiểu cả ba giáo lí Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Ở các làng, chùa là
trung trâm, vừa là nơi dạy chữ, vừa là nơi tổ
chức hội hè.
Có thể nói, Phật giáo tác động sâu sắc tới tư
tưởng, tâm lí, phong tục và nếp sống của nhân
dân, có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc, điêu khắc
và nghệ thuật nước ta trong các thế kỉ X – XIV.
Hoạt động 2 – cá nhân:
- Hỏi: Tại sao Phật giáo phát triển mạnh mẽ ở


nước ta thời Lý – Trần?
Giáo viên chốt đáp án (trên cơ sở tích
hợp kiến thức về nội dung giáo lý Phật giáo để

nhấn mạnh khả năng hòa nhập, bắt rễ sâu rộng
của đạo Phật trong nhân dân): Phật giáo vào
nước ta theo con đường truyền bá tự nhiên, giáo
lý Phật giáo đề cao tư tưởng từ bi, hỉ, xả, phù
hợp với đặc điểm tâm lí, lối sống của người Việt
nên nhanh chóng được tiếp thu; Thời Lý – Trần,
trong chặng đường đầu xây dựng nhà nước độc
lập, tính quân chủ chuyên chế chưa sâu sắc, nhà
nước tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển 2. Nho giáo
mạnh
+ Về Nho giáo
Giáo viên tích hợp kiến thức về Nho giáo - Thời kì đầu còn xa lạ với nhân
để nhấn mạnh: Nho giáo vào nước ta theo con dân
đường quan phương cùng với sự thống trị và nô
dịch của các triều đại phong kiến phương Bắc.
Vì vậy, cho đến đầu thời kì quốc gia phong kiến
độc lập, nó mới chỉ dừng lại ở một bộ phận giai - Từng bước được giai cấp phong
cấp thống trị, còn xa lạ với nhân dân.

kiến nâng cao, trở thành nội dung

Cùng với bước đường xây dựng nhà nước chi phối giáo dục, khoa cử, đến
quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, hệ thế kỉ XV, nho giáo chiếm vị trí
tư tưởng Nho giáo từng bước được giai cấp độc tôn.
phong kiến nâng cao, được đặt thành những
nguyên tắc cơ bản trong quan hệ vua – tôi, cha
– con, chồng – vợ, trong đó người trên (vua, - Khi du nhập vào nước ta, nho
cha, chồng) phải thương yêu, chăm sóc và bao giáo ít nhiều bị điều chỉnh phù
dung người dưới, còn người dưới (tôi, con, vợ) hợp với văn hóa bản địa của người



phải thương yêu, kính trọng và phục tùng người Việt.
trên. Nho giáo là nội dung chi phối giáo dục, thi
cử. Từ cuối thế kỉ XIII đến đâu thế kỉ XIV, Nho
giáo phát triển mạnh, đến thời Lê Sơ, nhà nước
hạn chế Phật giáo, Nho giáo chiếm vị trí độc
tôn. Sự phát triển của giáo dục Nho học cũng
góp phần củng cố vị trí của Nho giáo.
Tuy nhiên, Nho giáo khi du nhập vào
Việt Nam cũng ít nhiều bị điều chỉnh phù hợp
với văn hóa bản địa, tín ngưỡng, tâm lí của
người Việt.
Hoạt động 3 – cá nhân:
- Hỏi: Tại sao đến thời Lê Sơ, Nho giáo chiếm 3. Đạo giáo
địa vị độc tôn?
- Học sinh trả lời
- Giáo viên chốt đáp án, trên cơ sở tích hợp - Hòa lẫn vào tín ngưỡng dân gian
kiến thức về nội dung giáo lý Nho giáo, nhấn
mạnh vai trò của Nho giáo: Tư tưởng Nho giáo
góp phần duy trì tôn ti trật tự xã hội, củng cố
chế độ quân chủ chuyên chế, được giai cấp
phong kiến nâng lên vị trí độc tôn. Giáo dục
Nho học phát triển góp phần củng cố vị trí của
Nho giáo.
+ Về Đạo giáo:
Giáo viên sử dụng hình ảnh minh họa: ảnh
tượng Đạo Sĩ Yên Kì Sinh.
Đạo giáo được truyền bá vào nước ta từ rất
sớm cùng với Nho giáo và Phật giáo. Đạo sĩ
Yên Kì Sinh sang nước ta đặt lò luyện linh đan



ở Yên Tử (Đông Triều Quảng Ninh). Đạo giáo
ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân và hòa lẫn 4. Tín ngưỡng:
với tín ngưỡng dân gian. Đạo giáo phù thủy rất - Tín ngưỡng truyền thống tiếp tục
tương đồng với tín ngưỡng ma thuật nên sự hòa phát triển.
trộn xảy ra rất mãnh liệt.
Hoạt động 4 – cá nhân:
- Hỏi: Tại sao Đạo giáo du nhập vào nước ta
lại hòa lẫn với tín ngưỡng dân gian
- Học sinh trả lời:
- Giáo viên chốt đáp án: trên cơ sở tích hợp kiến
thức giáo lý Đạo giáo để nhấn mạnh: Đạo giáo
tương đồng với tín ngưỡng ma thuật nên khi du
nhập vào Việt Nam đã hòa lẫn vào tín ngưỡng
dân gian.
Hoạt động 5 – Giáo viên thuyết trình về tín
ngưỡng
Tín ngưỡng:
Giáo viên thuyết trình Những tín ngưỡng từ thời
Việt Cổ như: thờ cúng tổ tiên, thờ người có
công với làng với nước, thờ thần, thờ các hiện
vật tiêu biểu cho nguồn gốc dân tộc tiếp tục
phát triển và ngày càng phổ biến. Giáo viên sử
dụng hình ảnh minh họa, tích hợp kiến thức lịch
sử địa phương về đền thờ Đức Ông ở huyện
Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc: Đền thờ danh
tướng dưới thời Lý Cao Tông 1176 Nguyễn
Văn Nhượng, ông đã có công đánh giặc Ai Lao,
giữ gìn biên ải bình định non sông được vua Lý

Cao Tông ban cho nhiều ấn tín, lúc ông mất


được vua cho xây lăng và lập đền thờ phong
Đông Kinh Thông Phán Đại Vương Thượng
Đẳng phúc thần hưởng theo nghi lễ quốc thể.
Hoạt động 1 – Giáo viên thuyết trình vê sự II. GIÁO DỤC, VĂN HỌC,
phát triển giáo dục Đại Việt từ thế kỉ X - XV

NGHỆ THUẬT, KHOA HỌC –

Giáo viên sử dụng hình ảnh Văn Miếu – Quốc KĨ THUẬT
Tử Giám, Văn bia Tiến sĩ, ban thờ Khổng Tử để
minh họa sự phát triển của giáo dục Đại Việt (X 1. Giáo dục
- XV):
Nhu cầu xây dựng đất nước và nâng cao
tri thức đã thúc đẩy các nhà nước đương thời
quan tâm đến giáo dục.

a. Sự phát triển giáo dục

Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng Văn
Miếu ở kinh đô Thăng Long, đắp tượng Khổng
Tử, Chu Công, vẽ tượng 72 học trò xuất sắc của
Khổng Tử, bốn mùa cúng tế. Hoàng Thái tử đến - Thời Lý: Năm 1070, nhà Lý cho
học ở đây. Năm 1075, nhà Lý tổ chức kì thi xây dựng Văn Miếu; năm 1075,
Minh kinh bác học và Nho học tam trường.

nhà Lý tổ chức khoa thi đầu tiên


Thời Trần, các khoa thi được tổ chức đều
đặn hơn. Năm 1247, đặt lệ lấy “tam khôi”, (ba
người đỗ đầu), quy định rõ nội dung học tập,mở
rộng quốc tử giám cho con em quí tộc và quan - Nhà Trần: tổ chức các khoa thi
lại đến học.

đều đặn.

Thời Lê sơ, qui chế thi cử được qui định
rõ ràng: cứ 3 năm có một kì thi hội, chọn tiến sĩ,
riêng thời vua Lê Thánh Tông tổ chức được 12 - Thời Lê Sơ: qui định rõ qui chế
khoa thi Hội. Năm 1484, nhà nước quyết định thi cử, năm 1484 cho dựng bia tiến
dựng bia ghi tên tiến sĩ.
Hoạt động 2 – cá nhân:

sĩ.


- Hỏi:Nội dung chi phối giáo dục nước ta thời
kì từ thế kỉ X đến XV là gì? Hiện nay ở văn
miếu Quốc tử giám còn lại bao nhiêu bia tiến
sĩ?
- Học sinh trả lời:
- Giáo viên chốt đáp án: Nội dung ch phối giáo
dục, khoa cử nước ta từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
là tư tưởng Nho giáo. Hiện nay ở Quốc Tử b. Tác động của giáo dục:
Giám có 82 bia tiến sĩ.

- Giáo dục góp phần đạo tạo người


Hoạt động 3 – Giáo viên thuyết trình về tác tài xây dựng đất nước.
động của giáo dục

- Giáo dục Nho học không tạo

Hoạt động 4 – cá nhân:

điều kiện cho phát triển kinh tế.

- Hỏi: Tại sao giáo dục Nho học không tạo điều
kiện cho sự phát triển kinh tế?
- Học sinh trả lời:
- Giáo viên chốt đáp án trên cơ sở tích hợp kiến
thức về giáo lý Nho giáo để nhấn mạnh: giáo
dục Nho học, chú trọng các chuẩn mực đạo đức
xã hội, không đề cập đến kiến thức khoa học kĩ
thuật nên không thúc đẩy kinh tế phát triển
Hoạt động 1 – Giáo viên:

2. Văn học

Tích hợp kiến thức văn học, sử dụng hình ảnh
minh họa chân dung Nguyễn Trãi, tượng Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, các tác phẩm:
Nam Quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô Đại * Thời kì đầu văn học mang nặng
cáo.

tư tưởng Phật giáo.

* Văn học chữ Hán:


* Từ thời Trần, văn học dân tộc

- Thời kì này xuất hiện hàng loạt bài hịch,bài được hình thành:
phú nổi tiếng như Nam Quốc sơn hà (Lý


Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), - Văn học chữ Hán: xuất hiện bài
Bạch Đằng Giang Phú (Trương Hán Siêu), Bình hịch, bài phú nổi tiếng như Nam
Ngô Đại cáo (Nguyễn Trãi)…

Quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt),

Hoạt động 2 – cá nhân

Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn),

Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài thơ và giới Bạch Đằng Giang Phú (Trương
thiệu nội dunng “Nam Quốc sơn hà” của Lý Hán Siêu), Bình Ngô Đại cáo
Thường Kiệt.
+ Nam Quốc sơn Hà: bản phiên âm
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lại xâm phạm ?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Giáo viên tích hợp kiến thức bài “Sông núi
nước Nam”, tiết 17 môn Ngữ Văn lớp 7 để nhấn
mạnh:
"Nam quốc sơn hà là bài thơ ngắn, chỉ
gồm 28 chữ nhưng đã tuyên bố rõ tính chất

"pháp lý" về chủ quyền nước Đại Việt của
người Đại Việt. "Hoàng đế nước Nam ở nước
Nam" điều đó đã được sách trời ghi rõ. Hoàng
đế nước Nam không "tiếm vị", không "nghịch
mệnh trời". Đó là lý do xác đáng để nếu kẻ địch
hung dữ nào dám xâm phạm tới ắt sẽ bị bại
vong. Bài thơ vừa tuyên bố chủ quyền đất nước,
vừa tuyên bố quyết tâm giữ vững chủ quyền đất
nước của dân tộc Đại Việt".
+ Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)
Hoạt động 3 – cá nhân:

(Nguyễn Trãi)…


Giáo viên yêu cầu học sinh giới thiệu nội dung
bài Hịch.
Giáo viên tích hợp kiến thức bài “Hịch tướng
sĩ”, tiết 93, 94 môn Ngữ Văn lớp 8, nhấn mạnh:
Trước vận nước nguy nan, với tư cách là
chủ soái, Trần Quốc Tuấn đã lấy tình cảm, tâm
huyết của mình để trò chuyện, khích lệ tướng sĩ
sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng quân Nguyên
hung tàn.
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ
gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ
căm tức chưa xả thịt, lột da nuốt gan uống máu
quân thù. Dẫu cho trăm thây này phơi ngoài nội
cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa. Ta cũng
vui lòng…”

Bài Hịch đã trở thành tiếng kèn xung
trận, làm cho toàn quân, toàn dân ta nức lòng,
hăng hái đánh giặc. Cùng với khí thế của Hội
nghị Diên Hồng bừng bừng quyết tâm Sát Thát,
bài Hịch đã góp phần quan trọng làm nên chiến
thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần, tạo nên
hào khí Đông A rực rỡ, lưu danh muôn đời.
+ Bình Ngô Đại Cáo(Nguyễn Trãi)
Hoạt động 4 – cá nhân:
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc một đoạn trích
trong bài “Bình Ngô Đại cáo”
“....Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân


Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc
lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên
xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt thời nào cũng có...”
Giáo viên tích hợp kiến thức bài “Đại cáo
bình Ngô” (Bình Ngô đại cáo) môn Ngữ Văn:
tiết 59, 60,61 chương trình chuẩn lớp 10 để
nhấn mạnh:
Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô Đại cáo” với

cảm hứng chính trị và cảm hứng nghệ thuật.
Cảm hứng chính trị để làm nên bản tuyên ngôn
độc lập thứ hai sau bài Nam Quốc sơn hà. Cảm - Từ thế kỉ XV, văn học chữ Hán,
hứng nghệ thuật để làm nên một kiệt tác văn văn học chữ Nôm cùng phát triển
chương.Hai cảm hứng ấy hòa quyện làm một
trong Bình Ngô đại cáo như góp phần khẳng
định độc lập chủ quyền của dân tộc và nêu cao
ý nghĩa chiến thắng chống quân Minh xâm
lược.

Tiểu kết: các tác phẩm văn học

* Ở thế kỉ XV, văn học chữ Hán và chữ Nôm chữ Hán toát lên niềm tự hào dân
cùng phát triển với cá tập thơ của Nguyễn Trãi, tộc và lòng yêu nước sâu sắc, đánh


Lê Thánh Tông có nội dung ca ngợi quê hương dấu sự hình thành của văn học dân
đất nước.

tộc.

Hoạt động 4 – cá nhân, cả lớp:
-Hỏi:Tại sao nói từ thế kỉ X – XV là thời kì hình
thành văn học dân tộc?
- Học sinh trả lời:
- Giáo viên chốt đáp án: các tác phẩm văn học
thời kì này vừa thể hiện tài năng văn học, vừa
toát lên niềm tự hào dân tộc và lòng yêu nước
sâu sắc, đánh dấu sự hình thành của văn học
dân tộc.

Hoạt động 1 – Giáo viên

3. Nghệ thuật

- Từ thế kỉ X – XIV, các công trình kiến trúc - Kiến trúc Phật giáo được xây
Phật giáo được xây dựng khắp nơi. Những chùa dựng khắp nơi, tiêu biểu là chùa
nổi tiếng có quy mô lớn và trang trí đẹp là chùa Một Cột.
Phật Tích, chùa Dâu, chùa Thầy, chùa Quỳnh
Lâm, chùa Keo, chùa Yên Tử, trong đó tiêu
biểu nhất là chùa Diên Hựu (chùa Một Cột),
Hoạt động 2 – cá nhân:
Giáo viên yêu cầu học sinh mô tả chùa Một Cột
Giáo viên tích hợp kiến thức môn Mĩ thuật lớp
6, bài 10, tiết 10 “Sơ lược một số công trình Mỹ
thuật thời Lý” để làm rõ sự độc đáo của chùa
Một cột.
Chùa được xây dựng gắn liền với sự tích nằm
mộng của vua Lý Thái Tông. Nhà vua nằm
mộng được Phật Bà quan âm dắt lên đài sen
ngự tọa, quân thần cho là điềm gở nên xin vua


cho xây dựng một ngôi chùa như bông sen nở
trên mặt nước, đặt tên là chùa Diên Hựu với
ước nguyện phúc lành dài lâu.
Chùa được xây dựng năm 1049, gồm ngôi chùa
và tòa đài xây giữa hồ vuông. Cả cụm vốn có
gọi là chùa Diên Hựu và riêng tòa đài có tên là
đài Liên Hoa. Đài này lâu nay quen gọi là “chùa
Một Cột”. Người đương thời đã miêu tả: “Giữa

hồ dựng lên một cột đá, trên cột đá nở một bông
sen ngàn cánh, trên bông sen lại gác một tòa
điện, trên điện đặt tượng Phật vàng”
Thực tế, chùa Một Cột đã qua nhiều lần tu sửa,
năm 1954, trước khi rút khỏi miền Bắc, thực
dân Pháp đã phá hủy Liên Hoa Đài. Sau đó
chính phủ ta đã cho xây dựng lại vào năm 1955.
Hoạt động 2 – Cá nhân học sinh:
- Hỏi: Nêu nét đặc sắc trong kiến trúc của chùa
Một Cột.
- Học sinh trả lời:
- Giáo viên chốt đáp án: Chùa được đặt trên
một trụ bằng đá, giống như hình bông sen vươn
thẳng lên trên mặt nước.
Hoạt động 3 – Cá nhân học sinh:
- Hỏi: Ở Vĩnh Phúc có công trình kiến trúc
Phật giáo tiêu biểu nào được xây dựng thời Lý Trần?
- Học sinh trả lời
Giáo viên: nêu đáp án, tích hợp kiến thức lịch


×