Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Sử dụng tình huống pháp luật trong dạy bài Thực hiện pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.67 KB, 58 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Phần 1: Lời giới thiệu

2

Phần 2: Tên sáng kiến kinh nghiệm

3

Phần 3: Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh ngiệm

3

Phần 4: Ngày sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng lần đầu

3

Phần 5: Mô tả bản chất của sáng kiến kinh nghiệm

4 – 52

5.1. Cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn

4

5.2. Thực trạng vấn đề


4

5.3. Nội dung sáng kiến

4

Phần 6: Thông tin bảo mật

55

Phần 7: Các điều kiện cần thết để áp dụng sáng kiến

55

Phần 8: Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá
nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có).

55

Phần 9: Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả

55

Phần 10: Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân

57


Phần 11: Danh sách các tổ chức, cá nhân tham gia áp dụng sáng kiến
lần đầu

58

1


Phần 1: LỜI GIỚI THIỆU
Môn Giáo dục công dân là một môn khoa học xã hội, nhằm trang bị cho học sinh kiến
thức cơ bản về pháp luật, kinh tế chính trị - xã hội và các phạm trù đạo đức. Có vai trò quan
trọng trong việc hình thành các giá trị cơ bản, các kỹ năng, phẩm chất và năng lực mà mỗi công
dân cần phải có.
Trên thực tế do sức ép của thi cử và khối lượng lớn kiến thức của các môn học và tư tường còn
coi đây là môn phụ trong nhà trường. Do vậy môn học ít được quan tâm, chú trọng. Năm 2017 là
năm đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa môn Giáo dục công dân vào thi trung học phổ thông
Quốc gia với hình thức thi trắc nghiệm khách quan. Nội dung thi năm đầu tiên nằm ở toàn bộ ở
chương trình lớp 12, hai năm tiếp theo nội dung thi kiến thức lớp 12 (90%), lớp 11 tập trung ở 5
bài đầu (10%). Tuy nhiên, vì bộ môn mới đưa vào thi nên ngân hàng câu hỏi còn ít, kinh nghiệm
ôn thi của giáo viên còn hạn chế. Việc trao đổi phương pháp ôn thi và xây dựng các chuyên đề
ôn thi chưa được triển khai sâu rộng. Các câu hỏi và tình huống đưa vào trong học và ôn thi chỉ
là các tình huống giả thiết, mô phỏng một hoàn cảnh thực tiễn cụ thể, do đó không thu hút được
sự húng thú của người học và độ ghi nhớ kiến thức một cách tốt nhất.
Bản thân là giáo viên dạy môn Giáo dục công dân nhiều năm dạy ôn thi, tôi đã rút ra
được một số kinh nghiệm về quá trình dạy học, đặc biệt là đối với dạy học về kiến thức pháp
luật. Đối với kiến thức pháp luật vốn dĩ khô khan, một số nội dung dài và khó hiểu, mà bản thân
giáo viên lại chỉ thuyết trình hay truyền đạt kiến thức một chiều sẽ làm học sinh chán, gây mệt
mỏi trong học. Do đó để phát huy sự tích cực của học sinh, năng lực pháp luật cũng như khả
năng hiểu và vận dụng được kiến thức pháp luật vào thực tiễn, tôi đã mạnh dạn làm đề tài dạy
học và ôn thi trung học phổ thông Quốc gia: “Sử dụng các tình huống pháp luật trong dạy bài

Thực hiện pháp luật”.
Trong đề thi trung học phổ thông Quốc gia của ba năm vừa qua, phần lớn câu hỏi được
đưa ra ở bài 2. Thực hiện pháp luật trong chương trình Giáo dục công dân lớp 12. Bởi đây là
phần nội dung quan trọng gắn liền với đời sống thực tiễn pháp luật mà mỗi giáo viên và cả học
sinh cần nắm được. Hơn nữa việc sử dụng phương pháp truyền thụ kiến thức theo phương pháp
truyền thống, khó nhấn mạnh được nội dung trọng tâm, không mở rộng kiến thức khó liên quan
đến bài học. Đặc biệt là học sinh không hứng thú với bài dạy.
Xu hướng đề của Bộ ra là gộp nhiều vi phạm pháp luật trong một tình huống buộc học sinh phải
hiểu và nắm chắc kiến thức mới làm được bài. Để giúp học sinh hiểu biết đầy đủ về pháp luật và
vận dụng kiến thức đã học vào giải bài tập trong đề thi đạt kết quả cao, tôi đã nghiên cứu, tìm
hiểu và đã áp dụng nội dung đề tài “Sử dụng tình huống pháp luật trong dạy bài Thực hiện pháp
luật”.

2


Phần 2: TÊN ĐỀ TÀI
“SỬ DỤNG TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT TRONG DẠY BÀI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT”

Bản thân tác giả
Phần 3: LĨNH VỰC ÁP DỤNG
- Dạy học (môn Giáo dục công dân cho học sinh THPT)
- Vấn đề mà sáng kiến giải quyết: Từ những tình huống vi phạm pháp luật trong thực tiễn, sẽ
đem lại không khí học tập mới, từ đó nâng cao hứng thú cho học sinh trong việc học. Đồng thời
nâng cao kỹ năng trả lời câu hỏi trắc nghiệm, khắc phục được các lỗi thường mắc phải. Giúp học
sinh vận dụng kiến thức vào việc giải quyết tốt các tình huống thực tiễn, góp phần nâng cao kết
quả học tập cho học sinh.
Phầ 4: NGÀY ÁP DỤNG LẦN ĐẦU
Ngày: 10 / 9 / 2017


3


Phần 5: MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
5.1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
a. Cơ sở lí luận.
- Để quản lí xã hội, mỗi nhà nước cần phải xây dựng hệ thống quy tắc xử sự chung áp dụng cho
mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội, làm cho mọi hoạt động của cá nhân,
tổ chức diễn ra trong vòng một trật tự ổn định. Hệ thống quy tắc xử sự đó là pháp luật.
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện
bằng sức mạnh của nhà nước.
- Toàn bộ chương trình giáo dục công dân lớp 12 là kiến thức về pháp luật cơ bản mà mỗi công
dân cần phải biết, hiểu và vận dụng được.
- Học về pháp luật vốn dĩ khô khan, khó hiểu, do vậy phương pháp đưa tình huống pháp luật
thực tiễn vào giảng dạy là một trong những cách dạy nhằm tăng hứng thú và hiệu quả cần đạt
được.
- Tình huống trong dạy và ôn tập cho học sinh thi trung học phổ thông thường là các tình huống
giả, mô phỏng thực tiễn chứ chưa áp dụng tình huống thực tiễn (vụ việc pháp luật) vào trong dạy
và ôn tập.
Vậy tình huống là gì?
Tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại một nơi, trong một thời gian, trên thực tế
buộc người ta phải suy nghĩ, hành động, đối phó, giải quyết.
Vậy tình huống được đưa vào trong giảng dạy là các tình huống xảy ra trên thực tế, được sử
dụng làm tư liệu trong giảng dạy, nhằm giải thích nội dung kiến thức, ghi nhớ kiến thức và giải
bài tập.
b. Cơ sở thực tiễn
*. Thuận lợi:
- Học sinh ngoan có ý thức học, trường có chất lượng đầu vào cao nên khả năng học và nắm bắt
nội dung nhanh.
- Được nhà trường quan tâm tạo điều kiện để có thời gian ôn tập và giảng dạy cho học sinh.

- Nhiều năm thi Trung học phổ thông Quốc gia, môn GDCD của trường đạt điển cao, cụ thể:
+ Năm học 2016 – 2017 và năm học 2018 – 2019 đạt điểm cao đứng thư hai của tỉnh.
+ Năm học 2018 – 2019 , đạt điểm cao nhất tỉnh.
- Đội ngũ giáo viên phụ trách môn có trình độ và kinh nghiệm nhiều năm trong giảng dạy.
*. Khó khăn:
- Trong phạm vi nhà trường THPT, kiến thức pháp luật truyền dạy cho học sinh chỉ dừng lại ở
những nội dung kiến thức cơ bản nhất, thiết thực nhất nên không có nhiều các tài liệu hay các
phương tiện hỗ trợ học tập khác.
- Nhiều học sinh chưa thực sự đầu tư, chú tâm trong việc học vì còn nghĩ đây chỉ là môn học
“điều kiện” để qua tốt nghiệp.
- Trình độ chuyên môn của giáo viên không phải là những giáo viên chuyên pháp luật, do vậy
còn khó khăn trong việc giải thích một số kiến thức pháp luật thực tiễn.
4


- Thời gian ôn tập cho thi Trung học phổ thông Quốc gia còn ít, do vậy khó khăn trong việc hệ
thống các kiến thức trong tâm.
5.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
 Khảo sát học sinh ở lớp 12D1; 12D2; 12D3; 12D4 ở trường THPT Yên Lạc cho thấy %
số học sinh xử lý chưa làm tốt các các câu hỏi trắc nghiệm, các câu hỏi tình huống và các lỗi
còn mắc phải như sau:
Lớp

12D1

12D2

12D3

12D4


%

33,5%

41,6%

52,9%

57,1%

 Giáo viên ở các trường THPT nói chung và trường THPT Yên Lạc nói riêng chưa có
nhiều tài liệu tham khảo về pháp luật và tình huống pháp luật.
5.3. Nội dung sáng kiến
Đề tài: Sử dụng tình huống pháp luật trong dạy bài Thực hiện pháp luật
a. Thực hiện pháp luật
*. Kiến thức cơ bản
- Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không hành động) được tiến hành
phù hợp với quy định của pháp luật, tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật
đã quy định. Thực hiện pháp luật có thể là việc thực hiện một thao tác nào đó nhưng đó cũng có
thể là việc không thực hiện thao tác bị pháp luật cấm.
- Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy định của pháp
luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
- Sơ đồ hóa khái niệm:

5


- Nhà nước ban hành pháp luật để hướng dẫn hành vi, điều chỉnh cách xử sự của mỗi cá nhân, tổ
chức theo quy định của pháp luật, cách thức hoạt động phù hợp với yêu cầu của nhà nước.

Các ví dụ
VD1: Khi tham gia giao thông, mọi người đi xe máy, xe đạp, ô tô đều tự giác dừng lại đúng
nơi quy định khi có đèn đỏ, đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, các phương tiện tham gia giao thông
đi đúng làn đường theo quy định.
VD2: Cảnh sát giao thông lập biên bản xử phạt người tham gia giao thông vi phạm. Việc áp
dụng pháp luật của cảnh sát giao đối với người vi phạm luật giao thông là thực hiện pháp luật.
VD3: Người tham gia kinh doanh sản xuất, không kinh doanh, sản xuất hàng giả, hàng cấm
-Từ những việc làm trên thể hiện công dân tuân theo quy định của pháp luật, đảm bảo cho những
quy định đó được thực thi trong đời sống thực tiễn xã hội. Điều đó có nghĩa là pháp luật chỉ thực
sự đi vào đời sống nếu mỗi cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội cụ thể, trong
hoàn cảnh, điều kiện cụ thể đều lựa chọn cách xử sự phù hợp với quy định của pháp luật.
*. Kiến thức mở rộng của thực hiện pháp luật
Quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở
thành hành vi hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Trong đó thực hiện pháp luật là giai đoạn tiếp theo
sau khi văn bản pháp luật được ban hành và có hiệu lực. Nếu như việc xây dựng và ban hành
pháp luật là quá trình đưa đời sống thực tiễn xã hội vào pháp luật, thì việc thực hiện pháp luật là
quá trình ngược lại: Đưa pháp luật trở lại đời sống thực tiễn xã hội.
b. Các hình thức thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là quá trình thường xuyên trong cuộc sống, với sự tham gia của cá
nhân,
tổ
chức,

quan
được
thể
hiện
dưới
4
hình

thức
sau:
*. Sử dụng pháp luật
- KN: Là các cá nhân, tổ chức sử dụng đúng đắn các quyền của mình làm những gì mà pháp luật
cho phép làm.
Việc công dân sử dụng đúng đắn các quyền của mình làm những gì mà pháp luật cho phép là đã
cụ thể hóa các quyền của mình trong thực tiễn.
Đối với hình thức sử dụng pháp luật khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác ở chỗ: Chủ
thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền pháp luật cho phép theo ý chí của
mình.
Các ví dụ.
VD1: Công dân đủ 18 tuổi được phép điều khiển xe máy 50cm3 trở lên.
VD2: Công dân nam đủ 20 tuổi, nữ đủ 18 tuổi có quyền được kết hôn.
VD3: Công dân đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được tham gia kinh doanh.
+ Đối với các quyền đó công dân có thể thực hiện hoặc không thực hiện tùy theo theo mong
muốn và ý trí của bản thân.
*. Thi hành pháp luật
- KN: Là các cá nhân, tổ chức thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chủ động làm những gì mà pháp luật
quy định phải làm. Thi hành pháp luật là cá nhân, tổ chức chủ động, tích cực thực hiện nghĩa vụ
6


dưới hình thức “hành vi hành động” và cũng là những quy phạm mang tính bắt buộc đối với chủ
thể phải làm.
Các ví dụ.
VD1: Trong đợt tuyển nghĩa vụ quân sự năm 2019 của huyện Yên Lạc, tại xã Bình Định những
thanh niên nhận được lệnh gọi đã tự giác thực hiện khám sức khỏe sơ tuyển nghĩa vụ quân sự.
VD2: Người tham gia giao thông tự giác đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe máy, xe mô tô trên
đường.
VD3: Người tham gia kinh doanh nộp thuế đúng kỳ hạn theo quy định của pháp luật.

- Trong các trường hợp trên chủ thể đã thực hiện hình thức thi hành pháp luật . Ngược lại chủ thể
không thực hiện nghĩa vụ pháp luật phải làm theo quy định là không thi hành pháp luật.
*. Tuân thủ pháp luật
- KN: Các cá nhân, tổ chức không làm những điều pháp luật cấm.
+ Thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động, được thể hiện dưới dạng “hành vi không hành động”
dưới dạng các quy phạm cấm đoán. Tức là những quy định buộc chủ thể không được thực hiện
những hành vi, việc làm nhất định.
Các ví dụ
VD1: Những người sản xuất, kinh doanh không sản xuất, kinh doanh hàng giả.
VD2: Người tham gia giao thông không lái xe đi ngược đường một chiều, không lái xe khi đã
uống rượu bia. Gọi là tuân thủ pháp luật.
+ Các chủ thể làm những điều mà pháp luật cấm là không tuân thủ pháp luật.
*. Áp dụng pháp luật
- KN: Các cơ quan, công chức nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào pháp luật để ra các quyết
định làm phát sinh, chấm dứt hoặc thay đổi việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ cụ thể của cá
nhân, tổ chức.
+ Là một hình thức vừa là thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước vừa là một hình thức thực
hiện pháp luật và cũng là một giai đoạn mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tổ
chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện các quy định của pháp luật.
+ Là một hình thức mà chỉ các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật mới
thực hiện.
Các ví dụ
VD1: Cán bộ tư pháp xã tiến hành làm thủ tục đăng kí kết hôn cho các cặp đôi nam, nữ đủ điều
kiện kết hôn. Khi thủ tục kết hôn có hiệu lực thì khi đó quyền và nghĩa vụ pháp lí giữa vợ và
chồng chính thức được bắt đầu (làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng). Khi vợ
chồng không còn khả năng chung sống với nhau tòa án tiến hành thủ tục li hôn cho hai vợ
chồng, khi đó quyền và nghĩa vụ vợ, chồng giữa hai người sẽ chấm dứt.
+ Trong trường hợp đó cá nhân, tổ chức chỉ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình thông qua
hình thức áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước.
VD2: Cảnh sát giao thông lập biên bản xử phạt người vi phạm luật giao thông

VD3: Công an tỉnh ký quyết định cấp giấy phép lái xe cho công dân.
+ Các quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức không tự phát sinh, chấm dứt hoặc thay đổi nếu
không có các văn bản, quyết định áp dụng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
7


Tình huống 1: Ngày 21 / 2 / 2019, phát hiện nhóm thanh niên nam, nữ điều khiển xe mô tô trên
đường phố, không đội mũ bảo hiểm, dàn hàng ngang, lạng lách, đánh võng. Hai đồng chí cảnh
sát Nguyễn Quốc Đạt và Thiếu úy Lê Ngọc Tiến, thuộc Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện
Hoa Lư, yêu cầu dừng phương tiện, nhưng nhóm thanh niên không chấp hành và có hành động
bấm còi inh ỏi, rú ga thách thức lực lượng làm nhiệm vụ. Nhóm thanh niên này sau đó kéo ga
phóng vù vù trên đường. Trung úy Đạt và Thiếu úy Tiến xác định, nếu không ngăn chặn kịp thời
hành vi của các đối thượng sẽ gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông nên
đã quyết định truy bắt bằng được các đối tượng. Truy đuổi khoảng 2km, xe của hai chiến sĩ
CSGT đã đuổi kịp và dừng 1 mô tô vi phạm, trên xe có 2 thanh niên. Lúc này, hai thanh niên
trên xe xuống chống đối người làm nhiệm vụ, đồng thời hô hoán, vu vạ “công an đánh người”.
Chiến sĩ Đạt và Tiến đã giữ bình tĩnh, đúng tư thế, lễ tiết, tác phong người Công an nhân dân
trong khi thi hành nhiệm vụ. Hai thanh niên này sau đó đã kêu nhóm bạn đến, có hành vi chống
đối, thách thức các chiến sĩ CSGT để giải cứu bạn. Trước thái độ thách thức chửi bới, vu khống
của 2 đối tượng vi phạm cùng nhóm bạn đi cùng, hai chiến sĩ CSGT vẫn cương quyết lập biên
bản, tạm giữ phương tiện để xử lý theo quy định của pháp luật.
Ngày 24 /2/ 2019, Đại tá Đinh Ngọc Khoa, Phó Giám đốc Công an tỉnh Ninh Bình biểu
dương, đánh giá cao tinh thần, thái độ ý thức, kiên quyết đấu tranh với hành vi vi phạm pháp
luật vì sự bình yên, an toàn của người dân của cán bộ chiến sỹ lực lượng CSGT Hoa Lư. Thay
mặt Giám đốc Công an tỉnh, Đại tá Khoa đã trao giấy khen cho Trung úy Đạt và Thiếu úy Tiến
Câu hỏi:
1. Hành vi vi phạm của nhóm thanh niên đã vi phạm các hình thức pháp luật nào?
2. Việc Cảnh sát giao thông lập biên bản, thu giữ phương tiện đã thực hiện hình thức pháp luật
nào?
3. Với mỗi hành vi vi phạm nhóm thanh niên sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lí như thế nào?

Trả lời
1. Trước hết hành vi vi phạm của nhóm đối tượng được xét ở các lỗi vi phạm như sau:
- Hành vi không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển mô tô và khi cảnh sát giao thông yêu cầu dừng
xe còn phóng vù ga bỏ chạy là không thi hành pháp luật ( không thực hiện nghĩa vụ mà công
dân phải làm).
- Các hành vi lạng lách, đánh võng, rú ga thách thức, chửu bới, vu khống lực lượng chức năng là
không tuân thủ pháp luật (làm những điều pháp luật cấm).
2. Phía cảnh sát giao thông:
- Sau khi nhóm thanh niên rú ga bỏ chạy, hai đồng chí đã đuổi theo và kịp thời ngăn chặn. Về
góc độ cá nhân hai đồng chí đã thực hiện nghĩa vụ chủ động làm những gì mà pháp luật quy
định phải làm (Thi hành pháp luật).
- Trước thái độ thách thức chửi bới, vu khống của 2 đối tượng vi phạm cùng nhóm bạn đi cùng,
hai chiến sĩ CSGT vẫn cương quyết lập biên bản, tạm giữ phương tiện để xử lý theo quy định
của pháp luật. Việc cảnh sát giao thông căn cứ quy định của pháp luật tiến hành lập biên bản
người vi phạm phạm là thực hiện hình thức áp dụng pháp luật.

8


3. Căn cứ theo Nghị định 46/2016/NĐ-CP về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ, đường sắt với hành vi điều khiển xe lạng lách, đánh võng.
Theo quy định tại Khoản 10 của Điều 6 của Nghị định 46, người điều khiển xe mô tô, xe gắn
máy nếu gây tai nạn giao thông hoặc không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của người thi hành
công vụ khi lạng lách, đánh võng thì có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 14 triệu đồng.
Ngoài việc xử phạt tiền, lái xe còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là bị tước quyền
sử dụng Giấy phép lái xe từ 3 tháng đến 5 tháng nếu tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần (Theo
Điểm c, Khoản 12, Điều 6)
- Đối với hành vi chửu bới, chống đối, hô hoán vu khống cảnh sát đánh người. Căn cứ theo Điều
20, Nghị định 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/1/2013 của Chính phủ. Điều luật này xác định: “Hành
vi cản trở hoặc không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công

vụ; có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công
vụ; xúi giục, lôi kéo hoặc kích động người khác không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra,
kiểm soát của người thi hành công vụ bị phạt tiền từ 2-3 triệu đồng”.
*. So sánh 4 hình thức thực hiện pháp luật
- Giống nhau:
Đều là những hoạt động có mục đích nhằm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi
hợp pháp của người thực hiện.
- Khác nhau:
Các hình
Tuân thủ pháp
thức
luật
Nội dung

Thi hành pháp
luật

Áp dụng pháp
luật

Sử dụng pháp
luật

Các cá nhân, tổ
chức không làm
những điều pháp
luật cấm

Cá nhân, tổ chức
thực hiện đầy đủ

nghĩa vụ, chủ
động làm những
gì mà pháp luật
quy định phải làm

Các cơ quan,
công chức nhà
nước có thẩm
quyền căn cứ vào
pháp luật để ra
các quyết định
làm phát sinh,
chấm dứt hoặc
thay đổi việc thực
hiện các quyền,
nghĩa vụ cụ thể
của cá nhân, tổ
chức.

là các cá nhân, tổ
chức sử dụng
đúng đắn các
quyền của mình
làm những gì mà
pháp luật cho
phép làm

Thực hiện pháp
luật có tính
chất thụ động và

thể hiện dưới
dạng “hành vi
không hành
động”.

Chủ động, tích
cực thực hiện
pháp luật dưới
hình thức “hành
vi hành động”.

Là hoạt động thực
hiện pháp luật
của các cơ quan
nhà nước, là
nghĩa vụ mà các
cơ quan, tổ chức
nhà nước có thẩm
quyền tiến hành

Các chủ thể lựa
chọn xử sự
những điều pháp
luật cho phép.
Đó có thể là
“hành vi hành
động” hoặc
“hành vi không

Khái niệm


Bản chất

9


tổ chức cho các
chủ thể pháp luật
khác thực hiện
các quy định
pháp luật.
Mang tính quyền
lực nhà nước.

Ví dụ

Pháp luật quy
định về nghĩa vụ
Pháp luật cấm lái đóng thuế thu
nhập cá nhân/
xe sau khi uống
thuế thu nhập
rượu, bia. Cấm
sản xuất, tàng trữ doanh nghiệp.
pháo nổ trái phép. Do đó, nếu không
Do đó không làm thuộc trường hợp
những điều cấm
miễn thuế thì chủ
nói trên là tuân
thể đóng thuế

thủ pháp luật.
được xem là “thi
hành pháp luật”.

Bắt buộc
thực hiện

Ông Y viết bài
tuyên truyền
kinh nghiệm
Khi A khởi kiện
phòng chống
B ra tòa, tòa án
đó có trách nhiệm cháy nổ cho bà
xem xét và thụ lý con. Anh T đủ 18
đơn khởi kiện của tuổi được điều
khiển phương
A.
tiện xe máy, xe
Theo đó, tòa án
mô tô có dung
được xem là cơ
tích 50cm3 trở
quan “áp dụng
lên. Trong những
pháp luật”
trường hợp trên
công dân sử
dụng pháp luật.
Chỉ cá nhân, cán

bộ, cơ quan nhà
nước có thẩm
quyền

Mọi chủ thể

Tất cả các loại
quy phạm vì nhà
nước có nghĩa vụ
cũng như quyền
hạn tổ chức cho
các chủ thể khác
thực hiện pháp
luật.

Thường được thể
hiện dưới
những quy phạm
trao quyền.
các quyền của
công dân.

Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và áp dụng pháp
luật là những hình thức mà mọi chủ thể đều bắt buộc phải
thực hiện theo quy định pháp luật mà không có sự lựa
chọn.

Các chủ thể có
thể thực hiện
hoặc không thực

hiện quyền được
pháp luật cho
phép tùy theo ý
chí của mình,
phụ thuộc vào sự
lựa chọn của
mình.

Chủ thể thực
Mọi chủ thể
hiện

Hình thức
thể hiện

hành động” tùy
quy định pháp
luật cho phép.

Thường được thể
hiện dưới dạng
những quy phạm
cấm đoán.

Thường được thể
hiện dưới dạng
những quy phạm
bắt buộc.

10



- Sơ đồ tư duy các hình thức thực hiện pháp luật:

c. Vi phạm pháp luật
*. Kiến thức cơ bản
- Vi phạm pháp luật có 3 dấu hiệu cơ bản
Thứ nhất: là hành vi trái pháp luật.
- Hành vi trái pháp luật tức là cá nhân, tổ chức xử sự trái với quy định của pháp luật. Hành vi
trái pháp luật đó được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động
- Ví dụ về hành vi vi phạm thể hiện bằng hành động là “Lái xe đi ngược đường một chiều”.
- Ví dụ về hành vi vi phạm thể hiện bằng không hành động là “Tội không tố giác tội phạm”.
Thứ hai: Do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện

Người có năng lực pháp lý

��

t�
��
�tu�
i nh�
t�
inh


�c�th�nh�
n th�
c, �
i�

u ch�
nh h�
nh vi c�
a m�
nh


�t�quy�
t�

nh h�
nh vi c�
a m�
nh


��

c l�
p ch�
u tr�
ch nhi�
m v�h�
nh vi �
�l�
m


Thứ ba: Người vi phạm pháp luật phải có lỗi.
Lỗi thể hiện thái độ của người biết hành vi của mình là sai, trái pháp luật có thể gây hậu quả không tốt

nhưng vẫn cố ý làm hoặc vô tình để mặc cho nó xảy ra.
- Ví dụ về lỗi cố ý: cố ý vượt đèn đỏ.
- Ví dụ về lỗi vô ý: y tá tiêm nhầm thuốc cho bệnh nhân.
*. Kiến thức mở rộng
- Hành vi vi phạm pháp luật thể hiện bằng không hành động
Điều 390 - Bộ luật hình sự 2015 quy đinh về hành vi không tố giác tội phạm như sau:
“1. Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được
chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại
11


khoản 2 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội
phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.”
Như vậy một hành vi phạm pháp luật phải được thể hiện ra bằng hành động cụ thể hoặc không hành
động - không làm điều pháp luật quy định phải làm. Trong trường hợp chủ thể mới có ý định nhưng chưa
thực hiện ra bằng hành động thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
- Do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện
+ Đối với cá nhân năng lực trách nhiệm pháp lý được hiểu là khả năng của người đạt một độ tuổi nhất
định theo quy định của pháp luật, có thể nhận thức và điều chỉnh được hành vi của mình, tự quyết định
cách cư xử của mình, do đó phải độc lập chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện.
+ Năng lực trách nhiệm hình sự của cá nhân bao gồm năng lực nhận thức hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình, khả năng điều khiển hành vi đó và khả năng gánh lấy hậu quả pháp lý là trách nhiệm hình sự
từ hành vi nguy hiểm gây ra. Như vậy, năng lực trách nhiệm hình sự được hợp thành từ hai yếu tố: Khả
năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
+ Năng lực trách nhiệm hình sự được hình thành trên hai cơ sở: sự phát triển sinh học của cơ thể và đời
sống xã hội. Bộ luật Hình sự không quy định một người như thế nào là thoả mãn điều kiện về khả năng
nhận thức và khả năng điều khiển hành vi mà chỉ đề cập đến trường hợp người mất khả năng nhận thức
và mất khả năng điều khiển hành vi. Dấu hiệu để nhận biết một người không có năng lực trách nhiệm

hình sự ở góc độ này là: dấu hiệu y học (bệnh lý) và dấu hiệu tâm lý.
Điều 13 Bộ luật Hình sự quy định:
“Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại
khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi
khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.”
+ Độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí nhà nước ta quy định như sau:
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, chịu trách nhiệm hành
chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra.
+ Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý,
phải chịu trách nhiệm hành chính do cố ý thực hiện vi phạm hành chính.
Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình
sự:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà
Bộ luật này có quy định khác.2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134,
141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287,
289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.
- Người vi phạm có lỗi - Lỗi thể hiện dưới các hình thức sau:
+ Thứ nhất: Lỗi cố ý trực tiếp; lỗi cố ý trực tiếp được quy định tại Khoản 1 Điều 10 Bộ luật Hình sự năm
2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. “Theo đó người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực
tiếp nếu người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.”
12


Ví dụ:

Ngày 15/10, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hà Nội đã hoàn tất kết luận điều
tra vụ anh trai thảm sát gia đình em trai khiến 4 người chết, 1 người bị thương tại huyện Đan Phượng,
đồng thời đề nghị truy tố bị can Nguyễn Văn Đông (Sinh năm 1966, trú tại xã Hồng Hà, huyện Đan
Phượng, Hà Nội) tội danh giết người. Bị can Đông đã trực tiếp cầm dao chém vào những người nhà ông
Hải (em trai ông Đông) làm hai vợ chồng ông Hải, con gái và cháu nội ông Hải chết. Con dâu ông Hải bị
thương nặng cấp cứu kịp thời nên qua khỏi.
Trong tình huống, hành vi vi phạm pháp luật của ông Đông thể hiện động cơ giết người rất rõ
ràng. Hành vi vi phạm pháp luật của ông Đông thể hiện lỗi cố ý trực tiếp gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng.
+ Thứ hai: Lỗi cố ý gián tiếp
Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra tuy không mong
muốn nhưng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra.
Khoản 2 Điều 10 Bộ luật Hình sự: “2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để
mặc cho hậu quả xảy ra.”
VD: Trong vụ án nữ sinh đi giao gà bị sát hại. Đối tượng Nguyễn Thị Thu biết rõ các đối tượng Bùi
Văn Công, Vì Văn Toán, Vương Văn Hùng,… bắt, giam giữ và hãm hiếp nữ sinh Cao Mỹ D. Nhưng Thu
đã không ngăn cản hay làm gì đó cứu giúp Cao Mỹ D và hậu quả là D bị chết. Việc làm của Thu không
trực tiếp gây hậu quả, không mong muốn hậu quả xấu sảy ra nhưng đã để mặc cho nó xảy ra. Trong tình
huống này Thu có lỗi và là lỗi cố ý gián tiếp.
+ Thứ ba: Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể
gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Khoản 2 Điều 11 Bộ luật Hình sự:
“2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc
dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.”
Về mặt lý chí: người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm
cho xã hội.
Về ý chí chủ quan: người phạm tội khi thực hiện hành vi đáng ra “phải thấy trước và có thể thấy
trước” hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra.

Ở hình thức lỗi vô ý do cẩu thả, người phạm tội không nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội
do hành vi của mình gây ra. Người phạm tội không nhận thức được khả năng gây ra hậu quả từ hành vi
của mình và cũng không nhận thức được hậu quả xảy ra.
VD1: Bảo vệ ngủ quên dẫn đến tài sản của công ty bị mất trộm. Người đi ngang qua rừng vứt tàn thuốc
lá làm cháy rừng. Người phạm tội có thể nhận thức khả năng gây ra hậu quả từ hành vi của mình nhưng
không nhận thức được hậu quả xảy ra.
VD2: Một người băng ngang đường một cách vô thức (không nhìn trước nhìn sau) làm cho hai xe chạy
ngược chiều nhau vì tránh người này mà xảy ra tai nạn làm hai người lái xe tử vong.
Lỗi vô ý do cẩu thả còn được xác định với điều kiện là người phạm tội “phải thấy trước” và “có thể thấy
trước” hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra. “Phải thấy trước” ở đây là quy định của pháp luật buộc
họ khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện đó bắt buộc phải thấy hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội. “Có
thể thấy trước” có thể hiều là với độ tuổi, năng lực trách nhiệm pháp lý, trình độ văn hoá, khả năng
chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, kiến thức xã hội,…của một người bình thường, thì người thực
hiện hành vi có thể thấy trước hậu quả của hành vi đó.
13


+ Thứ tư: Lỗi vô ý do quá tự tin.
Khoản 1 Điều 11 Bộ luật Hình sự. Lỗi vô ý do quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra
hoặc có thể ngăn ngừa được.
Dấu hiệu của lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin
Về lí trí: Người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình,
thể hiện ở chỗ thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra.
Tuy nhiên, lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin và lỗi cố ý có sự giống nhau một cách tương đối bởi người
phạm tội ở trường hợp vô ý vì quá tự tin thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra nhưng
đồng thời lại cho rằng hậu quả đó không xảy ra. Như vậy, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội ở
đây thực chất chỉ là sự cân nhắc đến khả năng hậu quả đó xảy ra hay không và kết quả người phạm tội
đã loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. Đối với người phạm tội ở trường hợp vô ý vì quá tự tin khả năng
hậu quả xảy ra và khả năng hậu quả không xảy ra đều là khả năng thực tế nhưng người phạm tội tin vào

khả năng hậu quả không xảy ra khi quyết định xử sự.
Chính sự tin tưởng này thể hiện người phạm tội đã không nhận thức được một cách đầy đủ tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã
hội. Sự không mong muốn này có điểm khác so với sự không mong muốn ở trường hợp cố ý gián tiếp.
Nếu trường hợp cố ý gián tiếp người phạm tội không mong muốn nhưng đã chấp nhận khả năng hậu quả
xảy ra khi lựa chọn và thực hiện hành vi thì ở trường hợp lỗi vô ý vì quá tự tin, sự không mong muốn
hậu quả của người phạm tội gắn liền với việc người đó đã loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. Người phạm
tội với lỗi vô ý vì quá tự tin đã cân nhắc, tính toán và đã cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra hoặc có thể
ngăn ngừa được. Sự cân nhắc, tính toán này có thể dựa vào những căn cứ như tin tưởng vào sự khéo léo,
sự hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ kĩ thuật của mình hoặc tin vào những tình tiết khách
quan bên ngoài khác.
VD1: Người lái xe tin rằng mình sẽ vượt qua được đường sắt trước khi tàu đến, và vội vàng cố gắng
vượt nên bị mắc bánh xe vào đường ray.
VD2: Người thợ săn tin rằng mình sẽ bắn trúng con thú, không để mũi tên lạc vào người nhưng cuối
cùng mũi tên không trúng vào đích mà lại trúng vào người và gây thương tích… Sự tin tưởng này của
người phạm tội tuy có căn cứ nhưng những căn cứ đó đều không vững chắc. Người phạm tội đã đánh giá
không đúng tình hình thực tế. Sự tin tưởng của họ là sự tin tưởng quá mức so với thực tế.
Từ những dấu hiệu được phân tích trên đây, có thể rút ra kết luận: Vi phạm pháp luật là hành vi
trái pháp luật, có lỗi, do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm phạm các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ.
d. Trách nhiệm pháp lý
- Trách nhiệm pháp lý được hiểu là những nghĩa vụ pháp lý được đề cập đến trong một quan hệ pháp
luật được phát sinh.
VD1: Anh A vay tiền của bà B số tiền là 200.000.000 đồng, như vậy khi xác lập giao dịch vay tiền anh
A đã có trách nhiệm dân sự là phải trả tiền cho bà B với thời hạn do hai bên thoả thuận.
- KN: Trách nhiệm pháp lí là việc chủ thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi được quy định
trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Chủ thể phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý theo nghĩa
này khi họ vi phạm pháp luật hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật
quy định.

- Trách nhiệm pháp lý được thể hiện trong sơ đồ tư duy sau:

14


- Từ đó giáo dục ở họ ý thức tôn trọng pháp luật, củng cố niềm tin tính nghiêm minh của pháp
luật, khuyến khích mọi người tích cực đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật.
- Mỗi hành vi vi phạm pháp luật thì bị xử phạt một lần ở tại thời điểm vi phạm (vi phạm nhiều
lần thì bị phạt nhiều lần) và có thể phải chịu nhiều trách nhiệm pháp lí về một hành vi vi phạm.
VD2: Hành vi vượt đèn đỏ sẽ bị xử phạt hành chính, nếu đâm vào người khác làm họ bị
thương thì phạt thêm hình phạt dân sự đó là bồi thường.
- Ngay sau khi vi phạm đã bị lập biên bản xử phạt mà tiếp tục vi phạm mới thì sẽ áp dụng hình
thức xử phạt mới cộng lại.

Tình huống 2: Cảnh sát giao thông phạt hai bố con bạn A vì cả hai đều lái xe máy đi ngược
đường một chiều. Bố bạn A không chịu nộp phạt vì lí do ông không nhận ra biển báo đường một
chiều, bạn A mới 16 tuổi, còn nhỏ, chỉ biết đi theo ông nên không đáng bị phạt.
Câu hỏi:
1. Lí do mà bố bạn A đưa ra có xác đáng không?
2. Cảnh sát giao thông phạt cả hai bố con bạn A có đúng không?
3. Bạn A có phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình không?
4. Họ chưa gây ra tai nạn gì, vậy cảnh sát căn cứ vào đâu để phạt tiền họ?

Trả lời
1. Bạn A mới 16 tuổi chưa đủ tuổi được điều khiển xe máy.
Hành vi lái xe máy đi ngược đường một chiều được quy định tại Điểm i khoản 4 Điều 6 Nghị
định 46/2016/NĐ – CP.
“Phạt tiền từ 300 - 400 nghìn đồng với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy
điện), các loại xe tương tự xe mô tô và xe gắn máy: Nếu đi ngược chiều trên đường một chiều và
đi ngược chiều trên đường có biển “Cấm đi ngược chiều".

15


- Như vậy căn cứ quy định của Nghị định 46 của Chính phủ thì hành vi lái xe máy đi ngược
đường một chiều của hai bố con bạn A là hành vi vi phạm pháp luật và được thể hiện bằng hành
động cụ thể.
- Lỗi vi phạm của hai bố con bạn A là lỗi vi phạm do cố ý. Do vậy lí do mà bố bạn A đưa ra là
không xác đáng  Cảnh sát giao thông phạt hai bố con bạn A là đúng theo quy định của pháp
luật.
2. Người đủ từ 14 đến 16 tuổi bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm hành chính do cố ý.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra.
Do đó bạn A đủ 16 tuổi và phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi vi phạm hành chính do mình
gây ra.
3. Hành vi đi ngược đường một chiều của hai bố con chưa gây ra tai nạn nhưng đó là hành vi vi
phạm pháp luật và phải chịu trách nhiệm pháp lí trước Nhà nước, phải chấp hành nghiêm chỉnh
quyết định xử phạt hành chính của cảnh sát giao thông.
Cụ thể là họ phải gánh chịu thiệt hại về vật chất, nộp tiền phạt.
Việc cảnh sát lập biên bản xử phạt kịp thời, đã chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật ngăn chặn
không để họ tiếp tục vi phạm hoặc gây tai nạn.
Cảnh sát căn cứ vào quy định của pháp luật để ra quyết định xử phạt đối người có hành vi vi
phạm.

Tình huống 3: Ngày 20/ 5 2018, chị Th trên đường đón con đi học về, chị nhìn gương hậu thấy
cảnh sát giao thông phía sau. Lúc ấy chị Th không đội mũ bảo hiểm. Do đường đông và tắc nên
khi chị Th chạy xe được 1 km và đến điểm dừng chị Th xuống xe (trong thời gian trước khi
xuống xe, chị Th vừa đi vừa với mũ bảo hiểm và đội lên đầu). Khi xuống xe có nhiều người dân
nhìn thấy chị Th có đội mũ bình thường. Khoảng 3 phút sau, cảnh sát giao thông đuổi theo mới
đến được chỗ chị Th. Khi ấy chị Th lại cởi mũ, tháo quai bỏ xuống xe rồi.
Câu hỏi:
1. Trường hợp chị Th có bị coi là vi phạm pháp luật không?

2. Cảnh sát giao thông có được phép bắt và lập biên bản chị Th không?
3. Chị Th chưa gây ra tai nạn gì, cảnh sát giao thông nhân danh ai và căn cứ vào đâu để phạt tiền
chị?
Trả lời
1. Tại thời điểm chị Th điều khiển xe máy là không đội mũ bảo hiểm, đã bị công an giao thông
phát hiện. Do vậy, dù sau đó, tại thời điểm công an dừng xe để xử lý, chị đã đội mũ bảo hiểm thì
chị vẫn bị xử phạt về hành vi không đội mũ bảo hiểm trước đó. Pháp luật giao thông quy định
người tham giao thông khi đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm, đây là quy định bắt buộc cho tất cả
mọi người ai cũng phải thực hiện. Trong tình huống chị Th không đội mũ bảo hiểm ngay từ khi
bắt đầu điều khiển xe, mà chỉ khi gặp công an giao thông mới đội mũ bảo hiểm.
2. Vì vậy, trong trường hợp này, cảnh sát giao thông hoàn toàn có quyền bắt và lập biên bản xử
phạt vi phạm hành chính đối với chị Th.
16


3. Mặc dù chị Th chưa gây ra tai nạn gì nhưng cảnh sát giao thông nhân danh pháp luật, căn cứ
vào quy định của pháp luật để xử phạt hành chính đối với hành vi không đội mũ bảo hiểm khi
đi xe máy.
Tại khoản 3 Điều 6 Nghị định 46/2016/NĐ-CP như sau:
“Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với người điều khiển, người ngồi trên xe mô
tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn
máy không đội mũ bảo hiểm hoặc đội muc không cài quai, cài quai không đúng cách.”
*. Bảng tổng hợp các lỗi vi phạm
Các lỗi
Cố ý trực tiếp

Cố ý gián tiếp

Vô ý do cẩu thả


Vô ý do quá tự
tin

Khoản 1 Điều
10 Bộ luật Hình sự
2015

Khoản 2 Điều
10 Bộ luật Hình sự
2015

Khoản 2 Điều
11 Bộ luật Hình sự
2015

Khoản 1 Điều 11
Bộ luật Hình sự
2015

Người phạm tội
nhận thức rõ hành
vi của mình là
nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước hậu
quả của hành vi đó
và mong muốn hậu
quả xảy ra.

Người thực hiện
hành vi nguy hiểm

cho xã hội nhận
thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy
trước hậu quả của
hành vi đó có thể
xẩy ra, tuy không
mong muốn nhưng
vẫn có ý thức để
mặc cho hậu quả
xảy ra

Người phạm
tội không
thấy trước hành vi
của mình có thể
gây ra hậu quả
nguy hại cho xã
hội, mặc dù phải
thấy trước và có
thể thấy trước hậu
quả đó.

Lỗi vô ý do quá
tự tin là trường
hợp người phạm
tội tuy thấy
trước hành vi
của mình có thể
gây ra hậu quả

nguy hại cho xã
hội nhưng cho
rằng hậu quả đó
sẽ không xảy ra
hoặc có thể ngăn
ngừa được.

Về mặt lý Nhận thức rõ tính
trí
chất nguy hiểm
cho xã hội của
hành vi mà mình
thực hiện, thấy
trước hành vi đó có
thể gây hậu quả
nghiêm trọng cho
xã hội

Nhận thức rõ tính
chất nguy hiểm
cho xã hội của
hành vi mà mình
thực hiện, thấy
trước hành vi đó có
thể gây hậu quả
nghiêm trọng cho
xã hội

Phải thấy trước
hậu quả nhưng

lại không
thấy trước được
hậu quả đó

Người phạm tội
nhận thức được
tính chất nguy
hiểm cho xã hội
của hành vi của
mình, thể hiện ở
chỗ thấy trước
hậu quả nguy hại
cho xã hội mà
hành vi của
mình có thể gây
ra. Nhưng đồng
thời lại cho rằng
hậu quả đó

Tiêu
chí
Căn cứ
pháp lý

Khái
niệm

17



không xảy ra
Sự lựa chọn hành
vi phạm tội là
sự lựa chọn duy
nhất, chủ thể lựa
chọn hành vi phạm
tội vì chủ thể mong
muốn hành vi đó

Người phạm
tội không mong
muốn hậu quả xảy
ra, tuy nhiên để
thực hiện mục đích
này, người phạm
tội để mặc hậu
quả nguy hiểm cho
xã hội mà hành vi
của mình có thể
gây ra

Người phạm tội
khi thực hiện hành
vi đáng ra phải
thấy trước và có
thể thấy trước hậu
quả nguy hiểm cho
xã hội sẽ xảy ra

Người phạm tội

với lỗi vô ý vì
quá tự tin đã cân
nhắc, tính toán
và đã cho rằng
hậu quả sẽ
không xảy ra
hoặc có thể ngăn
ngừa được.

Nguyên
nhân

Do cố ý

Do cố ý

Do cẩu thả

Do quá tự tin

Trách
nhiệm
hình sự

Cao nhất

Cao hơn

Thấp hơn


Thấp hơn

Nguyễn Viết
Quyết, sinh năm
1994, tại thành phố
Vinh , tỉnh Nghệ
An đã bóp cổ
người vợ sắp cưới
của mình là chị
Ng. T. Ph. T. cho
đến chết. Lý do,
Quyết xem được
tin nhắn với lời lẽ
ngọt ngào từ một
thanh niên tên D
nhắn đến điện
thoại của vợ mình.

Anh B thợ trở tôn
lợp nhà, do vô tình
đã để tấm tôn
quyệt vào cháu bé
T đang đi xe đạp.
Hậu quả là cháu T
bị tôn cứa vào cổ
đứt mạnh máu dẫn
đến tử vong. Trong
trường hợp trên lỗi
cố ý gián tiếp


Anh A là kế toán
doanh nghiệp, khi
nhập dữ liệu, anh
A đã sơ ý bỏ sót
một số 0 trong số
tiền cần chuyển
cho đối tác, hành
vi của anh A đã
khiến công ty thiệt
hại về tài sản.

Chị H bán sữa
đã hết hạn sử
dụng cho người
dùng, chị nghĩ
rằng sữa mới hết
hạn một vài
ngày uống sẽ
không ảnh
hưởng gì. Nhưng
sự tự tin, sự tính
toán của chị H
vượt quá thực tế
đã dẫn đến
người sử dụng
sữa bị ngộ độc,
ảnh hưởng sức
khỏe.

Về mặt ý

chí

Ví dụ

e. Các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí
Trên thực tế, các loại vi phạm pháp luật xảy ra khá đa dạng. Căn cứ vào đối tượng bị xâm phạm,
mức độ và tính chất nguy hiểm do hành vi gây ra cho xã hội, vi phạm pháp luật được chia thành
bốn loại vi phạm pháp luật và tương ứng với mỗi loại vi phạm là loại trách nhiệm pháp lí.
*. Vi phạm hình sự
Kiến thức cơ bản
- KN: Vi phạm hình sự là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm được quy định tại bộ
luật hình sự.
- Tính chất: Là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm
18


- Hành vi phạm tội được coi là tội phạm khi có đủ các dấu hiệu vi phạm và bị truy tố trách
nhiệm hình sự.
Kiến thức mở rộng
+ Tội phạm: Là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong bộ luật hình sự
+ Phạm tội: Là một người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng có phải là tội phạm hay
không thì cần phải căn cứ vào độ tuổi và năng lực trách nhiệm pháp lí. Giả sử cháu B phạm tội
giết người khi mới 13 tuổi, không thể trở thành tội phạm mặc dù đó là hành vi phạm tội (tội giết
người)
- Tội phạm chia làm 4 loại:
 Tội phạm ít nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội.
VD1: Tội giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng, … trái pháp luật. “Quy định
tại Điểm a, khoản 1 Điều 176 – Bộ luật Hình sự”.
VD2: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp “Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 171
Bộ luật Hình sự”. Mức cao nhất của khung hình phạt đối với loại tội này là đến ba năm tù.

 Tội phạm nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội.
VD1: Tội mua bán phụ nữ “Quy định tại khoản 1 Điều 119 Bộ luật Hình sự”
VD2: Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản “ Quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự”.
VD3: Tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em. “Quy định tại khoản 2 Điều 228 Bộ
luật Hình sự”… Mức cao nhất của khung hình phạt đối với loại tội này là đến bảy năm tù.
 Tội phạm rất nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội.
VD1: Tội vô ý làm chết người. “Quy định tại khoản 2 Điều 98 Bộ luật Hình sự”
VD2: Tội hiếp dâm. “Quy định tại khoản 2 Điều 111 Bộ luật Hình sự”,
VD3: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
“Quy định tại khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự”… Mức cao nhất của khung hình phạt đối với
loại tội này là đến mười lăm năm tù.
 Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội.
VD1: Tội giết người “Theo quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự”.
VD2: Tội cướp tài sản “Theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Hình sự”.
VD3: Tội cố ý lây truyền HIV cho người khác “Theo quy định tại khoản 2 Điều 118 Bộluật
Hình sự”… Mức cao nhất của khung hình phạt đối với loại tội này là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình.
- Trách nhiệm hình sự: Người vi phạm hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự như: Tử hình, tù
trung thân, tù không giam giữ, phạt tiền, ... Ngoài ra các chủ thể vi phạm còn phải chịu những
hình phạt bổ sung nếu có.
- Việc áp dụng trách nhiệm hình sự dựa trên một số nguyên tắc cơ bản sau:
+ Nguyên tắc pháp chế: Chỉ có Bộ luật Hình sự mới có thể quy định hành vi nào là tội
phạm và hình phạt tương ứng. “ chỉ người nào phạm tội được quy định trong bộ luật Hình sự
mới phải chịu trách nhiệm hình sự”
+ Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật thể hiện ở việc xử lý không
trừ ai, không phân biệt địa vị xã hội .... hễ phạm tội thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
+ Nguyên tắc trách nhiệm cá nhân: chỉ truy cứu trách nhiệm cá nhân chứ không truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với một tập thể hay pháp nhân.
19



Thể hiện rất rõ trong chế định “đồng phạm” với việc xem xét vai trò, trách nhiệm của những
người đồng phạm.
+ Nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự trên cơ sở lỗi: hiểu là lỗi cố ý sẽ nặng hơn lỗi
vô ý. Và hành vi không có lỗi thì không phải là tội phạm. Ví dụ làm chết người trong trường hợp
phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ.
+ Nguyên tắc nhân đạo: Áp dụng hình phạt với trẻ vị thành niên, phụ nữ mang thai, nuôi
con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, người thành khẩn.

Tình huống 4: Sáng 9-10 - 2028, Công an quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng đã bắt nhóm
thanh thiếu niên gồm 8 đối tượng là hung thủ gây án, chém người trọng thương gồm: Nguyễn
Ngọc Hoàng, sinh năm 2001; Phạm Quốc Huy, sinh năm 2001; Bùi Quang Trực, sinh năm 2004;
Nguyễn Huỳnh Đức Việt, sinh năm 2001; Nguyễn Thanh Hoài Minh; Nguyễn Văn Quân, sinh
năm 2003; Tôn Thất Hưng sinh năm 2003; Hồ Quang Minh, sinh năm 2003
Nạn nhân được xác định là Nguyễn Minh Trí sinh năm 2003, trú đường Lê Độ, thành phố Đà
Nẵng bị chém nhập viện, đa chấn thương.
Cả nhóm khi đang ngồi chơi trước cổng công an Phường Hải Châu II thì bị nhóm Dương Tiến
Tài đuổi đánh nhưng bỏ chạy được.
Sau đó Thất Hưng và Quang Minh gọi điện thoại cho Phạm Quốc Huy để kể về sự việc trên và
nhờ Huy cùng bạn bè đến đánh trả thù. Lúc này, Huy đang ngồi chơi với Ngọc Hoàng, Văn
Quân, Quang Trực, Đức Việt. Cả nhóm nhất trí rồi đến khu vực đường 60 phường Hòa Minh,
quận Liên Chiểu để lấy kiếm Nhật, mác, mã tấu,… được cất giấu sẵn. Khoảng 23 giờ 30 cùng
ngày, nhóm của Huy và Hoàng điều khiển xe máy mang theo hung khí, gặp nhóm của Tài tại
đường Ích Khiêm gồm 6 người, trong đó có Nguyễn Minh Trí.
Cả hai nhóm lập tức xuống xe chém nhau một lúc thì nhóm của Tài lên xe bỏ chạy, riêng Trí
chạy không kịp nên bị bỏ lại. Lúc này, Hoàng và Huy cầm theo kiếm, mã tấu đuổi theo, chém
trúng chân và lưng của Trí.
Khi thấy Trí đã nằm sấp trước cửa nhà số 248 Ích Khiêm, Hoàng tiếp tục dùng kiếm Nhật đứng
bên cạnh chém nhiều nhát và đâm 1 nhát vào bụng Trí. Huy cũng dùng mác chém thẳng vào đầu
làm vỡ mũ bảo hiểm Trí đang mang.

Thấy Trí nằm bất động và ra máu nhiều, Huy và Hoàng lên xe của đồng bọn đang đứng chờ sẵn
bỏ chạy. Xong việc Hoàng mang số hung khí đến vứt tại bãi đá dưới chân cầu Thuận Phước,
thành phố Đà Nẵng.
Đội Cảnh sát Hình sự Công an quận Thanh Khê cho biết nạn nhân bị chấn thương phức tạp, vỡ
xương sọ vùng đầu, đồng thời có nhiều vết đâm, chém tại khuỷu tay, bụng, đầu gối, cổ chân.
Câu hỏi:
1. Hành vi của hai nhóm trên vi phạm pháp luật nào?
2. Những ai phải chịu trách nhiệm pháp lí?

20


Trả lời
1. Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định như sau
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho
nhiều người;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm (Trích Điều 134 Bộ luật Hình sự).
Như vậy với hành vi sử dụng hung khí truy sát người gây thương tích nặng, tính chất có
tổ chức phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Thời điểm gây ra vụ việc các đối tượng:
Hoàng, Huy, Việt đều 17 tuổi.
Quân, Hưng, Quang Minh đều 15 tuổi
Hoài Minh, Trực đều 16 tuổi.
Theo quy định của bộ Luật hình sự về độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lí
Điều 12 Bộ luật Hình sự: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
“2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội

hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,
tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây (Trích điều 12 Bộ luật Hình sự)”.
Như vậy theo quy định của Bộ luật Hình sự, các đối tượng kể trên đều đủ tuổi phải chịu
trách nhiệm pháp lí hình sự.
Tuy nhiên tại thời điểm vi phạm các đối tượng đều chưa đủ tuổi 18 tuổi. Việc xử lí người
chưa thành niên phạm tội được áp dụng theo nguyên tắc lấy giáo dục là chính nhằm giúp họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
*. Tích hợp kiến thức phòng chống tham nhũng
- Tham nhũng là gì? Là hành vi trái đạo đức, trái pháp luật gây ra những hậu quả hết sức
nghiêm trọng. Để phòng chống tham nhũng, Nhà nước ta cần đưa ra những biện pháp mang
tính đồng bộ và những văn bản quy định rõ ràng hơn về vấn đề này. Những văn bản này cần chỉ
rõ những dấu hiệu đặc trưng của hành vi tham nhũng để từ đó có căn cứ xác định một cách cụ
thể, rõ ràng từ đó giải quyết các vụ án tham nhũng một cách tốt nhất.
- Nguyên nhân: Một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tham nhũng là nhu cầu về lợi
ích. Khi lợi ích kết hợp với sự lạm quyền của những người có chức có quyền thì khả năng phát
sinh hành vi tham nhũng là rất lớn.
- Ví dụ: Một trong những vụ án tham nhũng nghiêm trọng nhất trong thời gian gần đây là vụ án
của Trịnh Xuân Thanh và Đinh La Thăng. Theo kết quả điều tra, Trịnh Xuân Thanh cùng cấp
dưới đã thống nhất đề ra chủ trương và chỉ đạo Lương Văn Hòa (nguyên Trưởng ban điều hành
dự án Vũng Áng- Quảng Trạch) lập khống hồ sơ, chứng từ thi công 4 hạng mục phục vụ thi
công dự án để chiếm đoạt hơn 13 tỷ đồng do PVC có trách nhiệm quản lý. Hành vi này có dấu
hiệu tham nhũng hết sức rõ ràng, họ lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản và vụ
lợi cho bản thân.
21


Đây là một vụ án tham nhũng vô cùng nghiêm trọng và điển hình gây thiệt hại nặng nề
cho nền kinh tế của đất nước, làm mất lòng tin của dân chúng đối với cán bộ nhà nước.
- Biểu hiện của tham nhũng

Theo Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, hành vi tham nhũng có những
biểu hiện sau:
+ Tham ô tài sản
+ Nhận hối lộ
+ Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
+ Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi
+ Giả mạo trong công tác vì vụ lợi
+ Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết
công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi.
+ Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
+ Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi;
cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án vì vụ lợi.
- Trong những hành vi tham nhũng nêu trên, có rất nhiều hành vi đã được quy định trong Bộ luật
hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và có hiệu lực từ ngày 1-1-2010), bao gồm
như: Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ,
công vụ vì vụ lợi; Lạm quyền trong khi thi hành công vụ.
- Tác hại của tham nhũng
+ Về chính trị: Có thể khẳng định tham nhũng chính là trở lực vô cùng lớn đối với quá trình đổi
mới đất nước, làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước, ngăn cản đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Không có gì đáng sợ hơn sự mất lòng tin từ dân chúng, một đất nước
chỉ có thể phát triển, có thể trở nên giàu mạnh khi có sự chung tay góp sức của toàn thể dân tộc.
+ Về kinh tế: Trong những năm vừa qua, tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội và gây ra nhiều hậu quả không mong muốn. Đặc biệt, tác của tham nhũng trong vấn
đề kinh tế là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi này gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền
bạc, công sức và thời gian của nhân dân. Làm chậm nhịp độ phát triển kinh tế, phát vỡ những
chiến lược cũng như những kế hoạch phát triển, gây thiệt hại to lớn về vật chất cho cả nhà nước
và người dân.

Theo thống kê, giá trị tài sản bị thiệt hại liên quan đến hành vi tham nhũng của mỗi vụ lên đến
hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng tỷ đồng. Tác hại tham nhũng mang lại trong lĩnh vực kinh
tế không chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể và cá nhân bị biến thành tài sản
riêng của một người mà nguy hiểm hơn, hành vi này còn gây thiệt hại, thất thoát, lãng phí. Tác
hại của lãng phí mang lại là một lượng lớn tài sản của Nhà nước, của tập thể và của mỗi công
dân.

22


+ Hậu quả về văn hóa, xã hội: Tham nhũng là tác nhân làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội,
làm phá hoại những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Không những thế, tham nhũng gây ra
nghèo khổ cho một bộ phận không nhỏ những người lao động chân chính, làm tha hóa biến chất
bộ máy quan chức trong lĩnh vực công.

Tình huống 5: Vụ án Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm, phạm tội “Cố ý làm trái quy định
của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra
tại Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam – PVC và Công ty Cổ phần Bất động
sản Điện lực dầu khí Việt Nam – PVP Land.
Cùng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Đinh La Thăng, bị cáo Trịnh Xuân Thanh,
nguyên Chủ tịch HĐQT, nguyên Tổng Giám đốc Công ty cổ phần xây lắp dầu khí (PVC) và
đồng phạm đã có hành vi “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng” và “tham ô tài sản”, xảy ra tại PVC và Công ty cổ phần Bất động sản Điện lực
dầu khí Việt Nam (PVP land). Cụ thể, Trịnh Xuân Thanh đã chỉ đạo cấp dưới ký hợp đồng trái
phép, để nhận tạm ứng tiền từ PVN và sử dụng hơn 1.115 tỷ đồng trong số tiền tạm ứng này vào
mục đích khác, không đưa vào Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, gây thiệt hại cho Nhà
nước số tiền gần 120 tỷ đồng. Ngoài ra, Trịnh Xuân Thanh đã chỉ đạo lập khống hồ sơ, rút 13 tỷ
đồng từ Ban điều hành Dự án Vũng Áng – Quảng Trạch để chia nhau sử dụng cá nhân.
Tại Công ty cổ phần Xuyên Thái Bình Dương, nhưng Trịnh Xuân Thanh cùng đồng phạm đã
thông đồng với các đối tượng liên quan, ký và thanh toán hợp đồng chuyển nhượng cổ phần của

PVP land tại Công ty Xuyên Thái Bình Dương thấp hơn mức gía đã thỏa thuận đặt cọc, tạo
chênh lệch cổ phần trị giá 87 tỷ đồng (trong đó có tài sản Nhà nước). Giá trị tài sản các đối
tượng chiếm đoạt là 49 tỷ đồng, trong đó Trịnh Xuân Thanh đã chiếm đoạt 14 tỷ đồng.
Tháng 01/2018, TAND Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm đã tuyên phạt Trịnh Xuân Thanh 14
năm tù về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng”, tù chung thân về tội “Tham ô tài sản”, tổng hợp hình phạt cho cả hai tội, bị cáo Trịnh
Xuân Thanh phải chấp hành hình phạt là tù chung thân (Trách nhiệm hình sự).
Về trách nhiệm dân sự, HĐXX TAND Thành phố Hà Nội tuyên buộc các bị cáo phải liên dới bồi
thường số tiền thất thoát; riêng Trịnh Xuân Thanh phải bồi thường số tiền gần 35 tỷ đồng; kiến
nghị cơ quan chức năng tiếp tục duy trì lệnh kê biên tài sản, bao gồm: Biệt thự, căn hộ, và phong
tỏa tài khoản, sổ tiết kiệm của vợ chồng Trịnh Xuân Thanh để đảm bảo thi hành bản án (Trách
nhiệm dân sự).
*. Vi phạm hành chính
- Kiến thức cơ bản
+ KN: Là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng thấp hơn tội phạm, xâm phạm các quy tắc quản
lý nhà nước
+ Tính chất: Nguy hiểm cho xã hội nhưng thấp hơn tội phạm
VD1: Sản xuất hàng giả là vi phạm hành chính nhưng với số lượng lới có giá trị bằng 30 triệu
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã vi phạm nhiều lần thì truy cứu hình sự.
VD2: Người điều khiển phương tiện giao thông sau khi uống rượu bia vi phạm hành chính,
nhưng hành vi đó gây tai nạn chết người hoặc tổn hại sức khỏe của người đó là vi phạm hình sự
+ Người từ đủ 14 đến dưới 16 điều khiển xe có giới, xe máy điện, ... phạt cảnh cáo.
23


+ Người đủ 16 đến dưới 18 điều khiển xe trên 50cm 3 phạt 60 đến 80 nghìn (bằng ½ số tiền phạt
người vi phạm từ 18 tuổi trở lên)
+ Người vi pham hành chính phải chịu trách nhiệm hành chính:
+ Trách nhiệm pháp lí:
+ Người đủ 14 đến dưới 16 phải chịu trách nhiệm hành chính về hành vi vi phạm do cố ý

+ Người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra.
- Kiến thức mở rộng: Các hình thức xử phạt hành chính:
+ Cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc
đình chỉ hoạt động có thời hạn
+ Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính
+ Nguyên tắc áp dụng các hình thức xử phạt hành chính như sau:
+ Cảnh cáo và phạt tiền chỉ được quy định và áp dụng là hình thức xử phạt chính.
+ Tước giấy phép, tịch thu tang vật và trục xuất có thể là hình thức xử phạt chính hoặc hình thức
xử phạt bổ sung
+ Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chỉ bị áp dụng một
hình thức xử phạt chính; có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung.
+ Ngoài ra chủ thể phải chịu thêm hình thức xử phạt bổ sung như: Buộc khôi phục lại tình trạng
ban đầu; Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng
không đúng với giấy phép; Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,
lây lan dịch bệnh; Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái
xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện; Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe
con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại.

Tình huống 6: Công an thành phố Vĩnh Yên (tỉnh Vĩnh Phúc) cho biết, đêm 15/10 và sáng ngày
16/10, lực lượng Công an thành phố cùng các đơn vị nghiệp vụ đã tổ chức ngăn chặn việc đua xe
trái phép; đồng thời bao vây, truy bắt trên 20 đối tượng đua xe máy với tốc độ cao, nẹt pô, lạng
lách đánh võng, bấm còi inh ỏi, … tại thành phố Vĩnh Yên.
Theo đó, vụ việc xảy ra ngay sau trận đấu giữa đội tuyển Việt Nam và đội tuyển Indonesia tại
Vòng loại thứ hai World Cup 2022 khu vực châu Á.
Trước tình hình trên, Công an thành phố Vĩnh Yên cùng các đơn vị nghiệp vụ Công an tỉnh Vĩnh
Phúc đã bố trí thành nhiều nhóm, tổ công tác, tổ chức bao vây theo kế hoạch.
Đến 23h30’ cùng ngày, lực lượng chức năng đã bắt giữ trên 20 đối tượng đua xe máy trái phép;
thu giữ 20 phương tiện đưa về trụ sở để điều tra, xử lý, đảm bảo giao thông an toàn trên địa bàn
thành phố Vĩnh Yên.
Câu hỏi:

1. Hành vi đua xe trái phép của nhóm đối tượng vi phạm pháp luật nào?
2. Nhóm đối tượng phải chịu những trách nhiệm pháp lí cụ thể nào?

Trả lời
1. Điều 8 Luật giao thông đường bộ 2008 nghiêm cấm các hành vi:
6. Đua xe, cổ vũ đua xe, đua xe trái phép, lạng lách, đánh võng.
24


Như vậy, người tham gia giao thông không được đua xe, cổ vũ đua xe, tổ chức đua xe trái phép.
2. Xử phạt hành chính hành vi đua xe trái phép:
Trường hợp vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính theo điều 34, Nghị định 46/2016/NĐ - CP
Điều 34. Xử phạt người đua xe trái phép, cổ vũ đua xe trái phép
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau
đây:
a) Tụ tập để cổ vũ, kích động hành vi điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định, lạng lách, đánh
võng, đuổi nhau trên đường hoặc đua xe trái phép;
b) Đua xe đạp, đua xe đạp máy, đua xe xích lô, đua xe súc vật kéo, cưỡi súc vật chạy đua trái
phép trên đường giao thông.
2. Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với người đua xe mô tô, xe gắn máy, xe
máy điện trái phép.
3. Phạt tiền từ 8.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với người đua xe ô tô trái phép.
4. Ngoài việc bị phạt tiền, người điều khiển phương tiện thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp
dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Thực hiện hành vi quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này bị tịch thu phương tiện (trừ súc vật
kéo, cưỡi);
b) Thực hiện hành vi quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều này bị tước quyền sử dụng Giấy phép
lái xe từ 03 tháng đến 05 tháng và tịch thu phương tiện.
Như vậy: Theo quy định của pháp luật, người đua xe mô tô, xe gắn máy, xe máy điện bị phạt
tiền từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng.

Ngoài việc bị phạt tiền với lỗi đua xe trái phép, người tham gia đua xe trái phép còn bị tước
quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 3 tháng đến 5 tháng và tịch thu phương tiện
Bên cạnh đó, người tham gia đua xe trai phép có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội
"Đua xe trái phép" và tội "tội tổ chức đua xe trái phép" của Bộ luật hình sự 2015 nếu hành vi
trên đủ điều kiện để cấu thành các tội theo quy định.
*. Vi phạm dân sự
- Kiến thức cơ bản
+ KN: Là hành vi xâm phạm vào quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản (quan hệ sở hữu, quan hệ
hợp đồng), quan hệ nhân thân (liên quan đến các quyền nhân thân không thể chuyển giao cho
người khác như: quyền họ tên, quyền khai sinh, bí mật đời tư, quyền xác đinh lại giới tính).
+ Quan hệ về tài sản: Vi phạm hợp đồng lao động, hợp đồng mua - bán hàng hóa, quan hệ về sở
hữu tài sản (thuê, mướn, cho vay, thừa kế, vi phạm bản quyền)
+ Quan hệ nhân thân: Vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền họ tên, giới tính, bí mật đời tư
Công dân đủ 6 tuổi đến dưới 18 tham gia dân sự phải có người giám hộ. Quyền và nghĩa vụ hay
trách nhiệm dân sự phát sinh người giám hộ xác lập và thực hiện.
- Kiến thức mở rộng
+ Hành vi dân sự là hành vi của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác trong các quan hệ tài
sản và các quan hệ nhân thân phi tài sản có liên quan đến quan hệ tài sản nhằm làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Điều 302 Bộ luật Dân sự. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự
25


×